Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế Gia Long (quyển 17 – 60)

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển XVII – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Nhâm tuất, năm Gia Long thứ 1 [1802], mùa hạ, tháng 5, ngày mồng 1 Canh ngọ, lập đàn ở đồng An Ninh hợp tế trời đất cáo về việc đặt niên hiệu.

Ngày Tân mùi, kính cáo vong linh liệt thánh [tổ tiên]. Làm lễ xong, vua ngự ở điện, nhận lễ chầu mừng. Đặt niên hiệu là Gia Long, đại xá cho cả nước.

Chiếu rằng : “Ta nghe kinh Xuân thu trọng nghĩa nhất thống là để chính danh nghĩa khi mở đầu. Từ Tiên Thái vương ta dựng nền ở miền Nam, thần truyền thánh nối đã 200 năm. Gần đây Tây Sơn nổi loạn, vận nhà Lê đã hết, hơn vài mươi năm trong nước không có chính thống. Ta phải xiêu dạt một nơi, rất lo nghĩ về miếu xã và sinh dân. Nằm gai nếm mật, mong sao cho được yên vui. Năm Canh tý ta mới ở thành Gia Định, được các tướng sĩ suy tôn, đã lên ngôi vương để giữ lòng người. Duy đô cũ chưa phục, nên còn theo niên hiệu cũ. Nay ơn trời giúp đỡ, các thánh để Phước, bờ cõi cũ đã lấy lại, cơ nghiệp xưa đã trở về, các quan văn võ tại triều dâng sớ chương khuyên ta lên ngôi hoàng đế và đổi niên hiệu. Nhưng ta nghĩ rằng giống giặc chưa trừ xong, đất nước chưa thống nhất, không nên vội lên ngôi tôn. Duy cứ theo niên hiệu đã qua mà thi hành những lệnh đổi mới thì không phải là nêu rõ được khuôn phép. Vậy nên chuẩn lời xin đặt niên hiệu mới, định lấy ngày mồng 1 tháng 5 năm nay kính cáo trời đất, ngày hôm sau kính cáo liệt thánh, chép niên hiệu là Gia Long, để thống nhất kỷ cương, làm mới tai mắt. Vậy xuống 6 điều ân điển :

1. Những số tiền thóc thuế nhà nước còn lưu khiếm ở dân từ tháng 12 năm Tân dậu trở về trước đều tha cả.

2. Lệnh xá đến ngày nào thì số tiền thóc nhà nước các nha còn thiếu đều tha cả.

3. Những tù hiện đương bị giam, không kể đã xử án hay chưa xử án, đều được tha hết, duy kẻ giết người và kẻ đầu đảng kẻ cướp thì không tha.

4. Phàm số tiền thuế sai dư của các dân chính hộ, khách hộ, biệt nạp và các sắc thuộc quân từ năm Quý hợi trở về sau, thì cho giảm 2 phần 10.

5 – 6. Các hạng thóc đồn điền, lĩnh láng, lĩnh thâm, dầu rái, than gỗ, sáp ong, vải trắng, dầu lạc, nhựa trám, buồm lá và hết thảy các thứ thuế vặt, từ năm Quý hợi trở về sau, đều được giảm 2 phần 10.

Ôi ! Hiệu lớn ban ra, đã cùng thiên hạ mà đổi mới ; đổi mà giữ tín, để giữ cơ đồ khó chuyển lay”.

Từ nay những cáo dụ mệnh lệnh đều dùng chữ chiếu (Đầu tờ giấy dùng ấn “Thủ tín thiên hạ, văn võ quyền hành”) trong ngoài dâng chương sớ đều dùng chữ tấu. (Phàm các chương sớ đều phải tuyên đọc ở trước mặt vua, đợi được chuẩn y mới thi hành).

Thưởng cho các quân thủy bộ. Chiếu rằng : “Bàn công để thưởng, đó là phép thường của nước. Bọn các ngươi ra trận đánh giặc, công lao khó nhọc ta đã thấy rõ. Nay là buổi đầu lấy lại kinh thành, trước hết hãy thưởng cho bọn ngươi 1.000 lạng vàng, 10.000 lạng bạc, 30.000 quan tiền để khuyến khích. Còn người có công trạng đợi sau sẽ thưởng”. Thế rồi thống quản các dinh quân đem danh sách dâng lên, thăng thụ cho các thống chế, thống đồn, chưởng cơ, cai cơ, cai đội, phó đội, đội trưởng, tham quân, tham luận, cai án, thư ký, tri bạ, cai hợp, theo thứ bực khác nhau.

Ban ấn cho Quốc thúc quận công Tôn Thất Thăng (ấn khắc chữ triện “Quốc thúc chi ấn”).

Phong Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Nhơn, Phạm Văn Nhơn tước Quận công.

Cho Đô thống chế Tả dinh quân Thần sách là Lê Văn Duyệt là Khâm sai chưởng Tả quân bình Tây tướng quân, đổi Tả đồn quân Ngự lâm làm Hậu quân, cho Lê Chất làm Khâm sai chưởng Hậu quân bình Tây tướng quân.

Đổi Tả quân cũ làm Chấn võ quân cho Nguyễn Văn Nhơn phụ trách, Hậu quân cũ là Thần võ quân cho Phạm Văn Nhơn phụ trách.

Lấy Lê Văn Phong làm Đô thống chế Tả dinh quân Thần sách, Võ Doãn Văn làm Phó đô thống chế, Phan Văn Đức làm Phó tướng Tả quân, Võ Đình Duyên làm Phó tướng Hậu quân, Lê Tiến Sâm làm Phó tướng Chấn võ quân, Trần Quang Thái làm Phó tướng Thần võ quân, Nguyễn Văn Xuân làm chánh thống Hữu đồn Tả quân, Trương Phước Phương làm chánh thống Hậu đồn, Nguyễn Văn Thống làm phó thống Trung đồn, Lê Văn Niệm làm chánh thống Tiền đồn Hậu quân, Mai Gia Cương làm chánh thống Hậu đồn (Trương Phước Phương là cháu bốn đời của Tả phủ đô đốc quận công Trương Phước Thức)

Trước kia Bình Định bị vây, chánh trưởng chi Trung chi Tiền quân là Ngô Văn Tôn và chánh trưởng chi Hậu chi Hậu quân là Trần Tiến Voi đầu hàng giặc, tới nay việc đã yên, sai cho đình thần nghị tội, chém để rao cho công chúng.

Tiết Đoan dương, vua ngự ở điện, nhận lễ chầu mừng.

Lấy Tả tham tri Lại bộ là Phạm Ngọc Uẩn làm Binh bộ.

Sai Nguyễn Huỳnh Đức làm án trấn trấn dinh Quy Nhơn, Nguyễn Hoài Quỳnh làm Hiệp trấn kiêm lãnh hai dinh Phú Yên và Quảng Ngãi, lấy Nguyễn Văn Hiếu làm Phó tướng Hữu quân, theo làm việc công ở trấn.

Bọn Huỳnh Đức dâng sớ cử sáu người có thể bổ làm huyện lệnh, xin bổ Tri huyện ba huyện Bồng Sơn, Phù Ly (sau chia làm Phù Mỹ, Phù Cát) và Tuy Viễn (sau chia làm Tuy Viễn và Tuy Phước). Vua y cho.

Lấy Cai cơ Nguyễn Văn Sĩ làm Phó quản dinh Tiền thủy, Nguyễn Thoại làm Phó quản dinh Hậu thủy, Lê Văn Tấn làm Vệ úy vệ Hổ uy, Nguyễn Văn Khương làm Vệ úy vệ Diệu võ, Phạm Văn Châu làm Phó vệ úy vệ Thần võ.

Người nước Thanh là Triệu Đại Sĩ (1. Có lẽ là Đại Nhậm, vì húy Tự Đức nên viết nhậm thành sĩ.) từ Quảng Đông về. Vua hỏi sự thể nước Thanh, rồi sai Binh bộ hậu cấp lương cho.

Cho Vệ úy vệ Uy võ là Nguyễn Văn Soạn làm Khâm sai thuộc nội chưởng cơ, cai cơ vệ Ban trực hữu là Đoàn Văn Trương làm Khâm sai thuộc nội cai cơ, Phó vệ úy là Huỳnh Văn Viễn làm tham quân Hữu dinh quân Thần sách, Tham luận là Nguyễn Văn Thạc làm Tham quân tượng dinh.

Sai Cai đội Nguyễn Thành giữ kho thuốc súng, kiêm quản các đội An công.

Cho Thống quản đồn Xiêm binh là Nguyễn Văn Tồn làm Cai cơ, sở thuộc là bọn Nguyễn Văn Điền hơn 200 người đều được trao chức cai đội, phó đội, đội trưởng theo thứ bậc khác nhau.

Sai Khâm sai cai cơ Phạm Văn Nhơn làm thủ ngự hai nguồn Thạch Bàn và Quy Hóa (thuộc tỉnh Bình Định), chia đặt đồn bảo để ngăn bọn ác man.

Ban cấp sắc thị cho các viên biền (1. Viên biền : Gọi chung các quan võ và nhân viên trong quân đội.) các dinh quận. Trước kia các tướng sĩ theo việc quân chỉ cấp cho chỉ sai, chỉ truyền và công đồng phó, cho lệ theo các dinh quân sai khiến, đến nay chưởng lãnh quan đệ danh sách tâu xin cấp cho sắc son và thị son.

Sai Phó vệ úy vệ Kiên võ là Hoàng Vĩnh mộ dân ngoại tịch ở Gia Định lập làm đội Thanh Châu để đi tuần các cửa biển.

Sai bọn Tham luận Nguyễn Văn Thịnh và Cai hợp Võ Xuân Lý giữ các cửa biển Kim Bồng, An Dụ, Hà Ra, Tham luận Loan Đức Lợi trông nom thuế đầm, các đồn Hải Hạc và Hải Đông.

Lấy Vệ úy vệ Túc uy là Lê Văn Tường làm Vệ úy vệ Hữu nhị Thị trung dinh Túc trực, Vệ úy vệ Kham võ là Nguyễn Đức Thu làm Vệ úy vệ Tả nhị, Cai cơ Hữu chi đạo ứng nghĩa là Phạm Hữu Tâm làm Khâm sai cai cơ.

Vua muốn thu dụng nhân tài, hạ lệnh cho các bộ viện đều đề cử những người mình biết để bổ vào các ty ở bộ và các viện Hàn lâm và Thị thư, Những cống sĩ và hàng quan ai có tài dùng được cũng bổ vào các ty ở bộ.

Lấy bọn Lê Đắc Tần, Lê Chính Lộ, Nguyễn Đăng Đệ, Đoàn Đại Thận, Nguyễn Xuân Tình làm Thiêm sự Lại bộ, Nguyễn Viết Cơ, Trương Chí Lý, Đào Văn Lễ, Trần Minh Nghĩa, Nguyễn Đình Chất, Lê Công Bật, Hoàng Trọng Mộ làm Thiêm sự Binh bộ, Trần Quốc Cao, Trần Bá Bảo làm Thiêm sự Hình bộ.

Lấy bọn Trần Quang Mân, Nguyễn Hữu Thận, Võ Tiến Ngôn, Nguyễn Đăng Cơ làm Hàn lâm viện chế cáo ; Thái Văn Nguyên, Nguyễn Kim Phương, Phan Đức Hiến, Hoàng Đường, Nguyễn Văn Công, Võ Doãn Thiếp, Nguyễn Đăng Thiệp, Nguyễn Công Trực, Nguyễn Đức Đàm, Võ Xuân Biều, Trần Duy Điển, Đoàn Đức Khánh, Đinh Khắc Lộc, Nguyễn Công Túc, Nguyễn Đăng Tuân, Dương Công Thiệu, Trần Đình Điều, Mai Đức Giai, Lê Văn Quyền, Nguyễn Viết Phú, Võ Thế Chương, Ngô Văn Uyển, Hoàng Kim Hoán, Nguyễn Đức Tư, Huỳnh Văn Phiến, Huỳnh Văn Vận, Võ Xuân Cẩn, Lê Quang Thực, Nguyễn Văn Biểu, Lê Minh Huy sung Hàn lâm viện (Kim Hoán là con xử sĩ Hoàng Quang ở Thai Dương).

Lấy Thị thư viện phụng chỉ là Trương Minh Thành làm Hàn lâm viện thị thư phụng chỉ kiêm Thượng bảo khanh, bọn Thị thư phụng chỉ Trần Đình Trưng, Thị thư Nguyễn Văn Quang, Võ Hữu Hợp, Nguyễn Văn Châu, Nguyễn Văn Huyền làm Hàn lâm viện thừa chỉ, Thị thư Trần Văn Tánh, Trần Viết Bình, Lê Văn Phú, Lê Văn Đồng, Nguyễn Côn Định, Nguyễn Văn Nhiên, Cao Văn Bích, Phạm Ngọc Phong, Võ Văn Tân, Nguyễn Quang Kiều, Công Tuấn, Nguyễn Công Viên, Nguyễn Công Nghiễm làm Hàn lâm viện thị thư.

Sai Phó tuần Hải đô dinh là Hoàng Trung Đồng, quản lãnh các thuyền hiệu Hoàng long, Thanh tước, Xích nhạn, vận chở các hạng tiền thóc gang thiếc ở Gia Định đến kinh.

Thả quân sở bộ của Cao La Hâm Sâm về nước, cho 30 lạng vàng, 300 lạng bạc, 3.000 quan tiền. Trước kia Sâm theo đi đánh giặc, ngầm gửi thư cho tướng giặc là Trần Quang Diệu, vua bắt được, để đấy mà vẫn cấp cho thêm hậu, để cho yên lòng. Đến đây yên ủi cho về.

Định lệ cấp ruộng lương và ruộng khẩu phần cho quan quân dinh Quảng Đức. Phàm quan quân theo việc binh thì mỗi người cấp một mẫu ruộng lương, ruộng khẩu phần thì theo lệ. Ai bị thương về quê cũng được cấp như thế. Ai bị chết trận hay chết bệnh thì cho vợ con cấy ăn một năm. Quan quân giặc quy thuận đã có sắc thị thì cũng được cấp như quan quân, chưa có sắc thị thì coi như hạng dân, bị bệnh thải về thì coi như hạng lão, ngoài ra ruộng lương của quan quân ngụy thì trả lại dân, người đã chết rồi thì vợ con được cấp như lệ cô quả, người bị bệnh về quê thì được cấp theo hạng tàn tật.

Nguồn Quang Hóa ở Gia Định sản nhiều gỗ, mỗi khi đóng thuyền, thường sai dân đội Mộc đĩnh đi tìm đem nộp, lên xuống khe suối, sức người rất khó nhọc. Vua hạ lệnh lấy trâu làm thay, phát ra 3.000 quan tiền mua 300 con trâu để kéo. Dân khen là tiện.

Vua cùng bầy tôi bàn việc thông sứ với nước Thanh. Dụ rằng : “Nước ta tuy cũ nhưng mệnh đã đổi mới. Nghĩa lớn phục thù, người Thanh còn chưa hiểu rõ. Gần đây thủy binh ta bị bão, người Thanh hậu đãi cho về, ta chưa có gì đáp lại. Nay bắt được ấn sách của giặc Tây Sơn là do nhà Thanh phong cho, bắt được giặc biển, cũng là giặc trốn của nhà Thanh, ta có thể sai người đưa sang trả trước và đem việc Bắc phạt báo cho họ, đợi khi bình định được Bắc Hà sẽ nối lại việc bang giao cũ thì khéo hơn. Các khanh nên chọn người có thể sai đi được”. Quần thần đều cử Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tĩnh và Hoàng Ngọc Uẩn. Vua cho là phải.

Lấy Trịnh Hoài Đức làm Thượng thư Hộ bộ (Chính khanh ở lục bộ chưa có danh hiệu là thượng thư, nhân có mệnh đi sứ nên mới đặc gia chức ấy), sung chánh sứ sang nước Thanh, Ngô Nhơn Tĩnh làm Hữu tham tri Binh bộ, Hoàng Ngọc Uẩn làm Hữu tham tri Hình bộ sung chức phó sứ, đem quốc thư và phẩm vật, lại đem cả ấn sách đã bắt được do người Thanh phong cho giặc Tây Sơn, cùng bọn giặc biển Tề Ngôi là Mạc Quang Phù, Lương Văn Canh, Phàn Văn Tài, đi hai thuyền Bạch yến và Huyền hạc, vượt biển đến cửa Hổ Môn tỉnh Quảng Đông để nộp. Tổng đốc Giác La Cát Khánh đem việc ấy chuyển đạt. Vua Thanh vốn ghét giặc Tây Sơn vô đạo, lại chiêu nạp bọn Mạc Quang Phù cho cướp bóc ở ngoài biên, đã lâu ngăn trở đường biển, đến nay được tin báo, rất vui lòng. Hạ lệnh cho Quảng Đông nhận lấy bọn Quang Phù, Văn Canh, Văn Tài đem giết, mà lưu bọn Hoài Đức ở lại tỉnh thành, cung cấp rất hậu.

Vua sắp cử đại binh Bắc phạt, truyền hịch dụ quân dân Bắc Hà sáu điều, đại lược nói :

“Nghĩa lớn kinh Xuân thu không gì lớn bằng trả thù, mà quân của vương giả thì giết loạn thần là việc trước hết. Ngẫm từ khi Tây Sơn gây biến, từ Thuận Quảng ra Bắc, nhân dân khổ sở đã lâu. Ta đây cố chí giết thù là chỉ nghĩ đánh kẻ có tội để cứu dân. Từng đã định nghiêm quân lệnh, khiến mảy may không được phạm của dân. Thế mà còn sợ bọn giả danh mạo chữ, ức hiếp binh dân, làm điều phi pháp, nên xuống dụ này. Bọn ngươi nên dặn bảo nhau, kẻ nào tuân mệnh thì được hậu thưởng, trái mệnh thì giết.

1. Người hào mục mà đánh được đồn giặc và đón bắt được giặc thì lượng công mà thưởng ; ai có lòng hướng thuận, đến nơi quân để ứng nghĩa  thì tùy tài thu dụng.

2. Người dân mà bắt sống được giặc Nguyễn Quang Toản thì cho quan chức nhất phẩm, cấp ruộng 100 mẫu, thuộc binh 100 người ; bắt được các em Quang Toản thì cho chức quan nhị phẩm, cấp ruộng 50 mẫu, thuộc binh 50 người ; bắt được bọn quận công đầu sỏ giặc thì cho chức quan tam phẩm, cấp ruộng 30 mẫu, thuộc binh 30 người. Chém chết được cũng thưởng như thế. Nếu lại dung chứa và dẫn đi, biết được thì sẽ xử theo quân pháp.

3. Người ở Thuận Quảng đều là con đỏ của triều đình, bị giặc Tây Sơn hiếp bách xua đi thú miền Bắc, họ trốn ở chỗ nào sở tại đều nên cho ở và nuôi tử tế, dẫn đến nộp ở trước quân, sẽ lượng gia thưởng. Nếu lại oán mối thảm năm Bính ngọ bị giặc giết ở thành Phú Xuân mà tự tiện giết hay đánh bị thương, và nếu ẩn giấu không giải nộp thì đều xử theo tội nặng.

4. Những sổ sách lương tiền có ai thu giữ cẩn thận, đợi khi xong việc đem nộp thì tất có trọng thưởng. Nếu dám đốt phá cướp bóc là phạm quân pháp.

5. Bọn côn đồ vô lại mặc giả quân nhân tự tiện vào nhà dân cướp bóc thì cho xã dân sở tại bắt giải, nếu thế lực không thể bắt được thì cho đến cửa quân trình bày để bắt xét trị.

6. Đại binh tới đâu, hào mục địa phương biết được tình hình hư thực của giặc mà đến trình bày thì có khen thưởng. Nếu không nói thực và còn dung ẩn bọn giặc thì xử theo quân pháp”.

Đại duyệt các quân thủy bộ. Định rõ tám điều quân chính.

Dụ rằng : “Đạo dùng binh là cốt dẹp giặc yên dân. Trước đã ban bảo những điều quân chính, nghiêm mật cấm răn. Nay trẫm tự mình đốc suất tướng sĩ, thẳng tiến Bắc Hà để tiêu trừ giặc Tây Sơn, cần phải nêu rõ hiệu lệnh cho nghiêm việc quân. Tướng sĩ các ngươi phải ráo riết tuân theo.

1. Quan quân mà bắt hay chém được giặc Nguyễn Quang Toản và những đầu sỏ thì được thưởng như trong lời hịch trước.

2. Bọn giặc đầu hàng và bị bắt sống, trước phải gạn hỏi tình hình hư thực của giặc rồi giải đến hành tại chờ lệnh, không được tự tiện bổ vào quân mình, để khỏi lỡ việc.

3. Đại binh tới đâu mà lấy lửa làm hiệu thì nên đốt ở nơi rừng rú rộng rãi, nếu đốt càn nhà dân là phạm quân pháp.

4. Kho tàng sách vở không được đốt cướp, nếu có thu được giấy tờ của giặc về việc quan trọng thì do thống tướng tiến lãm, sẽ lượng gia thưởng.

5. Đại binh tiến đi cần phải mau chóng, người nào ốm không thể đi được thì cho lấy dân ở dọc đường chở đi giúp, ngoài ra không được quấy nhiễu.

6. Đại binh đóng nghỉ nên chiếu theo thứ tự ở đồ bản mà đóng đồn trại, không được tự tiện vào nhà dân. Đạo quân nào lương thực chuyển đến chưa đủ thì cho tạm lấy lương của dân mà phát, phải lưu phái tích làm bằng để đợi sau chiếu trừ.

7. Hào mục địa phương có ai thành tâm xin theo giúp việc đều do thống tướng chuyển tâu, tùy việc sai khiến, không được thiện tiện cấp phát văn bằng và gọi mộ binh lương mà sinh rối tệ. Duy xã dân có xin chiêu an thì xét thực cấp bằng để khỏi rối động.

8. Các quân đến địa phương nào, không được cướp bóc của cải, gian dâm phụ nữ, ai phạm thì trị tội nặng”.

Sai các địa phương Quảng Đức, Quảng Trị, Quảng Bình sửa sang hành cung và cầu cống đường sá.

Sai Chưởng Trung quân bình Tây đại tướng quân Nguyễn Văn Trương lãnh thủy binh, Chưởng Tả quân bình Tây tướng quân Lê Văn Duyệt và Chưởng Hậu quân bình Tây tướng quân Lê Chất lãnh bộ binh đi trước. Khi bệ từ, vua dụ rằng : “Quân ra phải có luật, đến đâu phải cấm ngặt quân sĩ, không được cướp bóc, kẻ nào trái cho được chém trước tâu sau để nghiêm quân lệnh”.

Sai Tham tri Hộ bộ Nguyễn Hữu Đồng chở gạo lương ra Thanh Hà trước để cấp cho quân.

Sai chọn hai thớt voi ngự lấy xuyến vàng trang sức.

Ngày Đinh hợi, đem việc Bắc phạt kính cáo liệt thánh. Mệnh cho Quốc thúc quận công Tôn Thất Thăng cùng Đô thống chế dinh Túc trực là Nguyễn Văn Khiêm, và Tả tham tri Hình bộ là Nguyễn Đăng Hựu ở lại giữ kinh đô, cho được tiện nghi làm việc.

Thăng Trần Văn Tín làm Đô thống chế, sai quản 10 vệ Thị trung dinh Túc trực đi theo hầu.

Ngày Canh dần, xa giá phát tự Kinh sư. Hoàng tử thứ tư đi theo. Ngày Nhâm thìn, xa giá đến An Lạc (tên đất thuộc tỉnh Quảng Trị). Tên Tứ ở đội Nội hầu nạt bắt dân đệ trạm, vua nghe tin, lập tức đem chém để rao. Quân Thần võ đi trước cũng có kẻ phạm tội ấy, bị Cai bạ Trần Văn Tuân hặc. Vua vời Phó tướng Trần Quang Thái trách rằng : “Quân đi đã có kỷ luật, ngươi làm tướng không ngăn cấm được quân lính, tội đáng chết. Nhưng vì mới phạm lần đầu, hãy tha cho”. Rồi sai đánh roi đau. Do đó các quân đều nghiêm, không ai dám phạm mảy may [của dân].

Ngày ất mùi, đến hành cung Động Hải. Sai Thủ thần Quảng Bình chia quân đóng đồn ở các đường hiểm yếu.

Lại sai Tống Phước Lương đi trước thăm dò tình hình giặc mà báo lên.

Ngày  Bính dần, đến hành cung Thanh Hà, phân phái các tướng :

Sai Đặng Trần Thường đem quân bản bộ ngầm theo đường thượng đạo đánh úp Hoành Sơn để chặn đường sau lưng giặc ; Nguyễn Văn Trương điều bát thủy binh giã vào lòng giặc ; Lê Văn Duyệt điều bát bộ binh theo đường trung đạo thẳng tiến, xông đánh vào trước mặt giặc ; Nguyễn Đức Xuyên đem quân voi do miền đầu nguồn sang sông [Gianh] để chờ sai phái; tham quân Thần sách là Nguyễn Trí Hòa lưu giữ châu Bố Chính ngoại ; Tham tri Hộ bộ là Nguyễn Hữu Đồng kiểm duyệt các thuyền chở gạo lương để tiếp tế lương quân.

Thủy binh của Nguyễn Văn Trương đến cửa Ròn, đánh phá được đồn thủy của giặc, đô đốc giặc là Nguyễn Văn Ngũ và Nguyễn Văn Lục thua chạy. Văn Trương lại tiến lấy được dinh Hà Trung.

Bộ binh của Lê Văn Duyệt thẳng đến đồn Đại Nại, quân giặc vỡ chạy. Tin thắng trận báo lên. Vua đốc các quân sang sông Gianh tiến ra.

Tháng 6, ngày Canh tý, xa giá dừng ở dinh Hà Trung. Sai các đội Tả mã Tiểu hầu đi trước sửa sang các nhà trạm.

Thủy binh tiến vào cửa biển Hội Thống, đánh phá được đổng lý giặc là Nguyễn Văn Thận, bắt được thuyền ghe, súng ống, khí giới, lương xướng rất nhiều. Bộ binh tiến đến trấn Nghệ An, bắt được tên Lân là con giặc Nguyễn Văn Nhạc, thừa thắng tới đồn Tiên Lý (thuộc phủ Diễn Châu). Đô đốc giặc là Y (không rõ họ) đem bộ khúc đến đầu hàng. Trên cả đường Nghệ An không ai dám chống quân nhà vua. Vua nghe tin, giục giã tiến lên. Từ Kỳ Hoa trở ra dân đều đón đường rước mừng.

Ngày Quý mão, xa giá đến thành trấn Nghệ An dừng lại. Duyệt các thuyền ghe, xét số quân, kiểm lương thực, đo dặm đường, trong khoảng vài ngày mọi việc đều xong.

Bọn Thiếu úy giặc là Đặng Văn Đằng, Đô đốc là Đào Văn Hổ đem

7 thớt voi đực đến hành tại lạy xin đầu hàng. Quân tiền đạo tiến lấy Thanh Hoa, bắt được con giặc Nguyễn Văn Huệ là đốc trấn Quang Bàn, Đổng lý giặc là Nguyễn Văn Thận cùng 9 người bộ khúc ; Tư mã giặc là Nguyễn Văn Tư nghe tin đem quân đêm trốn đi.

Triệu tán lý thượng đạo là Đặng Trần Thường đến hành tại bàn việc binh. Sai Đô thống chế Phan Tấn Huỳnh thay lãnh quân thượng đạo. Trần Thường đến, dâng những tù bắt được là tên Thất con Nguyễn Văn Huệ, Tham đốc Phạm Văn Điềm, Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ. Sai đem giết.

Huỳnh Văn Toản, Trịnh Ngọc Trí là Tôn Thất Liêm rước xa giá Từ cung đến kinh thành. Sai Phó đội Nội mã là Lê Văn Đặng đến hành tại tâu báo. Vua rất mừng rỡ, sai sứ về xin thăm sức khỏe.

Phó đô thống chế Tả dinh là Võ Doãn Văn và chánh thống Tiền đồn là Lê Đức Định bắt được Thiếu phó giặc là Trần Quang Diệu ở miền thượng đạo Nghệ An. Diệu từ Quy Nhơn đem đồ đảng chạy trốn, chui rừng lội suối, gặp các sách Man có ai ngăn giữ thì ra sức đánh gỡ mà qua, trong khoảng vài tháng lương thực cạn hết, quân lính hao tan. Đến sách Quy Hợp, chợt gặp quan quân, tướng sĩ giặc đều mỏi, không thể đánh được. Diệu bèn bị bắt. Bắt được đồ đảng là bọn Từ Văn Chiêu, Nguyễn Văn Giáp, Lê Văn Hưng, Nguyễn Văn Mân và 76 thớt voi đực. Tin thắng trận báo lên. Vua sai Lê Văn Duyệt đóng xiềng giam lại, dặn không được tự tiện giết. Sau Văn Chiêu ốm, sai giết.

Ngày Canh tuất, xa giá đi từ Nghệ An. Sai Đặng Trần Thường ở lại chống giữ.

Thu các thứ thuế đinh điền quan tân và sản vật ở Nghệ An.

Chiếu rằng : “Trấn các ngươi gặp loạn Tây Sơn, thuế má dao dịch nặng nề, nỗi đau khổ ấy trẫm đã rõ cả. Nay trẫm kính mang uy trời, cứu dân đánh kẻ có tội, chính muốn đem khoan hồng thay cho bạo ngược để yên lòng mong đợi của dân. Nhưng nay đại quân tiến ra mà đường thủy bộ vận lương đều khó, nên thuế khóa hãy tạm theo lệ năm Tân dậu mà thu để cấp lương quân, đó là việc bất đắc dĩ. Đợi sau công việc yên rồi, sẽ có ân điển rộng rãi để đỡ khổ cho dân”.

Ngày Quý sửu, xa giá đến Thanh Hoa, dạo xem hình thế sông núi rồi vời những người già ở làng Bố Vệ (thuộc huyện Đông Sơn) hỏi về sự tích cũ miếu nhà Lê. Những người dòng dõi họ Lê tranh nhau đem trâu rượu đến lạy mừng. Vua yên ủi rồi cho về.

Bọn Phạm Ngọc Phác, Phạm Ngọc Thoại 19 người là dân làng Ngọ Xá (thuộc huyện Nông Cống) bắt được tư đồ giặc là Võ Văn Dũng và 3 người đồ đảng, giải đến hành tại. Sai đóng xiềng giam lại.

Hoãn binh dao tô thuế cho Thanh Hoa. Chiếu rằng : “Thanh Hoa là ấp thang mộc của trẫm. Trước vì Tây Sơn tàn ngược, thuế nhiều dịch nặng, dân phần nhiều xiêu dạt. Nay mới khôi phục, nghĩ đất căn bản cần phải vỗ về nuôi nấng trước, nên đặc biệt chuẩn cho phàm binh dao tô thuế đều hoãn, gọi dân trở về để đều yên nghiệp làm ăn, cùng nhau hưởng Phước thái bình”.

Phong cho Nguyễn Đức Xuyên tước Quận công, lãnh Đốc trấn Thanh Hoa, lấy Tham tri Binh bộ là Võ Danh Trung làm Hiệp trấn, Thiêm sự Lại bộ là Lê Đắc Tần làm Tham hiệp.

Lê Văn Duyệt tiến đánh lấy được đồn Tam Điệp [Ba Dội], thẳng tới trấn Thanh Hoa ngoại (tức tỉnh Ninh Bình ngày nay). Đô đốc giặc là Tài (không rõ họ) đầu hàng.

Ngày Bính thìn, xa giá đến trấn Thanh Hoa ngoại, phát tiền kho chia cho các quân, sai Phạm Văn Nhơn ở lại trấn giữ.

Thủy binh của Nguyễn Văn Trương đến trấn Sơn Nam hạ. Bọn giặc biển là ngụy thống binh Dương Thất Nguyên, Ngô Tam Đồng lên bộ để chống đánh. Văn Trương gấp vẫy quân giáp đánh, bắt được. Đô đốc giặc là Thọ, Hiệp trấn là Xuân (đều không rõ họ) nộp thành đầu hàng. Sai Văn Trương ở lại trấn giữ.

Ngày Đinh tỵ, xa giá đến trấn Sơn Nam thượng (nay thuộc tỉnh Hà Nội). Đô đốc giặc là Lê Văn Hòa, Hiệp trấn là Tín (không rõ họ) đến quân thứ đầu hàng. Sai phó tướng Tả quân là Nguyễn Đình Đắc ở lại trấn giữ.

Ngày Canh thân, xa giá đến thành Thăng Long (nay là tỉnh lỵ Hà Nội). Giặc Nguyễn Quang Toản đã bỏ thành chạy trước cùng với em là Quang Thùy, Quang Duy, Quang Thiệu và bọn Tư mã Nguyễn Văn Dụng, Nguyễn Văn Tứ qua sông Nhĩ Hà đến sông Xương Giang (thuộc tỉnh Bắc Ninh), đêm trú ở chùa Thọ Xương. Dân thôn mưu cướp. Quân đi theo đều tan. Quang Thùy tự thắt cổ chết ; Quang Toản, Quang Duy, Quang Thiệu, Văn Dụng, Văn Tứ tìm đường trốn chạy, đều bị thôn dân bắt được. Binh đuổi theo của Tả quân chợt đến, đóng cũi đưa về Thăng Long.

Giặc Tây Sơn dẹp yên hết, lấy hết đất An Nam, tất cả 14 trấn, 47 phủ, 187 huyện, 40 châu. (Trấn Nghệ An 9 phủ là Đức Quang, Diễn Châu, Hà Hoa, Anh Đô, Trà Lân, Quỳ Châu, Trấn Ninh, Lâm An, Ngọc Ma, 18 huyện là Hương Sơn, Nghi Xuân, Thanh Chương, La Sơn, Chân Lộc, Thiên Lộc, Đông Thành, Quỳnh Lưu, Kỳ Hoa, Thạch Hà, Nam Đường, Hưng Nguyên, Tương Dương, Vĩnh Hòa, Hội Nguyên, Kỳ Sơn, Thúy Vân, Trung Sơn. Trấn Thanh Hoa 4 phủ là Hà Trung, Tĩnh Gia, Thanh Đô, Thiệu Thiên, 16 huyện là Tống Sơn, Hoằng Hóa, Phong Lộc, Nga Sơn, Nông Cống, Ngọc Sơn, Quảng Xương, Thọ Xuân, Đông Sơn, Yên Định, Quảng Bình, Thạch Thành, Cẩm Thủy, Vĩnh Lộc, Lôi Dương, Thụy Nguyên,

3 châu là Quan Da, Lang Chánh, Tàm. Trấn Thanh Hoa ngoại 2 phủ là Trường Yên, Thiên Quan, 6 huyện là Yên Khang, Yên Mô, Gia Viễn, Yên Hóa, Phụng Hóa, Lạc Thổ. Bắc Thành 1 phủ là Phụng Thiên, 2 huyện là Thọ Xương, Quảng Đức. Trấn Sơn Nam thượng 4 phủ là Thường Tín, ứng Thiên, Khoái Châu, Lỵ Nhơn, 17 huyện là Thanh Trì, Thượng Phước, Phú Xuyên, Thanh Oai, Chương Đức, Sơn Minh, Hoài An, Đông Yên, Kim Động, Tiên Lữ, Phù Dung, Thiên Thi, Kim Bảng, Duy Tiên, Nam Xang, Bình Lục, Thanh Liêm. Trấn Sơn Nam hạ 5 phủ là Thiên Trường, Tiên Hưng, Thái Ninh, Kiến Xương, Nghĩa Hưng, 19 huyện là Mỹ Lộc, Thượng Nguyên, Nam Chân, Giao Thủy, Thần Khê, Ngự Thiên, Thanh Quan, Diên Hà, Đông Quan, Phụ Dực, Quỳnh Côi, Thụy Anh, Thư Trì, Vũ Tiên, Chân Định, Thiên Bản, ý Yên, Đại An, Vọng Doanh. Trấn Kinh Bắc 4 phủ là Thuận An, Từ Sơn, Lạng Giang, Bắc Hà, 20 huyện là Gia Lâm, Văn Giang, Gia Định, Siêu Loại, Lang Tài, Đông Ngàn, Yên Phong, Tiên Du, Quế Dương, Võ Giàng, Yên Dũng, Yên Thế, Bảo Lộc, Phượng Nhãn, Lục Ngạn, Hữu Lũng, Kim Hoa, Yên Việt, Hiệp Hòa, Thiên Phước. Trấn Hải Dương

4 phủ là Thượng Hồng, Hạ Hồng, Nam Sách, Kinh Môn, 18 huyện là Đường An, Đường Hào, Cẩm Giàng, Thanh Miện, Gia Lộc, Vĩnh Lại, Tứ Kỳ, Thanh Lâm, Thanh Hà, Tiên Minh, Chí Linh, Kim Thành, Giáp Sơn, Đông Triều, Thủy Đường, An Lão, An Dương, Nghi Dương. Trấn Sơn Tây 5 phủ là Quốc Oai, Tam Đới, Quảng Oai, Lâm Thao, Đoan Hùng, 24 huyện là Từ Liêm, Yên Sơn, Đan Phượng, Thạch Thất, Mỹ Lương, Yên Lạc, Yên Lãng, Bạch Hạc, Phù Khang, Lập Thạch, Tiên Phong, Phước Lộc, Minh Nghĩa, Bất Bạt, Sơn Vi, Hạ Hoa, Thanh Ba, Hoa Khê, Tam Nông, Sơn Dương, Tam Dương, Đông Quan, Tây Quan, Đương Đạo. Trấn Tuyên Quang 1 phủ là Yên Bình, 1 huyện là Phước Yên, 5 châu là Đại Man, Thu Vật, Vị Xuyên, Bảo Lạc, Lục Yên. Trấn Hưng Hóa 3 phủ là Quy Hóa, Gia Hưng, An Tây, 4 huyện là Văn Chấn, Yên Lập, Trấn Yên, Thanh Xuyên, 16 châu là Thủy Vĩ, Văn Bàn, Sơn La, Thuận Châu, Tuần Giáo, Mai Sơn, Việt Châu, Ninh Biên, Mộc Châu, Đà Bắc, Mai Châu, Phù Hoa, Chiêu Tấn, Luân Châu, Lai Châu, Quỳnh Nhai. Trấn Cao Bằng 1 phủ là Cao Bằng, 4 châu là Thạch Lâm, Quảng Uyên, Thượng Lang, Hạ Lang. Trấn Lạng Sơn 1 phủ là Trường Khánh, 7 châu là Văn Quan, Thất Tuyền, Văn Uyên, An Bắc, Lộc Bình, Thoát Lãng, Ôn Châu Trấn Thái Nguyên 2 phủ là Phú Bình, Thông Hóa, 9 huyện là Tư Nông, Bình Tuyền, Phổ An, Động Hỉ, Phú Lương, Đại Từ, Văn Lãng, Võ Nhai, Cảm Hóa, 2 châu là Định Hóa, Bạch Thông. Trấn Quảng Yên 1 phủ là Hải Đông, 3 huyện là Hoành Bồ, Yên Hưng, Hoa Phong, 3 châu là Vạn Ninh, Tiên Yên, Vân Đồn. Đức Quang sau đổi làm Đức Thọ, Hà Hoa sau đổi làm Hà Thanh, Anh Đô sau đổi làm Anh Sơn, Trà Lân sau đổi làm Tương Dương, Lâm An sau đổi làm Trấn Tĩnh, Ngọc Ma sau đổi làm Trấn Định, Kỳ Hoa sau đổi làm Kỳ Anh, Trung Sơn sau đổi làm Quế Phong, Thanh Đô sau đổi làm Thọ Xuân, Thiệu Thiên sau đổi làm Thiệu Hóa, Phong Lộc sau đổi làm Hậu Lộc, Quảng Bình sau đổi làm Quảng Địa, Thọ Xuân và Lang Chính sau hợp làm Lang Chánh, Tầm Châu và Quan Da sau hợp làm Quan Hóa, Trường Yên sau đổi làm Yên Khánh, Phụng Thiên sau đổi thành Hoài Đức, Quảng Đức sau đổi làm Vĩnh Thuận, ứng Thiên sau đổi làm ứng Hòa, Lỵ Nhơn sau đổi làm Lý Nhơn, Phù Dung sau đổi làm Phù Cừ, Thái Ninh sau đổi làm Thái Bình, Ngự Thiên sau đổi làm Hưng Nhơn, Vọng Doanh sau đổi làm Phong Doanh, Bắc Hà sau đổi làm Thiên Phước, Gia Định sau đổi làm Gia Bình, Kim Hoa sau đổi làm Kim Anh, Yên Việt sau đổi làm Việt Yên, Thượng Hồng sau đổi làm Bình Giang, Hạ Hồng sau đổi làm Ninh Giang, Tam Đới sau đổi làm Vĩnh Tường, Phù Khang sau đổi làm Phù Ninh, Phước Lộc sau đổi làm Phước Thọ, Hạ Hoa sau đổi làm Hạ Hòa, Hoa Khê sau đổi làm Cẩm Khê, Đông Quan sau đổi làm Hùng Quan, Đại Man sau đổi làm Chiêm Hóa, Thu Vật sau đổi làm Thu Châu, Việt Châu sau đổi làm Yên Châu, Phù Hoa sau đổi làm Phù Yên, Thất Tuyền sau đổi làm Thất Khê, Bình Tuyền sau đổi làm Bình Xuyên, Định Hóa sau đổi làm Định Châu, Hoa Phong sau đổi làm Nghiêu Phong, Bảo Lạc sau chia làm hai huyện Để Định và Vĩnh Điện, Thanh Xuyên sau chia làm hai huyện Thanh Sơn và Thanh Thủy, Cao Bằng sau chia làm hai phủ Hòa An và Trùng Khánh, Hải Đông sau chia làm hai phủ Hải Ninh và Sơn Định).

Ở Bắc Hà từ cuối đời Lê đến nay, lòng người chán loạn lạc, hàng ngày mong chờ quân nhà vua. Nay nghe tin xa giá đến, đều đặt án đốt hương để đón, xa gần dắt cõng nhau đến xem, đông như tường đứng. Chợ không thay đổi cửa hàng, làng xóm yên ổn, nhân dân đều mừng lại thấy cảnh tượng thái bình.

Vua dừng lại ở Thăng Long, ngự ở điện Kính Thiên (do nhà Lê dựng). Bầy tôi chầu mừng.

Xuống chiếu dụ dân Bắc Hà rằng : “Từ khi giặc Tây Sơn nổi loạn, nhân dân lầm than đã lâu. Trẫm nay vâng làm lệnh phạt của trời, trên để trả thù cho tổ tiên đất nước, dưới để cởi bỏ đau khổ cho nhân dân. Nay đại binh tới đâu, chỉ giết những giặc đầu sỏ, còn người nào bị ép phải theo thì đều tha, nên cứ ở yên như cũ. Những kẻ có nhận quan chức của giặc ra thú thì được miễn tội, gần thì hạn 3 ngày, xa thì hạn 5 ngày. Nếu quá hạn mà không ra thú, bị người ta bắt được thì làm tội. Những tàn quân của giặc mang theo binh khí trốn về thì lập tức phải đến cửa quân trao nộp, nếu cất giấu thì xử theo quân pháp”.

Lê Văn Phong đem quân Tiên phong đến Lạng Sơn, Trấn thủ giặc là Huỳnh Văn Kim và Hiệp trấn là Trương Luyện nộp thành đầu hàng. Sai giữ Trương Luyện theo làm các việc văn thư. Đem công việc dẹp giặc Tây Sơn báo với tổng bộ Nam Quan.

Hơn 10 chiếc thuyền hiệu chữ Gia của thủy quân từ cửa Eo ra khơi gặp bão lạc mất. Vua nói : “Các tướng sĩ theo ta khó nhọc, không may gặp phải tai nạn gió bão như thế, ta rất thương. Vậy hạ lệnh cho khổn thần ở Lạng Sơn gửi thư sang nước Thanh hỏi dò tin tức”.

Đem việc dẹp yên Bắc Hà bố cáo cho trong ngoài. Chiếu rằng :

“Từ khi ta lấy lại được Kinh thành, quân giặc chạy ra miền Bắc. Bờ cõi hai trăm năm núi rừng ngăn cách, phong tục đổi thay, 13 đạo thừa tuyên như nước ngập sâu, như lửa đốt bỏng. Đánh kẻ có tội để yên dân, thực không thể chậm được. Nay cử đại binh, đến đâu cũng thắng. Ngày 17 tháng 5, đặc mệnh cho Khâm sai chưởng Tả quân bình Tây tướng quân quận công Lê Văn Duyệt lãnh các đạo bộ binh, Khâm sai chưởng Trung quân bình Tây đại tướng quân quận công Nguyễn Văn Trương lãnh các đạo thủy binh, định ngày cùng tiến. Ngày 21 xa giá ra đi. Ngày 27 thủy binh thẳng đến Hoành Sơn, đánh phá đồn giặc, bọn đô đốc giặc Nguyễn Văn Ngũ đều thua chạy. Ngày 28, tiến lấy được Hà Trung. Ngày 29, bộ binh tiến lấy được Đại Nại. Ngày mồng 1 tháng 6 thủy binh tiến lấy được Vĩnh Dinh (trấn lỵ Nghệ An), Thiếu phó giặc Đặng Văn Đằng đầu hàng, bắt được em Nguyễn Quang Toản là tên Thất và đô đốc giặc là Ngũ. Ngày mồng 2, bộ binh tiến lấy được Tiên Lý, Đô đốc giặc là ý đầu hàng. Ngày mồng 5 tiến lấy được Dương Xá (trấn lỵ Thanh Hoa), bắt được Quang Bàn là em Quang Toản và bố con Đổng lý giặc là Nguyễn Văn Thận. Ngày mồng 7, Phó đô thống chế Võ Doãn Văn bắt được bọn tướng giặc Trần Quang Diệu, Từ Văn Chiêu, Nguyễn Văn Giáp, Lê Văn Hưng và tướng tốt rất nhiều. Dân Thanh Hoa lại bắt được Võ Văn Dũng giải nộp. Ngày mồng 9, bộ binh tiến đánh đồn Tam Điệp, Tư mã giặc là Nguyễn Văn Dụng, Nguyễn Văn Tứ chạy trốn. Ngày mồng 10, bộ binh tiến đánh Thanh Hoa ngoại, Đô đốc giặc là Tài đầu hàng. Ngày 12 tiến lấy được Châu Cầu (trấn lỵ Sơn Nam thượng). Thủy binh thẳng tới Vị Hoàng (trấn lỵ Sơn Nam hạ), Đô đốc giặc là Thọ đầu hàng. Ngày 17, bộ binh tiến lấy thành Thăng Long. Dân Kinh Bắc bắt được giặc Nguyễn Quang Toản, và thái tể là Quang Duy, Nguyên soái là Quang Thiệu, Tư mã là Nguyễn Văn Dụng, Nguyễn Văn Tứ giải nộp. Quang Thùy thắt cổ chết. Trước sau bắt được hơn trăm thớt voi chiến, khí giới, lương thực, thuyền ghe không xiết kể. Ngày 21, xa giá đến thành Thăng Long. Bọn ngụy quan kéo nhau đến lạy xin hàng. Giặc cướp đều quét sạch, công lớn đã hoàn thành.

Ôi ! Trời tối đen, quân nhà vua quét rửa để chóng nên công cứu vớt ; sấm mây khốn khó, người quân tử dọc ngang để hưởng Phước thăng bình.”

Chiếu dụ các hào mục Bắc Hà rằng : “Mới đây Tây Sơn gây biến, ngôi nhà Lê bị mất rồi. Bọn các ngươi ôm lòng trung căm giận đã lâu, chẳng chịu để giặc sai khiến. Nhiều người trốn lánh, nhóm họp ở núi rừng chưa biết về đâu. Nay bọn giặc đã trừ, phong tục văn chương cùng một mối. Người trí giả biết cơ, đừng nên chần chờ trông ngóng. Vậy đặc dụ rằng, phàm ai bị can phạm trước kia đều không xét hỏi, đều cho giải tán nghĩa binh, đem nộp khí giới, do địa phương sở tại làm biểu báo lên, trẫm sẽ tùy tài lục dụng. Các ngươi đều nên xét kỹ sự cơ, đừng để ăn năn về sau”.

Bàn sai các quan văn võ, chia trị các trấn Bắc Thành. Mỗi trấn đặt một trấn thủ, dùng chức thống chế, chưởng cơ, cai cơ cho làm, và một hiệp trấn, một tham trấn, dùng chức thiêm sự, tham quân, hàn lâm, thị thư cho làm. Rồi cho Nguyễn Đình Đắc làm Chưởng dinh lãnh chức Trấn thủ Sơn Nam thượng, Nguyễn Khắc Khoan làm Hiệp trấn, Nguyễn Công Viên làm Tham hiệp ; Trấn Công Lại làm Trấn thủ Sơn Nam hạ, Nguyễn Văn Đảng làm Hiệp trấn, Nguyễn Đăng Cơ làm Tham hiệp ; Trương Phước Phượng làm Trấn thủ Sơn Tây, Nguyễn Văn Quang làm Hiệp trấn, Dương Công Tòng làm Tham hiệp ; Ngô Văn Ngữ làm Trấn thủ Kinh Bắc, Nguyễn Văn Lê làm Hiệp trấn, Nguyễn Văn Huỳnh làm Tham hiệp ; Trần Công Hiến làm Trấn thủ Hải Dương, Ngô Đức Tuấn làm Hiệp trấn, Nguyễn Văn Công làm Tham hiệp ; Lê Đình Chính làm Trấn thủ Lạng Sơn, Ngô Văn Uyển làm Hiệp trấn, Lê Minh Huy làm Tham hiệp ; Lê Văn Niệm làm Trấn thủ Thái Nguyên, Nguyễn Đức Tư làm Hiệp trấn, Hoàng Đường làm Tham hiệp ; Nguyễn Văn Kiên làm Trấn thủ Hưng Hóa, Lê Nguyên làm Hiệp trấn, Nguyễn Thế Trung làm Tham hiệp ; Nguyễn Hữu Đạo làm Trấn thủ Yên Quảng, Nguyễn Viết Cơ là Hiệp trấn, Nguyễn Văn Kim làm Tham hiệp ; Lê Văn Tấn làm Trấn thủ Cao Bằng, Lê Văn Chính làm Hiệp trấn, Nguyễn Văn Nghi làm Tham hiệp ; Lê Văn Thái làm Trấn thủ Tuyên Quang, Nguyễn Trí Hòa làm Hiệp trấn, Nguyễn Văn Triển làm Tham hiệp.

Vua vời họ đến trước mặt, dụ rằng : “Hiện nay nước mới được yên, dân đương ngửa trông đức mới. Bọn ngươi đều nên tuyên dương đức hóa, vỗ yên nhân dân điêu hao, khiến dân ta đều được yên nghiệp, để cho xứng sự ủy thác”.

Triệu Phạm Văn Nhơn đến hành tại. Lấy Ngô Văn Sở làm Trấn thủ Thanh Hoa ngoại, Nguyễn Danh Xán làm Tham hiệp.

Hạ lệnh cho đại thần lưu kinh hoãn việc đòi bắt điền thế binh lính trốn hay chết, để dân hết sức về việc nông.

Vua bàn xếp đặt công việc Bắc Thành. Triệu Nguyễn Văn Thành đến hành tại. Thành ở trong hàng các tướng là người có chút học thức và biết thể thức chính trị, cho nên đặc biệt triệu đến.

Những người các hệ họ Lê đến hành tại bái yết. Vua yên ủi rồi cho về.

Người dòng dõi nhà Lê là Lê Duy Đạt cùng 400 người bộ thuộc đem khí giới nộp ở trấn Thanh Hoa nội. Đốc trấn Nguyễn Đức Xuyên đem việc tâu lên. Sai triệu Duy Đạt đến hành tại, còn bộ thuộc thì cho về yên nghiệp.

Các Thượng thư giặc là Ngô Nhậm (1. Ngô Nhậm : Chính là Ngô Thì Nhậm hoặc Ngô Thời Nhiệm, vì kiêng tên húy Tự Đức nên viết là Ngô Nhậm.), Nguyễn Gia Phan, Phan Huy Ích đến hành tại chịu tội. Vua cho là sắp có cuộc bang giao mà bọn Nhậm vốn là bầy tôi cũ của triều Lê, đã quen công việc, Huy Ích lại từng làm sứ thần của giặc đi sang nước Thanh, bèn hạ lệnh cho ở ngoài để phòng hỏi đến.

Vua nước Nam Chưởng (một tên là Lào Lung) là Chiêu Ôn Mãnh (tục người Man gọi quốc trưởng là chiêu) đến mừng. Ôn Mãnh là cháu Chiêu Sâm và con Chiêu Phong. Năm mới lên 3 tuổi thì người bác (anh mẹ tục Man gọi là bác) là Chiêu Xà Vinh chiếm giữ nước, đến khi lớn chạy vào Vân Nam, tố cáo với nhà Thanh, vua Thanh ban cho sắc và ấn, phong làm vua nước Nam Chưởng. (Việc ở năm Thanh Càn Long thứ 60), Ôn Mãnh đương lúc bôn ba, không có viện trợ, chưa dám về nước, cùng với bộ thuộc đi lại ở khoảng Mường Mân, Mường Lự (thuộc tỉnh Vân Nam nước Thanh), không có nơi ở nhất định. Sau lại tự mang sắc ấn dời ngụ ở châu Chiêu Tấn. Đến nay nghe đại binh đã lấy thành Thăng Long, bèn do trấn mục Hưng Hóa dẫn tới hành tại lạy mừng. Vua cho rằng trong nước mới yên chưa rỗi xử trí, lại khiến cho về ngụ ở châu Chiêu Tấn.

Nước Chân Lạp sai ốc nha Thư, triệu bồn nha Diệt đến hiến phẩm vật địa phương (cánh kiến, sơn đen, vải trắng, thóc). Vua cho tiền gạo rồi cho về.

[Ốc nha là chức quan Chân Lạp. Người trong hoàng tộc thay vì gọi ốc nha, sẽ gọi lần lượt là: bồn nha (盆牙 , ពញា Ponhea), chiêu bồn nha (triệu bồn nha 召盆牙 , ចៅពញា Chao Ponhea), tham đích chiêu bồn nha ( សម្ដេចចៅពញា Samdech Chao Ponhea).]

Sai Binh bộ Phạm Ngọc Uẩn kiêm Hộ bộ.

Vua thấy nước mới yên định, sổ sách tản mát, tô dung thuế khóa chưa có định chuẩn, nghe Tư mã giặc là Nguyễn Văn Dạng từng coi việc hộ, bèn sai tường kê các ngạch thuế, do Hộ bộ tâu lên từng điều để tham chước thi hành.

Lấy Nguyễn Thế Trực làm Tham tri Hình bộ.

Sai Nguyễn Văn Trương chia khiến thủy binh chở tiền kho ở hai trấn Hải Dương và Sơn Nam hạ đến [Bắc] thành để chi phát.

Hạ lệnh cho đại thần lưu kinh rằng phàm thuyền chở ở Gia Định đến Kinh, gạo lương thì chuyển lên kho kinh, còn súng đồng thì giải về Nghệ An để dùng việc binh.

Lấy Huỳnh Văn Điểm làm Phó tướng Trung quân.

Lấy Ngô Huy Viên làm Hàn lâm viện chế cáo. Huy Viên người Nghệ An, đỗ Hương cống triều Lê, có học thức hạnh kiểm, Đặng Trần Thường đề cử, nên có mệnh này.

Kén bọn thị hàn nội hàn Phan Hữu Nhượng cộng 28 người, sung vào Thị thư viện.

Sai Thống chế dinh Trung thủy là Tống Phước Châu, Cai cơ là Nguyễn Văn Chất chở súng ống khí giới và gạo lương về Kinh.

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển XVIII – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Nhâm tuất, năm Gia Long thứ 1 [1802], mùa thu, tháng 7, ban ấn đồng cho các trấn từ Nghệ An ra Bắc.

Triệu Đặng Trần Thường đến hành tại. Sai đô thống chế Hậu dinh quân Thần sách là Huỳnh Viết Toản lãnh chức Trấn thủ Nghệ An, Tham tri Hộ bộ là Hồ Thế Học lãnh chức Hiệp trấn.

Chiếu dụ bọn cựu thần nhà Lê và những hương cống học trò. Chiếu rằng : “Mới đây giặc Tây Sơn can phạm đạo thường, làm cho trời đất tối đen trong lúc ấy có nhiều người ẩn náu, không muốn làm quan cho giặc, mà ôm đức giữ tài là để chờ thời. Nay đảng giặc dẹp yên, võ công cả định, chính là buổi chấn hưng văn hóa, xây dựng trị bình. Nhân tài trong đời há chịu cùng với cỏ cây mục nát sao ? Vậy nên báo cáo cho nhau, đều đến hành tại để cho bọn Chưởng Tiền quân Nguyễn Văn Thành, Lễ bộ Đặng Đức Siêu, Tán lý Đặng Trần Thường, Tham tri Phạm Như Đăng, Học sĩ Nguyễn Viên, lần lượt dẫn vào yết kiến. Ta sẽ nghe lời nói thử việc làm, tùy tài bổ dụng, cho người hiền được có vị, người tài được có chức, họp lòng nghĩ, chia mưu làm, để cùng nên đạo trị nước”. Do đó những người ẩn dật ở Bắc Hà tranh nhau ra giúp việc.

Ghi chép các bề tôi trung nghĩa ở Bắc Hà. Chiếu rằng : “Khen thưởng người trung nghĩa là việc đầu của nhà nước. Mới đây giặc Tây Sơn xướng loạn, hãm hại nhân dân, những người trung nghĩa ai cũng căm giận, hoặc đương thuở nhà Lê suy yếu liều mình đánh giặc, đến khi việc nước đã hỏng mà còn cầm quân chống giặc, hết lòng hết sức, không kể được thua. Khi trẫm mới thu phục Gia Định, quyết chí diệt thù, cũng đã biết rõ một tấm trung thành của bọn người, dù muôn dặm non sông, cũng chẳng cho là xa cách, hằng thông tin sứ, ứng nghĩa cũng nhiều. Có người nhóm họp binh sĩ hăng hái chống giặc, nhưng sợi tóc khó mang nổi nghìn cân, thế lực không thể địch nổi, hằng đánh vẫn hằng thua. Cũng có người tới chốn quân mạc, vâng chịu mệnh lệnh, nhưng khi làm không kín đáo, lại mắc tai vạ. Lòng ta rất thương xót. Nay đã diệt quân hung ác, cả định võ công, nghĩ đến những người trung nghĩa ấy chính nên khen thưởng. Vây hạ lệnh cho các địa phương Bắc Thành và Thanh Nghệ, xét trước đây có ai theo nghĩa bỏ mình thì cho con cháu họ hàng đem việc bày tâu, xét ban tuất điển”.

Sai chọn người dòng dõi họ Trịnh để giữ việc thờ cúng họ Trịnh. Trước là khi đại giá Bắc phạt, người họ Trịnh ai ai cũng sợ bị giết. Vua thấu rõ tâm tình, xuống chiếu dụ rằng : “Tiên thế ta với họ Trịnh vốn là nghĩa thông gia. Trung gian Nam Bắc chia đôi, dần nên ngăn cách, đó là việc đã qua của người trước, không nên nói nữa. Ngày nay trong ngoài một nhà, nghĩ lại mối tình thích thuộc bao đời, thương người còn sống, nhớ người đã mất, nên lấy tình hậu mà đối xử. Vậy nên cùng báo cho nhau, họp chọn lấy một người trưởng họ giữ việc thờ cúng, để giữ tình nghĩa đời đời”.

Lấy Nguyễn Duy Hợp làm Thị trung trực học sĩ, lãnh chức Hiệp trấn Kinh Bắc, Lê Duy Đản làm Kim hoa điện trực học sĩ, lãnh chức Hiệp trấn Lạng Sơn, Lê Huy Trầm, Ngô Xiêm và Nguyễn Đình Tứ làm Thái hòa điện học sĩ, Nguyễn Đường làm Kim hoa điện học sĩ, Phạm Thích, Vũ Trinh làm Thị trung học sĩ, Võ Đình Tử, Nguyễn Huy Thảng làm Cần chính điện học sĩ. Bọn Duy Hợp đều là cựu thần nhà Lê (Vũ Trinh là hương cống, còn đều là tiến sĩ), khi nhà Lê mất, không làm quan với giặc, trốn ở dân gian, đến nay vào yết kiến, vua cho ngồi và yên ủi hỏi thăm, ban cho hậu, rồi có mệnh ấy.

Học trò Bắc Hà dâng phong bì kín trình bày công việc. Được trúng có 32 người là bọn Phan Chính Thể, Nhữ Công Thiệu, Nguyễn Duy Cung, Bùi Phổ. Vua sai ghi tên để bổ dụng.

Sai Hộ bộ chế các kiểu phương thăng bát mới dùng vào việc thu chi lương thực.

Miễn thuế vụ hạ năm nay cho Bắc Thành, Nghệ An và Thanh Hoa ngoại trấn. Vua cho rằng võ công mới định, nhân dân chưa được lại hơi, nên đặc biệt xuống lệnh tha thuế vụ hạ. Người nào đã nộp rồi thì đến mùa đông sẽ trừ. Duy huyện Chí Linh trấn Hải Dương bị tàn tệ quá nhiều nên thuế vụ đông cũng được miễn.

Trấn thần Hải Dương tâu rằng Văn miếu của trấn trước có tự điền hơn bốn mươi mẫu, xin tha thuế để cung vào việc cúng tế. Vua chuẩn y.

Tha thuế quan tân năm nay cho trấn Lạng Sơn, còn những thuế sản vật thì định mỗi năm chia làm bốn quý để nộp.

Vua thân yết miếu Lê Thái Tổ. Sai Lễ bộ đặt đàn tế các thần núi sông.

Bàn việc thưởng công những xã dân bắt giặc : Dân Kinh Bắc bắt được Nguyễn Quang Toản, thưởng 200 mẫu ruộng, dân Thanh Hoa bắt được Võ Văn Dũng, thưởng 30 mẫu ruộng, đều được tha dao dịch.

Lại răn các quân thủy bộ, chiếu rằng : “Nay dân mới theo về, lòng  còn sợ hãi, ta đương nghĩ cách vỗ về. Trước đây đã răn bảo các quân, đến đâu không được cướp bóc, mà còn nghe có kẻ trái phạm, thì lấy gì để thỏa lòng mong muốn của dân ? Từ nay quân nhân đều nên kính tuân lệnh cấm. Nếu ai quen thói trái phép, quấy rối dân gian, bị lính tuần bắt được, hoặc bị dân sở tại bắt giặc, thì xử theo quân pháp. Quan cai quản cũng bị xử nặng”.

Thưởng cho các quân 25.000 quan tiền. Thả lính ốm ở các dinh vệ thuộc các quân về Kinh. Hạ lệnh cho các địa phương từ Sơn Nam thượng trở về Nam phải cấp lương ăn đi đường hàng ngày.

Sai Đặng Trần Thường lãnh việc Binh bộ.

Lấy quản dinh Tiên phong là Nguyễn Văn Tánh làm Chưởng dinh hành chức án trấn thành Diên Khánh, các dinh Bình Khang, Diên Khánh, Bình Thuận đều lệ theo phàm có việc quân khẩn yếu, trong thì theo trấn Gia Định, ngoài thì theo trấn Quy Nhơn, để làm sách ứng lẫn nhau.

Lấy Thư ký Nguyễn Văn Ngữ làm Cai bạ Bình Khang, Tri bạ Hồ Tiến Chân làm Ký lục Bình Thuận.

Tống Phước Lương và Nguyễn Văn Vân đánh phá được giặc biển ở châu Vạn Ninh. Trước là giặc biển Tề Ngôi là Trương á Lộc ngụy xưng là thống binh, tụ đảng ở ngoài khơi, cướp bóc thuyền buôn, giặc Tây Sơn từng mượn sức để chống cự quan quân. Từ trận thua ở cửa biển Nhật Lệ, nó ngầm trốn ra ngoài biển Vạn Ninh, hoành hành cướp bóc. Trấn thần Yên Quảng đem việc báo lên. Vua sai Phước Lương và Văn Vân đem thủy quân để đánh. Quân đến cửa biển Vân Đồn, gặp 15 chiếc thuyền giặc, đánh phá được, chém được tướng giặc là Trịnh Thất và bè đảng rất nhiều, bắt được bọn Trương ái Lộc 11 người. Dư đảng nghe tin chạy trốn.

Vua thấy mùa gió mùa nước đã muộn, cho rút quân về, hạ lệnh cho các địa phương duyên hải phòng bị nghiêm thêm, rồi sai trấn Yên Quảng đưa bọn giặc bị bắt giải giao cho Khâm Châu nước Thanh.

Triệu Nguyễn Đức Xuyên và Võ Danh Trung đến hành tại.

Lấy Đô thống chế Hữu dinh quân Thần sách là Tôn Thất Chương lãnh chức Đốc trấn Thanh Hoa, Phó đô thống chế Tả dinh là Võ Doãn Văn lãnh chức Phó trấn, Tả tham tri Binh bộ là Lê Viết Nghĩa lãnh chức Hiệp trấn.

Vua cho rằng giặc Tây Sơn đã diệt, sai gửi thư sang Tổng đốc Lưỡng Quảng nước Thanh hỏi về việc bang giao nên làm thế nào ; sai Thiêm sự Lại bộ là Lê Chính Lộ, Thiêm sự Binh bộ là Trần Minh Nghĩa đợi mệnh ở Nam Quan. Lại cho rằng nước nhà mới dựng, muốn tiếp sứ nhà Thanh ở cửa ải, để làm lễ tuyên phong cho đỡ phiền phí, đem việc ấy hỏi Ngô Nhậm và Phan Huy Ích, họ đều nói việc như thế từ trước chưa nghe bao giờ. Bèn thôi.

Lấy Tham tri Lại bộ Phạm Như Đăng làm Hình bộ.

Lấy Thượng Bảo khanh Trương Minh Thành làm Cai bạ Quảng Đức.

Hạ lệnh cho Bình Định và Phú Yên dựng miếu công thần. Chiếu rằng ; “Khoảng các năm Kỷ mùi Canh thân, trải bao năm dụng binh, các tướng sĩ theo trẫm ở Phú Yên và Bình Định, hoặc có kẻ giữ cô thành mà chết vì tiết nghĩa, hoặc có người ra trận đánh mạnh mà bỏ mình, một lòng nghĩa khí có thể đối với thần minh, trong buổi vội vàng chưa kịp nêu thưởng. Nay võ công đã định, bốn biển lặng trong, sự sùng báo ( Sùng báo : Tôn người có đức, báo người có công.) là việc rất nên làm trước hết. Vậy hạ lệnh cho hai dinh lập miếu để thờ”.

Bình Định dựng hai ngôi miếu. Một miếu ở trước lầu Bát giác trong thành, thờ Võ Tánh, Ngô Tùng Châu và những người chết trận chết bệnh ở trong thành, cả thảy 260 người (ở chính giữa thờ hai người : Chưởng Hậu quân bình Tây tham thặng đại tướng quân tặng thái úy quốc công Võ Tánh, Lễ bộ tặng thái tử thái sư quận công Ngô Tùng Châu. Gian bên tả thờ

6 người : Ngự lâm quân Tiền đồn Đô thống chế tặng Chưởng cơ Đoàn Văn Cát, Trung đồn phó thống chế tặng Chưởng cơ Huỳnh Công Thành, Hậu quân Trung kích vệ Vệ úy tặng Chưởng dinh Thịnh, Nghị võ vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Công Giao, Hùng phong vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Phạm Văn Trường, Chiêu võ vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Phụng. Gian bên hữu thờ ứng nghĩa đạo Thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Tấn Huyên. Nhà bên tả thờ 131 người : Hậu quân Thiên trường vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Tường, Thần sách quân Uy võ vệ Vệ úy tặng Chưởng dinh Huỳnh Phước Bảo, Trung võ vệ Vệ úy tặng Chưởng dinh Trần Văn Xung, Hậu quân tiên phong Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Chử, Phó hậu chi cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Cẩn, Trung kích vệ Cai cơ Phạm Chử, Dực võ vệ Cai cơ tặng Chưởng cơ Hoàng Thận, Thuộc viên đội cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Thiệu, Hùng phong vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Nguyễn Văn Sĩ, Nhuệ phong vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Phạm Văn Hương và Dương Văn Lộc, Chiêu võ vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Nguyễn Văn Đạo, Tuyên võ vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Võ Văn Toán và Võ Hạo, Tiền chi phó trưởng chi tặng Chánh chi Phạm Văn Khánh, Hữu chi phó trưởng chi tặng Chánh chi Nguyễn Văn Cần, Trưởng hiệu tặng chánh chi Đỗ Hiến, Đỗ Lân, Nguyễn Tiêu, Trương Lân, Trần Lợi, Lê Nguy và Hoàng Thung, Cai đội tặng Cai cơ Trương Diễn, Đỗ Cường, Phạm Nghĩa, Nguyễn Nghị, Nguyễn Khoa, Võ Chử, Phan Hiến, Nguyễn Hán, Hoàng Nhị, Võ Phú, Nguyễn Trung, Nguyễn Sĩ, Võ Nguyệt, Hoàng Phụng, Nguyễn Trang, Lê Điển, Nguyễn Vân, Lê Quý, Nguyễn Tiện, Nguyễn Lý, Trần Tự, Đào Ngoạn, Nguyễn Thận, Trần Triệu, Võ Nghĩa, Nguyễn Thái và Hồ Thu, Tổng nhung tặng Cai cơ Nguyễn Khương, Phó đội tặng Khâm sai cai đội Nguyễn Linh, Lê Nghĩa, Nguyễn Tần, Lê Tường, Mai Thiệu, Trần Hương, Mai Tứ, Hoàng Hanh, Nguyễn Phấn và Lê Thảo. Đội trưởng tặng Cai đội Nguyễn Phấn, Nguyễn Đổ, Phan Tiện, Hoàng An và Trần Nguyên. Nhà bên hữu thờ 120 người : Hữu quân Võ lương vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Phan Văn Thịnh, Ngự lâm quân Trung đồn chánh tả chi tặng Chưởng cơ Hiền, Hậu quân Nghị võ vệ Cai cơ tặng Chưởng cơ Bùi Tuấn, Bình Định dinh cai bạ tặng Tham mưu Nguyễn Văn Tường, Cai đội tặng Cai cơ Chế Danh Sách, Phan Minh, Phan Xuyên, Nguyễn Ngôn, Nguyễn Thủ, Bùi Cửu, Nguyễn Thành, Võ Lao, Lê Thuận, Nguyễn Quý, Lê Thái, Võ Trị, Nguyễn Lý, Hoàng Hạnh, Nguyễn Của, Lê Lựu, Nguyễn Bình, Võ Hưng, Nguyễn Bỉnh, Nguyễn Đạt, Nguyễn Lộc, Lê Khiêm, Nguyễn Phượng, Phạm Hạc, Văn Lũy, Nguyễn Ánh, Nguyễn Kinh, Đặng Xuyên, Bùi Lưu, Trương Thuận, Nguyễn Quý, Nguyễn Giáo, Nguyễn Chiêu, Trần Tiến, Nguyễn Chiêm, Nguyễn Thiện, Trần Lân, Hoàng Nghĩa và Nguyễn Thịnh, Thư ký tặng Tham luận Lê Châu, Phó đội tặng Khâm sai cai đội Phạm Tạo, Lê Như, Trần Thẩm, Mai Vỵ và Nguyễn Quyền, Đội trưởng tặng Cai đội Trịnh Hảo, Lê Phượng, Lê Niên, Phạm Tần và Nguyễn Văn). Một miếu ở núi Độc Sơn cửa Thị Nại, thờ Võ Di Nguy, Tống Viết Phước và những người chết bệnh chết trận từ Quảng Ngãi đến Thị Nại, cả thảy 619 người. ở chính giữa thờ 2 người : Trung thủy dinh cai cơ quản thuộc Nội thủy Trung thủy thuyền tặng Thiếu bảo quận công Võ Di Nguy, Thần sách quân Trung dinh đô thống chế tặng Thiếu bảo quận công Tống Viết Phước. Gian bên tả thờ 28 người : Tiền quân phó tướng tặng Chưởng cơ Nguyễn Huệ, Tiền quân Tín võ vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Lê Văn Lễ, Thần sách quân Trung võ vệ Vệ úy tặng Chưởng dinh Trần Văn Xung, Ban trực Tuyển phong tiền vệ Vệ úy tặng Chưởng dinh Nguyễn Văn Hựu, Tiên phong dinh Tiền hiệu Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Hy, Hậu hiệu cai cơ tặng Chưởng cơ Đặng Phượng, Dực võ Hậu chi Tiền hiệu cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Tân, Trung quân Trung chi Hậu hiệu cai cơ tặng Chưởng cơ Võ Ân, Tề võ vệ Trưởng hiệu cai cơ tặng Chưởng cơ Trần Văn Huề, Hữu quân Võ lương vệ Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Quý, Thần võ quân Hùng phong vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Trần Văn ất, Thần sách quân Tượng dinh Hùng võ vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Trần Văn Tại, Tượng dinh Phấn uy vệ Phó vệ tặng Vệ úy Hồ Văn Huệ, Thần sách quân Tín uy vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Nguyễn Văn Thuận, Long võ vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Lê Quang Ân và Trần Văn Khánh, Ngự lâm quân Thắng võ vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Châu Trung, Cường uy vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Nguyễn Thoại, Tả quân Thần lược vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Phan Đăng Hào, Ngự lâm quân Tả đồn Tả chi Phó trưởng chi tặng Chánh chi Man Đức Duyên, Hậu đồn Hậu chi Phó trưởng chi tặng Chánh chi Nguyễn Văn Chấn, Tiền quân Thắng võ Tiền du chi Phó chi tặng Chánh chi Trần Văn Duyên, Trưởng hiệu tặng Chánh chi Hoàng Hương, Hồ Ngoạn, Nguyễn Trị và Nguyễn Tần, Cai đội tặng Cai cơ Nguyễn Tiến và Hồ Tường. Gian bên hữu thờ 38 người : Ngự lâm quân Hậu đồn Thống chế tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Phát, Tiền quân Lương võ vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Công Trọng, Tiệp võ vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Sự, Thần sách quân Dũng võ vệ Vệ úy tặng Chưởng dinh Trương Văn Hoảng, Uy võ vệ Vệ úy tặng Chưởng dinh Huỳnh Phước Bảo, Toàn võ vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Đình Bảo, Ban trực tả vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Võ Văn Tài, Hậu quân Chiêu võ vệ Phó vệ úy tặng Chưởng cơ Trương Văn Chử, Trung quân Chấn phong vệ Thống binh II cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Khoa, Tiền thủy dinh Phó dinh thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Huỳnh Văn Định, Tiên phong dinh thúc uy Tả chi Thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Tường, Tiền du hiệu Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Của, Tả hiệu Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Chính, Trung hiệu Cai cơ tặng Chưởng cơ Hoàng Huân, Hữu hiệu Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Ba, Thắng võ Tiền chi Trưởng hiệu cai cơ tặng Chưởng cơ Lê Vãng, Trung quân Trung chi Tiền hiệu Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Trường, Hữu hiệu Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Đạo, Tả quân Tiền chi Chánh trưởng chi cai cơ tặng Chưởng cơ Võ Văn Cẩn, Thần võ vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Sử, Thần lược vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Mai Văn Bảo, Hữu quân Tiền chi Tiền hiệu Cai cơ tặng Chưởng cơ Phan Nghị, Hậu chi hậu hiệu Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Tự, Ngự lâm quân Thắng võ vệ Tiền kích chi Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Oai, Thần sách quân Cung vệ võ vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Võ Châu, Thần võ quân Tiền kích vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Ngyễn Văn Hán, Thần sách quân Tượng dinh Hùng uy vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Lê Công Thành, Tiền quân Lương võ vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Nguyễn Văn Yên, Thần sách quân Ban trực tiền vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Đinh Công Đông, Dương võ vệ Phó vệ úy tặng Chưởng dinh Nguyễn Vĩnh Hộ, Thành võ vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Lương Văn Tình, Trung thủy dinh phó Hậu chi tặng Cai cơ Nguyễn Văn Liễu, Trưởng hiệu tặng Chánh chi Hoàng Chiêu, Cai đội tặng Cai cơ Hồ Khoa, Đinh Lẫm, Phạm Tình, Nguyễn Hoành và Nguyễn Ngũ. Nhà bên tả thờ 276 người: Cai đội tặng Cai cơ Nguyễn Viên, Nguyễn Châu, Tống Đình, Nguyễn Trận, Nguyễn Quyền, Nguyễn Mân, Lê Tính. Đinh Bình, Nguyễn Bình, Nguyễn Vinh, Phan Nại, Nguyễn Phong, Phạm Bá, Nguyễn Mỹ, Trần Châu, Nguyễn Huyên, Nguyễn Minh, Nguyễn Bôi, Hoàng Lân, Nguyễn Nhạn, Ngô Thân, Hoàng Phú, Nguyễn Tuy, Hồ Thân, Trần Khoa, Nguyễn Thơm, Nguyễn Hòa, Nguyễn Hương, Hoàng Thảo, Nguyễn Đức, Hoàng Tuấn, Lê Thủ, Trần Đống, Phạm Giao, Phạm Khả, Nguyễn Đường, Bùi Ngân, Lê Xuyên, Châu Lược, Trần Đảo, Vũ Thiện, Nguyễn Hạnh, Bùi Liên, Lê Khương, Nguyễn Nhuệ, Trần Hưng, Nguyễn Khoa, Phan Châu, Nguyễn Thảo, Trần Thuận, Nguyễn Tâm, Nguyễn Ngũ, Nguyễn Càn, Lê Chân, Lý Khuông, Nguyễn Tại, Lê Quyền, Nguyễn Tiến, Nguyễn Lao, Võ Thận, Nguyễn Sĩ, Ngô Xuân, Lê Cường, Nguyễn Nhơn, Võ Lý, Phạm Huyên, Nguyễn Hòa, Phạm Lý, Châu Sách, Nguyễn Diệp và Trần Thư, Tham luận tặng Tham mưu Phạm Văn Học, Cai án tặng Tham luận Lê Nhiễm, Phó đội tặng Khâm sai cai đội Phạm Nhàn, Nguyễn Đàm, Trần Yên, Lê Tân, Phạm Khoan,  Nguyễn Tình, Đinh Chung, Trần Ngôn, Mai Diệu và Trần Quý, Thủ hợp tặng Tham luận Nguyễn Minh và Nguyễn Trang, Đội trưởng tặng Cai đội Nguyễn Lợi, Nguyễn Bích, Nguyễn Lý, Đoàn Hoan và Nguyễn Giáo. Nhà bên hữu thờ 275 người : Xiêm binh đồn Cai đội tặng Cai cơ ốc, Cai đội tặng Cai cơ Trần Mai, Trần Thiêm, Nguyễn Thông, Phan Trí, Phan Bản, Nguyễn Hưng, Nguyễn Lưu, Trần Khuông, Nguyễn Vũ, Bùi An, Phạm Vĩnh, Nguyễn Hán, Nguyễn Thịnh, Ngô Lễ, Phạm Khách, Nguyễn Như, Dương Niên, Võ Huyên, Lê Nguyên, Nguyễn An, Nguyễn Thi, Nguyễn Đông, Phùng Thịnh, Nguyễn Trung, Trịnh Quyền, Võ Nghị, Phan Tri, Phan Lộc, Võ Nho, Phan Thọ, Trần Hoàng, Nguyễn Trường, Lê Phượng, Triệu Sĩ, Cao Ngoan, Hoàng Thụy, Lê Duyên, Nguyễn Tường, Lê Anh, Bùi Quan, Nguyễn Hiền, Nguyễn Huỳnh, Võ Khoa, Trần Đồng, Phan Võ, Lê Tuyển, Hoàng Hương, Hoàng ý, Lê Nghĩa, Võ Niên, Nguyễn Hòa, Võ Nghĩa, Phan Đặng, Võ Lân, Nguyễn Đức, Ngô Tường, Nguyễn Căn, Phạm Thịnh, Nguyễn Triệu, và Nguyễn Vỹ, Phó đội tặng Khâm sai cai đội Trần Quyên, Nguyễn Tuấn, Nguyễn Hiến, Nguyễn Cẩm, Nguyễn Toái, Hoàng Chiêu, Trương Châu, Nguyễn Đạo, Hoàng Thái và Nguyễn Thành, Đội trưởng tặng  Cai đội Bùi Dũng, Nguyễn Lân, Lê Hóa, Nguyễn Nguyên, Nguyễn Phụng.

Trấn Phú Yên dựng miếu ở Hòn Nan [vụng] Cù Mông để thờ Mai Đức Nghị và những người chết trận và chết bệnh, từ Thị Dã đến Phú Yên, cả thảy 526 người. ở chính giữa thờ 5 người : Thần sách quân Hậu dinh Đô thống chế tặng Thiếu bảo quận công Mai Đức Nghị, Thần sách quân Hậu dinh Phó đô thống chế tặng Chưởng cơ Tôn Thọ Vinh, Ngự lâm quân Tả đồn Phó thống chế tặng Chưởng cơ Võ Đình Nhai, Tả thủy dinh Chánh dinh thuộc nội cơ tặng Chưởng dinh Nguyễn Hữu Nghị, Tiền thủy dinh Chánh Tiền chi Thống binh cai cơ tặng Chưởng dinh Nguyễn Văn Cẩm. Gian tả nhất thờ 57 người : Thần sách quân Diệu võ vệ Vệ úy thuộc nội cai cơ tặng Chưởng cơ Trương Văn Bỉnh, Tả quân Thần võ vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Nguyễn Văn Thuận, Thần sách quân Quảng võ vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Triệu, Hữu quân Hữu chi Chánh trưởng chi cai cơ tặng Chưởng cơ Dương Công Bảo, Thần sách quân Uy võ vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Nguyễn Công Nhật, Túc võ vệ Cai đội tặng Cai cơ Dương Văn ý, Tượng dinh An võ vệ Cai cơ tặng Chưởng cơ Lê Văn Lương, Trấn Định dinh suất Uy bình thuyền Cai đội tặng Cai cơ Trương Công Đức, Tiên phong dinh Tráng võ Tiền chi Phó trưởng chi cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Tại, Thần sách quân Tượng dinh Hùng uy vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Trần Văn Phượng, Phấn uy vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Phan Văn Dũng, Túc uy vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Nguyễn Tiến, Ngự lâm quân Trung chi Trưởng hiệu tặng Phó chi Võ Văn Đàm, Thần sách quân Toàn võ vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Trần Văn Thành, Kiên uy vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Võ Văn Nhàn, Túc võ vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Nguyễn Văn Hán, Ban trực tuyển phong hữu vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Nguyễn Văn Uy, Ngự lâm quân Hữu chi Trưởng hiệu cai cơ tặng Chưởng cơ Hồ Văn Sĩ, Thuộc nội cai đội suất Chấn uy nhị đội tặng Cai cơ Nguyễn Đức Huân, Tiền quân Tiệp võ vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Huỳnh Đức, Thần sách quân Thuận võ vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Phạm Văn Tường, Tiền quân Tín võ Trung chi Trưởng hiệu tặng Phó chi Lê Văn Giảng và Mai Văn Triêm, Tiên phong dinh Tráng võ Tiền chi Chánh Trưởng hiệu tặng Phó chi Nguyễn Thuận, Dực võ Hậu chi Chánh trưởng hiệu tặng Phó chi Nguyễn Thành, Thần sách quân lạc tòng đội Cai cơ tặng Chưởng cơ Đặng Diên, Trung thủy dinh Trung chi Cai đội tặng Cai cơ  Hoàng Mẫn, Trung quân bình Tây Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Thái, Thần sách quân Tráng võ vệ Vệ úy cai đội tặng Cai cơ Mai Văn Nghị, Cai đội tặng Cai cơ Nguyễn Cửu, Trần Trung, Võ Linh, Hoàng Tuy, Lê Ân, Lê Di, Nguyễn Minh, Trần Mậu, Nguyễn Liêm, Trần Tĩnh, Trần Nhật, Nguyễn Hậu, Nguyễn Văn, Nguyễn Quý, Nguyễn Uy, Nguyễn Nho, Phan An, Mai Hồ, Nguyễn Trạo, Bùi Họa, Nguyễn Lộc, Nguyễn Tài, Lê Thọ và Phạm Xuân, Đội trưởng tặng Cai đội Hồ Chử. Gian hữu nhất thờ 57 người : Tiền quân Tráng võ vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Tôn Thất Lân, Thần sách quân Nội dực vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Hiên, Tuyển phong Hậu vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Đoàn Phước Tân, Thành võ vệ Cai cơ tặng Chưởng cơ Bùi Văn ỏn, Ban trực Hậu vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Nguyễn Huy, Tượng dinh Túc uy vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Hồ Văn Diện, Thần sách quân Tiền dinh Phấn võ vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Thái Văn Quý, Ngự lâm quân Hữu hiệu Cai cơ tặng Chưởng cơ Hồ Văn Tĩnh, Hữu chi Chánh trưởng chi tặng Cai cơ Hồ Văn Thiêm, Tả quân Thần võ vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Nguyễn Văn Khách, Tiền quân Ban trực vệ Tham quân tặng Tham mưu Nguyễn Duy Hàn, Quảng Nam Tả tượng cơ Chánh trưởng chi tặng Chưởng cơ Nguyễn Diên, Thần sách quân Tượng dinh Phấn uy vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Lê Nho Can, Tiền thủy dinh Trung chi Cai đội tặng Cai cơ Nguyễn Lương, Ngự lâm quân Hậu chi Hữu hiệu Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Vân, Hữu quân hữu chi Phó trưởng chi cai cơ tặng Chưởng cơ Lê Văn Tú, Thần sách quân quản Túc võ vệ tặng Vệ úy Lê Văn Trịnh, Thuộc nội cai đội quản Tiểu sai đội kiêm quản Trung hầu các thuyền tặng Chưởng cơ Nguyễn Kỷ, Thần sách quân Toàn võ vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Hồ Văn Lũ, Tiền quân Hữu dực chi Phó chi tặng Chánh trưởng chi Hà Văn Tài, Hữu quân Võ lương vệ Tham luận tặng Tham mưu Ngô Văn Thành, Tiền thủy dinh Minh võ vệ Tham luận tặng Tham mưu Võ Công Tường, Thần sách quân Tượng dinh An võ chi Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Sở, Phấn võ vệ Tham luận tặng Tham mưu Lê Văn Giảng, Minh võ vệ Tham luận tặng Tham mưu Đặng Huy Chiêu, Cai đội tặng Cai cơ Nguyễn Nghiễm, Đỗ Chiêu, Nguyễn Quang, Nguyễn Trường, Nguyễn Sách, Dương Lượng, Nguyễn Xuân, Nguyễn Phong, Trần Trạch, Nguyễn My, Nguyễn Phú, Tống Thận, Nguyễn Khiêm, Nguyễn Đạt, Tống Chân, Nguyễn Danh Kim, Nguyễn Văn, Trần Hảo, Lê Nghĩa, Võ Đạo, Lê Ngữ, Trần Nghiễm, Nguyễn Lợi, Mai Triêm, Phan Tĩnh, Bùi Thường, Trần Duyệt và Nguyễn Danh Liêm. Gian tả nhị thờ 70 người : Cai đội tặng Cai cơ Trần Dương, Tô Hòa, Nguyễn Ngọc, Túc uy vệ Chánh trưởng chi tặng Cai cơ Nguyễn Văn Nam, Ngự lâm quân Tiền chi Trưởng hiệu tặng Phó chi Trương Văn Sự, Cai đội tặng Cai cơ Nguyễn Từ, Nguyễn Uẩn, Hà Chuẩn, Đỗ Tiên, Nguyễn Tiến, Nguyễn Tô, Đinh Thành, Trần Thanh, Nguyễn Nhiên, Trần Hạc, Nguyễn Cẩm, Nguyễn Hựu, Đặng Nghĩa, Nguyễn Diên, Lê Điền, Nguyễn Danh Hữu, Nguyễn Thanh, Hoàng ái, Hoàng Thuộc, Phan Vân, Võ Trương, Nguyễn Điểu, Lê Toại, Trương Phượng và Nguyễn Hạnh, Phó đội tặng Cai đội Lê Quảng, Ngô Giao, Nguyễn Tiếu, Lê Phượng, Nguyễn Vạn, Trịnh Sự, Nguyễn Bài, Trương Duyên, Nguyễn Phẫn, Hoàng Hiến, Nguyễn Quế, Lê Tố, Lê Thụy, Nguyễn Lựu, Lê Vũ, Nguyễn Hòa, Trần Tự, Trần An, Nguyễn Tình, Nguyễn Tuấn, Nguyễn Linh, Võ Vân, Phạm Ước, Lê Tình, Trần Nghĩa, Hà Phái, Nguyễn Bế, Võ Ngữ và Trần Thanh, Đội trưởng tặng Cai đội Đào Xuân, Hà Lai, Nguyễn Đảng, Trần Trung, Hoàng Thiêm, Nguyễn Tiêu, Nguyễn Phượng, Võ Lộc và Nguyễn Chỉnh. Gian hữu nhị thờ 70 người : Cai đội tặng Cai cơ Lương Lộc, Nguyễn Thọ, Nguyễn Sách, Lê Phượng, Hoàng Nghị, Bùi Du, Lê Trung, Nguyễn Tiến, Nguyễn Giai, Lê Nguyệt, Phan Sinh, Lương Trung, Phạm Nước, Mai Thông, Nguyễn Nghi, Nguyễn Thuận, Lê Toản, Võ Tầm, Nguyễn Thanh, Nguyễn An, Phan Trinh, Trần Quyền, Nguyễn Sĩ, Nguyễn Thuyên, Lương Đại, Lê Đặng và Nguyễn Khoa, Phó đội tặng Cai đội Hoàng Nghiêm, Trịnh Nghi, Lương Tiệp, Hồ Lưu, Lê Cư, Nguyễn ý, Phan Hùng, Trần Cửu, Hồ Thiêm, Nguyễn Dưỡng, Nguyễn Mẫn, Nguyễn Sơn, Cao Quỳnh, Nguyễn Truyền, Phạm Phần, Trương Phong, Trần Thắng, Nguyễn Huyên, Phạm Thịnh, Võ Nghĩa, Cao Hàn, Lê Thước, Nguyễn Thành, Hồ Đôi, Nguyễn Hộ, Trương Phong và Lê Thực, Cai án tặng Tham luận Lê Tước, Phạm Doãn, Nguyễn Bản, và Trần Đức, Đội trưởng tặng Cai đội Võ Sách, Nguyễn Trung, Thái Công, Ngô Chấn, Lê Lao, Trần Thạc, Lê Lực, Nguyễn Vạn và Lê Huyên. Nhà bên đông thờ 134 người là bọn Đội trưởng tặng Cai đội Nguyễn Hoảng, Hồ Cẩm, Bùi Sâm, Nguyễn Đốc ; Nhà bên tây thờ 133 người là bọn Đội trưởng tặng Cai đội Hoàng Thắng, Đặng Đức, Võ Vân, Nguyễn Nhiên).

Lập thêm năm chi quân Trấn võ ở Gia Định. Lưu trấn thần là Nguyễn Văn Nhơn cho rằng quân trong trấn có ít, tâu xin thêm, vua theo lời xin.

Thu các thuế quan tân đầm mỏ ở Bắc Thành. Vua thấy buổi đầu đại định cần tiền rất nhiều, bèn sai chiếu theo lệ cũ mà thu tiền thuế nửa năm từ tháng 7 về sau để sung việc chi dùng của nhà nước, Lại sai quan lại ở các sở quan tân đầm mỏ hằng năm thu thuế, cứ một trăm quan thì lấy một quan làm tiền ngụ lộc, các khoản ngoại lệ đều cấm. (Giặc Tây Sơn ngoài thuế chính còn có tiền trầu và tiền bằng cấp).

Trấn thủ Yên Quảng là Nguyễn Hữu Đạo bắt được Tư lệ giặc là Đinh Công Tuyết ở châu Vân Đồn, đóng cũi đưa về nhà trạm. Tuyết là tôi yêu của giặc Tây Sơn. Vua cho là tướng giặc vô danh nên không nỡ giết mà tha cho.

Trấn thần Thanh Hoa, tâu rằng ba phủ Hà Trung, Thiệu Thiên, Tĩnh Gia trước có văn miếu ở đây, xin theo lệ cũ triều Lê, hằng năm mùa xuân mùa thu đến tế. Vua bảo Lễ bộ rằng : “Kính, nghĩa là chủ một, một thì phải chuyên, nhiều thì nhàm. Vậy bàn bớt đi”. Hạ lệnh chỉ lập một miếu ở dinh trấn để chuyên thờ.

Các thổ tù ở Tuyên Quang, Hưng Hóa và Thái Nguyên phần nhiều còn mang lòng chờ xem. Vua muốn dùng văn cáo để vỗ yên, sai tuyên bố lời dụ bảo cho những điều họa Phước, do đó họ kế nhau đến hành tại triều kiến.

Trấn thần Thanh Hoa ngoại tâu rằng kho vựa ở trấn mỗi năm xuất ra không mấy, thuế ruộng mùa đông năm nay nơi nào đường xa xin cho lấy tiền nộp thay thóc. Vua y lời tâu.

Cho Trương Tấn Bửu làm Chưởng dinh lãnh phó tướng Tiền quân.

Sai Trần Văn Năng đem chiến thuyền giải bọn giặc bắt được về Kinh.

Chánh trấn Thuận Thành là Nguyễn Văn Chấn dâng sớ cử quan phiên là Nguyễn Văn Tường làm Cai cơ để giúp việc trấn. Vua y cho.

Tháng 8, ngày mồng 1, Kỷ hợi, có nhật thực.

Sai đại thần lưu kinh tạm dựng nhà Thái miếu ở phía tả hoàng thành. Chiếu rằng : “Ngày nay một trận dẹp yên thiên hạ, bốn biển lặng trong, đến ngày khải hoàn thì có lễ cáo miếu. Nhưng việc xây dựng Tôn miếu công trình to lớn chưa có thể trong tuần nhật mà xong. Nay nên tạm dựng nhà Thái miếu ở phía tả hoàng thành để ngày hồi loan làm lễ chiêu cáo thành công. Những lính và thợ phục dịch thì phát tiền thưởng cho”, Lại sắc cho lưu trấn thần Gia Định rằng : “Chế độ cũ của nước ta các phủ đều được xây dựng đền miếu để thờ liệt thánh. Huống chi Gia Định là đất trung hưng, miếu cũ ở đây, phàm mọi điện lễ các khanh thay ta mà làm”.

Vua sắp xây dựng Thái miếu, hạ lệnh cho đội Mộc đĩnh ở Gia Định và dân biệt nạp gỗ lim ở Nghệ An tìm trước gỗ ván để nộp.

Sai kén 30 dân làng Quý hương bổ vào hai huyện An Lão để trực ở lăng miếu núi Thiên Tôn, lấy 100 người dân ở 11 trang thuộc tổng Thượng Bạn sung làm việc.

Đặt chức ải mục ở Lạng Sơn. Các ải Nam Quan và Du Thôn ở Lạng Sơn (Phàm có sứ bộ qua lại thì do ải Nam Quan đưa đi, người phạm tội và dân bị bão xiêu dạt thì do ải Du Thôn, đều thuộc châu Văn Uyên) thời Lê cũ có đặt hai hiệu Thủ ải tả hữu (Chánh phó thủ hiệu đều 2 người, ấn khắc chữ “Văn Uyên châu quảng úy sứ ty chi ấn”, phàm khi tiếp lãnh công văn của người Thanh thì đóng ấn ấy làm tin). Đến nay trấn thần Lạng Sơn xin dùng thủ ải cũ là Nguyễn Đình Minh và Nguyễn Đình Giáp cho làm chức ấy. Bèn cho Đình Minh làm Thủ hiệu giữ ải Nam Quan, Đình Giáp làm phó thủ hiệu giữ ải Du Thôn, cấp cho ấn đồng (Khắc chữ triện “Văn Uyên châu thủ hiệu chi chương”).

Cho Phó đô thống chế Tượng dinh là Lê Công Cúc làm Khâm sai thuộc nội chưởng cơ.

Lấy Cai đội Trương Phước Đặng làm Vệ úy Vệ Kiên dũng.

Sai Hộ bộ Nguyễn Kỳ Kế tính gộp số chi thu tiền thóc ở kho kinh làm sổ tâu lên.

Lấy Phạm Văn Lý làm Phó vệ úy vệ Tín trực.

Vua đến Văn Miếu (miếu ở phía tây nam thành Thăng Long, do nhà Lê dựng) làm lễ tế thu.

Bèn đặt phủ huyện ở Bắc Hà. Đời Lê cũ các trấn đều đặt phủ huyện, đến đời giặc Tây Sơn không đặt phủ, chỉ đặt văn thì phân chi, võ thì phân suất, chia làm việc huyện. Vua cho rằng đất Bắc Hà đã định, sai chia đặt quan chức. Phủ Phụng Thiên (tức phủ Hoài Đức ngày nay) thuộc Bắc Thành đặt một án phủ sứ và một Tuyên phủ sứ thống trị hai huyện. Các trấn Sơn Nam thượng hạ, Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Tây, Thanh Hoa nội ngoại, Nghệ An, mỗi phủ đặt một quản phủ, một tri phủ, kiêm lý một huyện, mỗi huyện đặt một tri huyện, lấy các chức cai cơ, tham quân và hương cống triều Lê cũ và những người dâng phong bì trình việc được trúng tuyển bổ vào. Những phủ huyện châu thổ dân ở Yên Quảng, Thái Nguyên, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Cao Bằng và Thanh Nghệ thì lấy quan người thổ cho quản lãnh.

Cho Cai cơ Nguyễn Bá Xuyến làm Chưởng cơ lãnh chức án phủ sứ phủ Phụng Thiên, Tham quân Lê Văn Minh làm Tuyên phủ sứ.

Dựng hành cung ở dọc đường (từ Thăng Long đến Nghệ An). Trấn Sơn Nam thượng nhân việc bắt dân góp tiền riêng, vua nghe tin, sai Binh bộ xét hỏi và thông dụ cho các trấn rằng : “Đặt hành cung chỉ để tạm nghỉ, đừng nên làm phí quá”.

Các nước Xiêm La, Chân Lạp, Vạn Tượng đều sai sứ đem quốc thư đến mừng.

Vua cùng bầy tôi bàn việc trị dân, nói tới giáo hóa, và hình phạt, dụ rằng : “Đạo trị dân giáo hóa vẫn nên làm trước. Nhưng nay dân mới trải qua thời loạn, nhiễm thói xấu đã lâu, chưa tin giáo hóa mới, trong phép trị mối loạn, hình phạt không thể dùng được. Cần phải lấy lòng kính thương mà làm cẩn thận thế nào đó thôi”.

Họ Lê họ Trịnh cùng các cựu thần văn võ và phiên tù nhà Lê dâng biểu xin vua lên ngôi hoàng đế. Vua khiêm nhường không nhận : Chiếu rằng “Từ xưa các đời dấy lên, xưng đế xưng vương danh hiệu có khác, mà làm vua trong nước coi dân như con cái thì nghĩa là một. Mới rồi Tây Sơn lấn cướp, ngôi nhà Lê mất, hơn chục năm quốc thống rối ren. Buổi đầu trẫm ở Gia Định, nghĩ đến Xã Tắc nhân dân, trước lên ngôi vương để ràng buộc lòng người. Đến khi lấy lại đô cũ thì hạ chiếu đặt niên hiệu, cũng đủ rõ ràng là đổi mới. Nay giặc đầu sỏ đã bị bắt, võ công đã xong, bọn ngươi dâng sớ xin lên ngôi hoàng đế, mối tình nâng đội thật là khẩn thiết. Vả nước ta từ thời Triệu Võ cho đến Đinh – Lê – Lý – Trần đều xưng đế hiệu, còn ghi đủ trong sử sách. Nhưng nghĩ nước nhà mới xây dựng, kẻ thương tật chưa dậy được, người bệnh khổ chưa lại hồn, phong tục kiêu ngoa chưa thay đổi hết, ngược chính tệ đoan chưa sửa chữa hết, mọi việc dân tình quốc kế trù hoạch đương bận, nếu cứ yên lặng mà ngồi thì không phải ý trẫm như thế”.

Ngày Canh tuất, đúc ấn “Trị lịch minh thời” (1. Trị lịch minh thời : Làm lịch ghi rõ thời tiết.).

Nguyễn Văn Thành dâng 10 quyển sách Trinh quán chính yếu (2. Sách ghi chép yếu ước chính sách đời Trinh Quán nhà Đường là một đời vua thịnh trị.). Vua thích xem cổ sử, thường khen chính sách tốt đẹp của Đường Văn hoàng, pháp độ đáng xem, cho nên Văn Thành lấy sách này dâng lên.

Định điều lệ kiện tụng. Sai đình thần tham chước hình luật đời Lê Hồng Đức (niên hiệu của Thánh Tông), định làm 15 điều :

1. Phàm người kiện phải cáo thực, kiện vu thì lấy tội vu đó mà xử cho, lại thu tiền tổn phí để trả cho người bị vu.

2. Phàm người nguyên cáo không biết chữ mượn người viết giúp đơn, người viết đơn thay cứ thực mà viết, không được thêm bớt, nếu xui giục người kiện và thêu dệt lời lẽ trong đơn để lừa dối kiếm lợi thì xử đồ 3 năm.

3. Phàm kiện vặt, như chửi nhau, đòi nợ, thì lý trưởng phân xử, nếu còn bị ức thì cho theo thứ tự mà kêu xét lại.

4. Phàm kiện về ruộng đất, hộ hôn, cờ bạc, đánh nhau, thì đưa đơn ở huyện, nếu còn bị ức thì theo thứ tự kêu xét lại ở phủ, rồi ở trấn. Nếu ba nha xử đoán khác nhau thì kêu xét lại ở thành. Quan trước xét xử không công bằng thì chiếu theo nhẹ nặng mà nghị phạt, phạt đến ba lần thì xử biếm hay bãi.

5. Phàm kiện trộm cướp thì đầu đơn tại phủ. Phủ nha tra hỏi rồi thì bẩm lên trấn quan xét xử. Tội đến xử tử thì bẩm lên thành quan xét duyệt. Còn những việc trộm cắp tang vật ít thì huyện nha sở tại xét xử.

6. Phàm kiện về nhân mạng, trước hết chạy xin làng tổng bắt giữ phạm nhân rồi đầu đơn kêu tại phủ. Phủ nha hội đồng với huyện nha khám nghiệm và làm biên án, bắt thủ phạm phải nộp tiền tạm mai táng là

36 quan, cấp cho thân nhân người chết nhận về mai táng. Nếu phạm nhân không có tài sản thì bắt họ hàng phạm nhân phải nộp. Phàm giết người, không hỏi thủ phạm hay tòng phạm, đều xử chém, gia sản của phạm nhân đều cấp cho thân nhân người chết. Nếu phủ ở xa thì kêu ở huyện, theo thứ tự kêu chuyển lên. Đến như xác chết đường thì dân sở tại tường trình với huyện nha khám nghiệm cho chôn rồi làm thẻ tiêu đề để đợi thân nhân người chết đến nhận.

7. Phàm người nguyên cáo kêu xét lại thì phải có lời thẩm của quan xử trước đính vào sau đơn ; nếu không theo thứ tự mà kêu vượt thì đánh mắng mà bác đơn trả về.

8. Phàm quan xét xử nhận bừa đơn kêu vượt thì quan phủ bị phạt một con trâu, chiết thành tiền 5 quan, quan trấn bị phạt 2 con trâu, chiết thành tiền 10 quan, đều nộp vào nhà nước.

9. Phàm xét hỏi kiện tụng cần phải nhanh chóng ; nếu tình lý có quan ngại thì mới có kỳ hạn : việc nhân mạng trộm cướp hạn 3 tháng, việc hộ hôn, ruộng đất, tiền của, đánh nhau, hạn 2 tháng, còn việc kiện vặt thì hạn một tháng, đều lấy ngày người bị cáo đến hầu xét làm đầu, nếu để quá kỳ, đến nỗi nguyên cáo phải kêu thì kiện lớn phạt 2 trâu, kiện nhỏ phạt 1 trâu, đều chiết nộp bằng tiền vào nhà nước. án ấy đệ lên ty trên xét xử.

10. Những thuộc viên theo khám, việc kiện lớn thì 2 người, việc kiện nhỏ thì 1 người, tiền cơm mỗi người mỗi ngày là 2 tiền ; việc kiện lớn được tiền cơm 1 tháng, việc kiện nhỏ được tiền cơm 15 ngày.

11. Người sai đi đòi bắt, án mạng và trộm cướp thì sai 3 người, còn kiện khác thì 1 người, tiền hành lý mỗi người mỗi ngày 2 tiền. Khi có nã bắt đảng cướp thì lượng phái binh lính không theo số ấy, từ 5 người trở xuống thì theo lệ cấp tiền hằng ngày, ngoài số ấy thì đều tự biện lương thực, không được yêu sách.

12. Kiện tụng lệ phải nộp tiền lễ tra, ở huyện nha thì kiện lớn nộp

3 quan, kiện nhỏ 2 quan. Huyện nha mà bị kiện tại phủ thì kiện lớn nộp

4 quan, kiện nhỏ 2 quan 5 tiền, lại truy thu số tiền lệ kiện đã nộp cho huyện nha. Như huyện nha [bị kiện] mà xử đúng lẽ thì được miễn thu, và thu ở kẻ vu khống 5 quan tiền tạ huyện nha. Phủ nha bị kiện tại trấn, kiện lớn nộp 5 quan, kiện nhỏ 3 quan, lại truy thu số tiền lệ kiện đã nộp ở phủ nha. Như phủ nha [bị kiện] mà xử đúng lẽ thì miễn thu và thu ở kẻ vu khống 10 quan tiền tạ phủ nha. Trấn quan bị kiện tại thành, kiện lớn nộp

6 quan, kiện nhỏ nộp 4 quan, lại truy thu số tiền lệ kiện đã nộp ở trấn, phủ, huyện, như trấn nha xử đúng lẽ, thì thu ở kẻ vu khống 15 quan tiền để tạ trấn quan. Tiền lễ tra thì cho thuộc viện theo khám chiếu thu mà chi dùng. Những tiền lễ tra, tiền cơm, tiền hành lý nói trên đều thu ở hai bên. Sau khi xét đoán xong sẽ thu ở bên thua mà hoàn lại cho bên được. Các thứ tiền lệ về việc án mạng và trộm cướp thì thu ở người bị cáo. Như nguyên cáo mà vu thì bị phản tọa, phải nộp các thứ tiền lệ để trả lại cho bị cáo.

13. Những việc kiện lớn thì cho thu ở phạm nhân tiền giám thủ và tiền cùm xiềng dầu đèn là 3 quan. Đàn bà con gái bị giam thì thu một nửa ; nhà ngục phải có nơi cách biệt, không được hỗn tạp. Đàn bà con gái tội không đến chết thì cho làng họ bảo lãnh để chờ xét xử.

14. Những tiền lễ tra, tiền cơm, tiền hành lý, đều chiếu y lệ định, không được lạm thu. Nếu lạm thu từ 1 quan đến 10 quan thì xử 100 roi và bãi dịch ; từ 11 quan đến 20 quan thì xử đồ 3 năm, 30 quan trở lên thì xử tử. Quan xét xử không sức bảo rõ cũng bị nghi xét. Nếu quan xét xử, dụng tình tham nhũng, xét quả thực thì xử tử.

15. Huyện mà có phủ viên kiêm lý thì những việc kiện lớn nhỏ đều cáo ở phủ, các thứ tiền lệ như tiền lễ tra, cũng như các huyện nha khác.

Vua sắp kén lấy binh lính ở Bắc Thành, nghĩ rằng các quân hiệu thuận ở Bắc Hà theo việc chinh chiến đã lâu, có nhiều công lao mà chưa được nêu thưởng, bèn sai quan cai quản tùy theo công trạng đều cấp bằng cho, đợi đến tuyển kỳ (1. Kỳ kén lính.) trình xét, quan khâm sai mạng xem công lao cao thấp, ghi làm danh sách tâu lên, sẽ lượng cho quan chức giao cho suất lãnh binh mới kén để rõ khuyến khích.

Định phép kén lính. Trước kia giặc Tây Sơn kén lính, cứ chiếu theo số đinh, 7 người lấy 1. Mỗi khi có việc trưng phát lại lùa hết dân làm lính, dân bị khổ quá. Đến nay vua sai bầy tôi làm bàn định quy chế. Sai Nguyễn Văn Trương, Lê Văn Duyệt, Lê Chất, Nguyễn Đức Xuyên, Nguyễn Quang Diệu chia nhau đi kén ở các trấn Kinh Bắc, Sơn Tây, Hải Dương, Sơn Nam thượng hạ, Thanh Hoa ngoại, chiếu theo sổ thường hành năm Giáp dần, cứ 7 đinh lấy 1 để bổ vào năm quân và các cơ đội của Phấn dực dinh và Tượng dinh. (Trung quân 10 cơ : Trung đồn 2 cơ Trung kính và Trung tiệp, Tiền đồn 2 cơ Tiền kính và Tiền tiệp, Hữu đồn 2 cơ Hữu kính và Hữu tiệp, Tả đồn 2 cơ Tả kính và Tả tiệp, Hậu đồn 2 cơ Hậu kính và Hậu tiệp. Tiền quân 10 cơ Trung đồn 2 cơ Trung chấn và Trung định, Tiền đồn 2 cơ Tiền chấn và Tiền định, Tả đồn 2 cơ Tả chấn và Tả định, Hữu đồn 2 cơ Hữu chấn và Hữu định, Hậu đồn 2 cơ Hậu chấn và Hậu định. Tả quân 10 cơ :  Trung đồn 2 cơ Trung kiên và Trung nhuệ, Tả đồn 2 cơ Tả kiên và Tả nhuệ, Hữu đồn

2 cơ Hữu kiên và Hữu nhuệ. Hậu đồn 2 cơ Hậu kiên và Hậu nhuệ. Thần võ quân 10 cơ : Trung đồn 2 cơ Trung hùng và Trung dũng, Tiền đồn 2 cơ Tiền hùng và Tiền dũng, Tả đồn 2 cơ Tả hùng và Tả dũng, Hữu đồn 2 cơ Hữu hùng và Hữu dũng, Hậu đồn 2 cơ Hậu hùng và Hậu dũng. Hậu quân

10 cơ : Trung đồn 2 cơ Trung uy và Trung thắng, Tiền đồn 2 cơ Tiền uy và Tiền thắng, Tả đồn 2 cơ Tả uy và Tả thắng, Hữu đồn 2 cơ Hữu uy và Hữu thắng, Hậu đồn 2 cơ Hậu uy và Hậu thắng. Thần sách quân Phấn dực dinh

4 cơ : Tiền dực, Tả dực, Hữu dực, Hậu dực. Tượng dinh 5 cơ : Trung kích, Tiền kích, Tả kích, Hữu kích, Hậu kích).

Sáu trấn Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Yên Quảng thì đặc biệt ra lệnh cho trấn quan kén điểm, cứ 10 đinh lấy 1, đặt làm các cơ đội thổ binh, lấy các thổ mục chia cho cai quản, theo trấn quan sai phái.

Sai Đặng Trần Thường kén lính ở phủ Phụng Thiên, sau thấy phủ Phụng Thiên là ngoại thành của Thăng Long, có nhiều tạp dịch nên lại miễn.

Định điều lệ điền cấp binh lính ở Bắc Thành. Dụ rằng : “Giữ nước không thể không có quân. Người xưa đặt phủ vệ để lính ở trong nghề nông, cốt để giữ dân. Ta nay kính theo mệnh trời lấy lại nước cũ, tìm học người xưa, về việc quân dân rất là chú ý. Mới rồi hạ lệnh cho đình thần bàn bạc, chiếu theo sổ thường hành năm Giáp dần, cứ 7 đinh lấy 1, chia lập các chi, hiệu đội của các quân, cứ những nơi gần mà thay nhau đóng giữ, ấy là để cho quen thủy thổ mà giữ lấy làng nhà của mình. Nhân nghĩ từ khi Tây Sơn trộm chiếm cứ, lấy binh không có quy chế, mà những kẻ quản lãnh thì nhũng nhiễu nhiều bề, đến nỗi tiểu dân quen thói dối trá, cẩu thả cho xong việc. Buổi đầu thái bình đã từng sức bảo cặn kẽ, nhưng còn lo dân ngu thói gian chưa đổi, nếu động là dùng hình phạt, không dạy mà giết, thực là không nỡ. Vậy định ra 9 điều lệ cấm để mọi người biết mà tự răn :

1. Kén bổ binh lính nên chọn những nhà nhiều đinh giàu mạnh, không được ức bắt những người kiều ngụ (1. Kiều ngụ là ở ngụ làng khác.) cô đơn nghèo cùng, làm trái thì xử theo quân pháp.

2. Phép trị binh phải luyện tập lâu ngày thời đồ trận (2. Đồ là địa đồ, trận là thế trận.  ) mới tinh thuộc, bộ ngũ mới chỉnh tề. Trước đây trong dân xã cứ khoán ước riêng nhau người làm lính lấy 3, 4 năm hoặc 5, 6 năm làm một khóa, con em nhà giàu đã tòng quân rồi cũng tìm cách để thay đổi, đến nỗi sáng bổ chiều thay, việc binh không tinh luyện. Từ nay, phàm binh lính đã được sung đội ngũ không được thay đổi nữa. Như có người tuổi tới 50, hay bị bệnh nặng, hoặc trốn, hoặc chết, thì quản quan báo cho bộ, hạ lệnh cho dân xã chọn người khác sung bổ. Nếu vô cớ mà riêng lấy giấy phiếu của quản quan để thay điền thì quản quan và binh lính xã trưởng đều bị xử theo quân pháp.

3. Binh lính tại ngũ mà trốn, đòi bắt không được, tức bắt cha con, anh em, họ hàng để sung điền, nếu không có ai thì mới được chọn người khác.

4. Binh lính trốn mà nã bắt được thì lần thứ nhất đánh 90 roi, truất làm quân nấu bếp, tái phạm thì xử chém ngay, không bắt điền cấp.

5. Binh lính trốn về quân bị người cáo giác ra, thì binh lính trốn và xã trưởng đều xử theo quân pháp. Nếu người cáo giác là người trong đội thì được miễn trừ binh dao trọn đời, hạ lệnh xã dân chọn người khác điền thay ; nếu là người ngoài đội thì thu lấy 50 quan tiền ở lý dịch làng quê [người lính trốn] để thưởng cho.

6. Binh lính các xã trước bị giặc Tây Sơn kén bổ, gián hoặc có kẻ đầu hàng và do quan quân bắt được, hiện đương tại ngũ, thì đều cho về quê ứng tuyển, chiếu số trừ đi để cho dân xã khỏi phải chịu hai lần. Những người đã được châu thị cho làm cai đội phó đội trở lên thì không ở lệ này.

7. Binh lính mới điền thì xã dân nên dự bị cho mỗi người một cái

bao vải dài 3 thước 5 tấc, một cái áo trận hai lần vải, ngoài màu thâm trong màu vàng đều 8 thước, một cái quần màu gỗ vang 6 thước tơ gốc và 1 thước vải cạp, tiền cúc chỉ và công may 5 tiền, nộp ở quan thành để tùy tiện

may phát.

8. Phàm binh lính mới đã có lương, dân xã phải phụ nuôi, mỗi tháng cấp 1 quan tiền, mỗi năm một cái khăn vải thâm dài 4 thước 5 tấc, 2 cái áo đơn vải thâm, mỗi cái 10 thước vải, 2 cái quần mỗi cái 7 thước vải. Nếu trong xã có ruộng đất công, thì cho chiếu cấp khẩu phần, ruộng nương và đất bãi chiếm riêng ngoài lệ đều cấm.

9. Những binh lính mới kén sau khi sung đội ngũ mà quan cai quản lại bắt đóng góp làm lợi riêng thì có tội ; xã dân hùa theo, tội cũng như thế”.

Lại đặt lại 5 điều lệnh cấm ở các dinh quân ;

1. Binh lính tuổi đến 50, cùng người bị bệnh không chịu nổi việc quân ngũ và người trốn người chết thì quan cai quản báo về bộ, để hạ lệnh cho dân chọn người điền thế, không được riêng tư đòi bắt, cũng không được  nhận của dân đút lót để riêng cho thay đổi. Làm trái thì xử theo quân pháp.

2. Đạo làm tướng, phải rõ quân luật, cần được lòng quân. Binh lính thì chỉ nên thao diễn và sai phái ; nếu tự tiện sai buôn bán kiếm lời, hoặc

riêng cho về nghỉ, sai làm việc riêng, thì đều xử theo quân pháp. Lại theo quân chính mà bắt tội liên can, như ngũ trưởng phạm tội thì tội lây đội trưởng, đội trưởng phạm tội thì lây cai đội. Người nào biết mà phát giác thì được miễn.

3. Binh lính mới bổ đã có lương tháng, xã dân phụ dưỡng, mỗi tháng chỉ cấp 1 quan và vải khăn áo quần như lệ, ngoài ra đều cấm hết. Nếu xã dân không phụ dưỡng và binh lính đòi hỏi ngoài lệ, thì đều đầu đơn kêu ở bộ, quan cai quản không được đòi riêng.

4. Binh lính mới sung đội ngũ, về áo quần và bao vải xã dân sắm sửa cho đã có định lệ, quan cai quản không được nhẹ dạ nghe lính mà bắt dân phụ thêm ; làm trái thì xử tội nặng.

5. Theo binh pháp tướng không ra khỏi dinh. Quân thú ở đâu cho lấy binh lính dựng nhà công sảnh, không được sai làm nhà riêng ; làm trái thì có tội”.

Miễn tô thuế cho dân xiêu dạt ở trấn Nghệ An và trấn Thanh Hoa ngoại. Những người có ruộng đất mà Tây Sơn chiếm làm ruộng quan trại và ruộng ngụ lộc, đợi dân ấy trở về thì trả lại hết.

Lại cho phủ Kinh Môn theo về Hải Dương. Kinh Môn trước thuộc Hải Dương, giặc Tây Sơn cho lệ vào Yên Quảng, đến nay trở về. Lại thấy Yên Quảng số đinh điền ít, hạ lệnh cho 7 huyện ở trong phủ ấy chở nộp lương tiền ở Yên Quảng.

Đặt lại dịch ở các trấn, phủ, huyện. Năm nội trấn ở Bắc Thành (Sơn Nam thượng, hạ, Hải Dương, Kinh Bắc, Tây Sơn đều là dân Hán (1. Ngày nay gọi là người Kinh.), gọi là năm nội trấn) mỗi trấn hai ty Tả thừa Hữu thừa, mỗi ty đặt 1 câu kê, 1 cai hợp, 1 thủ hợp và 22 người thuộc ty ; mỗi phủ đặt 2 đề lại, 10 thông lại ; mỗi huyện đặt 2 đề lại, 8 thông lại ; mỗi phủ huyện đều 50 người lính lệ ; mỗi tổng đặt 1 tổng trưởng và 1 phó tổng. Các trấn Nghệ An và Thanh Hoa nội, ngoại cũng thế. Sáu ngoại trấn của Bắc Thành (Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Yên Quảng, người Nùng người Thổ ở lẫn gọi là sáu ngoại trấn), mỗi ty Tả thừa Hữu thừa đều đặt 1 cai hợp, 1 thủ hợp và 13 người thuộc ty.

Kén lính ở Nghệ An và Thanh Hoa, chiểu theo sổ đinh, 7 người lấy 1 bổ vào các dinh vệ quân Thần sách. (4 vệ Ban trực tuyển phong tiền, Trung võ, Uy võ, Tín uy thuộc Trung dinh, 4 vệ Long võ, Phấn võ, Minh võ, Kiên uy thuộc Tiền dinh, 4 vệ Ban trực tuyển phong hữu, Định võ, Dương võ, Toàn võ thuộc Tả dinh, 4 vệ Ban trực tuyển phong tả, Túc võ, Hổ uy thuộc Hữu dinh, 4 vệ Ban trực tuyển phong hậu, Quảng võ, Tráng võ, Cường uy thuộc Hậu dinh).

Tháng 9, phong cho dòng dõi nhà Lê là Lê Duy Hoán làm Diên Tự công. Trước kia trong thời Tây Sơn, Duy Hoán theo cha là Duy Chi chạy đến Bảo Lạc, Duy Chi bị giặc giết, Duy Hoán lẩn nấp nương nhờ bọn phiên thần Thái Nguyên là Ma Thế Cố. Đến nay vua sai hỏi dòng dõi nhà Lê, Thế Cố đem việc ấy tâu lên. Bèn triệu [Lê Duy Hoán] mà phong cho. Chiếu rằng: “Vương giả dựng nước, suy tôn dòng dõi đời trước là giữ hậu đạo. Nhà Lê từ khi mở nước đến lúc trung hưng, đời đời nối nhau hơn 300 năm, trước sau 25 vua. Quãng giữa tuy là không quyền những vẫn là vua chung cả nước. Kịp khi Tây Sơn nổi loạn, miếu thờ bỏ nát. Nay ta vâng đem uy trời, thống nhất bờ cõi, nghĩ tôn điển lễ để giữ thờ cúng cho họ Lê. Lê Duy Kỳ tuy là dòng đích phái của Hiển tông, mà không giữ được nước, chạy sang nước Thanh, mà cha ngươi là Duy Chi trong khi điên bái đã bỏ mình vì nước, tỏ rằng con cháu nhà Lê còn có người, trẫm rất khen ngợi. Vậy đặc phong cho ngươi làm Diên Tự công, cho thế tập tước vị, để vâng giữ việc thờ cúng ở miếu nhà Lê, cấp cho tự dân 1.016 người, tư điền 10.000 mẫu. Ngươi nên kính sửa lễ tiết, thờ cúng lâu đời để giữ Phước chung”. (Dân tạo lệ 100 người, dân ngụ lộc 916 người, hằng năm thu tiền tô dung hơn

2.600 quan tiền, lại thêm tiền kho 370 quan để cung việc tế tự ; ruộng 10.000 mẫu, hằng năm thu thóc tô hơn 6.000 hộc, chia cấp cho người trong họ làm lộc thường). Các chi họ Lê đều được miễn binh dao và thân thuế. Duy Hoán vào tạ, ban cho mãng bào và mũ áo.

Cấp ruộng thờ cho họ Trịnh, sai Trịnh Tư coi giữ việc thờ cúng. Chiếu rằng : “Tiên tổ nhà ngươi vốn là người thông gia. Trung gian Nam Bắc chia đôi bờ cõi, đều là công việc đã qua. Từ khi nhà Lê mất ngôi, nơi thờ họ Trịnh bỏ nát. Nay ta một trận dẹp yên, bốn biển trong lặng, nói đến tình thân qua cát (1. Qua cát : Cây dưa cây sắn, loài cây bòn lan, cây nọ quấn quýt cây kia.), nghĩ cũng nên thương. Vậy cho ngươi coi giữ việc thờ tự họ Trịnh, cấp cho ruộng 500 mẫu để thờ cúng”. (Hằng năm thu tô được 333 hộc lúa, 75 quan tiền). Lại tha binh dao, và thân thuế cho 247 người họ Trịnh.

Cho con cháu các công thần khai quốc và trung hưng đời Lê trước được nhiêu ấm. Chiếu rằng : “Họ Lê từ đời Thái tổ bình Ngô mở nước, đến Trang tông diệt Mạc trung hưng, trong khoảng ấy có nhiều người công to giúp nước, tước ấm nối đời. Đến sau vận nhà Lê suy, Tây Sơn nổi loạn, con cháu công thần bị hạ xuống như dân thường. Ta nay quyết chí giết thù, dẹp bằng kẻ loạn, nghĩ lại công thần đời trước, bàn nên hỏi han giúp đỡ để rộng điển lễ báo công. Vậy sai lục 33 người công thần khai quốc, và 15 người công thần trung hưng đời Lê trước, xét công xếp làm bực nhất, bực nhì, mỗi người công thần cho một người con cháu được miễn phu dịch, đời đời giữ việc thờ tự ; công thần bực nhất thì thêm cho 2 người trong họ làm sái phu, miễn cho dao dịch”. (Công thần bình Ngô khai quốc, bực nhất là Thái úy Phước quốc công Lê Lai, Thái phó Đạt quốc công Lê Văn Linh, Thái sư Cương quốc công Nguyễn Xí, Thái bảo Khuê quốc công Nguyễn Trãi ; Bậc nhì là Thái sư Dụ quốc công Nguyễn Lý, Thái úy Khang quốc công Phạm Văn Liêu, Thái phó Trang quốc công Bùi Quốc Hưng, Thái sư Lân quốc công Đinh Liệt, Thái úy Hạo quốc công Lê Bồi, Thái phó Thân quốc công Trần Lạn, Tư quốc công Lê Khả Lãng, Thái úy Vinh quốc công Lê Sao, Diên ý dụ vương Ngô Từ, Thái sư Định quốc công Lê Khuyển, Thái phó Chù quốc công Lê Cuống, Thái úy Phấn quốc công Lê Luân, Thái phó Tuy quốc công Nguyễn Nhữ Soạn, Thái úy Khác quốc công Lê Văn An, Khang quốc công Lê Lộng, Trang quốc công Lê Thành, Thái bảo Hùng quốc công Lê Hiểm, Thái úy Giới quốc công Lưu Trung, Thiệu quốc công Lê Lễ, Thái bảo Đôn quận công Lê Ngang, Thái úy Lý quận công Lê Chiến, Hiệp quốc công Lê Văn Lễ, An quốc công Lê Khắc Phục, Thái phó Khuông quốc công Đỗ Bí, Thiếu úy Tuy quốc công Võ Uy, Thái úy Lũng quốc công Lưu Nhơn Chú, Liệt quốc công Trịnh Khả, Thái bảo Hiến quốc công Nguyễn Chích, Thái phó Vĩ quốc công Lê Náo. Công thần diệt Mạc trung hưng, bực

nhất là Tả tướng thượng tể Diễn quốc công Lê Bá Ly, Thái úy Tĩnh quốc công Phạm Đốc, Thái tể Vinh quốc công Hoàng Đình ái, Thái úy Dương quốc công Nguyễn Hữu Liêu, Nghĩa quốc công Đặng Huấn ; bực nhì là Thái phó Khiêm quốc công Lại Thế Khanh, Thái úy Chí quận công Hồ Văn Khu, Thái phó Quế quận công Nguyễn Hữu Đức, Thái bảo Phú quận công Bùi Khắc Nhất, Phổ quận công Nguyễn Tường, Mai quận công Phùng Khắc Khoan, Hộ bộ thượng thư Lương Trí, Thiếu úy Phú quận công Hoàng Nghĩa Lãng Thái úy Gia quốc công Võ Công Mật, Trình quận công Lê Phước Trật).

Sai các quan trấn Thanh Hoa nội là bọn Tôn Thất Chương kiêm lãnh trấn Thanh Hoa ngoại.

Vua thấy Thanh Hoa nội và ngoại trước vẫn là một trấn, trung gian mới chia làm hai, bèn sai bọn Tôn Thất Chương kiêm lãnh cho có thống thuộc. Phàm việc binh dân kiện tụng ở ngoại trấn có việc quan trọng đều do quan nội trấn xét định, duy có tô dung thuế khóa thì thu nộp ở ngoại trấn thôi.

Ban quan tước cho các thổ tù ở Bắc Hà. Vua cho rằng thống lãnh thượng đạo Thanh Hoa là Hà Công Thái tập họp các thổ mục ứng nghĩa có công nên phong cho tước quận công ; các phiên thần ở Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thái Nguyên là Nông Phước Liêm, Ma Thế Cố làm Tuyên úy đại sứ, Ma Sĩ Trạch, Nguyễn Quảng Chiếu, Nguyễn Khắc Trương, Ma Thế Nhi, Đinh Công Vượng, Đinh Công Trinh làm Tuyên úy sứ, Đinh Công Kiêm làm Chiêu thảo sứ, Phan Bá Phụng làm Khâm sai cai đội, đều phong tước hầu, Cầm Nhơn Nguyên làm Phòng ngự đồng tri, Lê Kim Công làm Phòng ngự thiêm sự, đều phong tước bá.

Sai Bắc Thành đóng gông đưa 7 tên giặc bắt được là bọn Dương Thất Nguyên, Ngô Tam Đồng sang nước Thanh.

Vua cùng bầy tôi bàn phép khoa cử, dụ rằng : “Khoa mục là con đường bằng phẳng của học trò, thực không thiếu được. Phải nên giáo dục thành tài, rồi sau thi Hương thi Hội lần lượt cử hành, thì người hiền tài sẽ nối nhau lên giúp việc”.

Đặt chức đốc học ở các trấn Bắc Thành, lấy học sĩ Nguyễn Đình Tứ làm đốc học phủ Phụng Thiên, Lê Huy Sầm làm đốc học Kinh Bắc, Ngô Xiêm làm đốc học Tây Sơn, Võ Đình Tử làm đốc học Sơn Nam thượng, Nguyễn Huy Thảng làm đốc học Sơn Nam hạ. (Đốc học Kinh Bắc kiêm đốc học Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng ; đốc học Sơn Tây kiêm đốc học Hưng Hóa, Tuyên Quang, đốc học Hải Dương kiêm đốc học Yên Quảng).

[ Kết thúc bản Duy Minh Thị 1873 ]

Lấy Nguyễn Gia Cát làm Cần chính điện học sĩ kiêm chế cáo lệnh, cùng với Phạm Thích họp làm công việc từ chương ở Bắc Thành.

Cho Bùi Huy Bích 200 quan tiền. Huy Bích người làng Thịnh Liệt, huyện Thanh Trì, đỗ tiến sĩ triều Lê, có tiếng văn học, làm quan đến chức Tham tụng. Năm Bính ngọ Tây Sơn cướp miền Bắc, vua Lê ghét vì cầm chính quyền mà không nên gì, đổi ra làm giám quân. Quân tan vỡ, nhà Lê mất, Huy Bích ẩn nấp ở chốn dân gian, khôn khéo giữ được mình. Đến nay nhờ Nguyễn Huân tâu xin được vào bái kiến. Vua thấy già yếu, cho ngồi hỏi chuyện, ban cho hậu rồi cho về.

Lấy Cai bạ Bình Định là Nguyễn Văn Khiêm làm Hộ bộ.

Triệu Ký lục Quang Binh là Nguyễn Văn Quý đến hành tại. Vua hỏi về mùa màng tốt xấu thế nào và về tình trạng dân gian. Thưa rằng : “Từ sông Gianh về Nam, thóc lúa được mùa, dân đều ca ngợi ơn trạch nhà vua”.

Lấy Hiệp trấn Kinh Bắc là Nguyễn Văn Lễ làm Hữu tham tri Binh bộ, Ký lục Quảng Nam là Nguyễn Văn Phương làm Hiệp trấn Thanh Hoa.

Trấn thủ Hải Dương là Trần Công Hiến và Hiệp trấn là Ngô Đức Tuấn ức hiếp người buôn lấy tiền của, việc phát giác, vua cho rằng Công Hiến là người võ biền chỉ đánh roi, cho Đức Tuấn là quan văn mà khinh nhờn pháp luật nên bị miễn. Lấy Nguyễn Văn Quý làm Hiệp trấn Hải Dương.

Vua cùng bầy tôi bàn đến chế độ đinh điền. Dụ rằng : “Đời xưa lấy thuế ở dân có chế độ cho nên có thể trị yên lâu dài. Giặc Tây Sơn đánh thuế không có chuẩn đích, chính lệnh bất thường, không thất bại sao được ? Nay nên đổi tệ ấy đi, lập làm phép giản dị bình thường, khiến quan có chỗ giữ, dân có chỗ theo, thì mới có thể lâu mà không sinh tệ”. Bầy tôi đều nói rằng: “Nhà vua nghĩ đến thế, thực là Phước cho sinh dân trong nước”.

Định bỏ thầu về các quan tân đầm mỏ ở Bắc Thành. Phàm người lãnh trưng hằng năm cứ đến cuối mùa đông thì đấu giá, bộ Hộ và bộ Binh họp lại cho thầu. Ai bỏ giá cao hơn thì cấp bằng cho (bằng đóng ấn “Sinh tài hữu đạo chi ấn” (1. Sinh tài hữu đạo : Làm ra của cải phải có đạo.). Người lãnh trưng chia từng kỳ mà nộp.

Cho Nguyễn Văn Trương 500 quan tiền, Lê Văn Duyệt và Lê Chất mỗi người 1.500 hộc thóc.

Lấy Vệ úy vệ Địch võ là Nguyễn Xuân làm Khâm sai chưởng cơ phó thống Tiền đồn Tiền quân.

Lấy Lê Thế Khoan làm Cai đội, sai mộ dân ngoại tịch lập làm cơ Thiên hùng.

Cho Ngô Hữu Du là con Hình bộ Ngô Hữu Hựu được ấm thụ chức hàm Cai hợp.

Bàn đặt chức Tổng trấn Bắc Thành. Vua sắp hồi loan, dụ bầy tôi rằng : “Nay võ công đã yên mà ta chưa bái yết Thái miếu ; huống chi hai ba năm nay xa cách Từ cung, mối tình quạt nồng ấp lạnh, canh cánh bên lòng. Nếu cứ ở ngoài mãi để đợi đại điển bang giao thì lòng ta có chỗ không yên. Vậy nên bàn việc hồi loan. Duy đất Bắc Hà vừa dẹp yên, dân vật đều mới, mà thành Thăng Long lại là nơi quan trọng của Bắc Hà, cần có trọng thần để trấn giữ mới được”.

Lấy Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn Bắc Thành, ban cho sắc ấn, 11 trấn nội ngoại đều lệ thuộc. Phàm những việc cất bãi quan lại, xử quyết kiện tụng, đều được tùy mà làm rồi sau mới tâu. Lại đặt ba tào Hộ Binh Hình ở Bắc Thành, Hộ bộ Nguyễn Văn Khiêm, Binh bộ Đặng Trần Thường, Hình bộ Phạm Như Đăng lãnh các tào ấy, theo quan Tổng trấn để xét biện công việc.

Sai các quân ở lại đóng giữ Bắc Thành. Lấy Chưởng dinh là Nguyễn Đình Đắc quản 3 vệ Nghiêm dũng, Kiên dũng, Hiến dũng quân Thần sách, Phó tướng Huỳnh Văn Điểm quản 10 cơ ngũ Kính ngũ Tiệp Trung quân, Chưởng cơ Nguyễn Văn Thoại quản 10 cơ ngũ Chấn ngũ Địch Tiền quân, Trần Quang Khương quản 10 cơ ngũ Kiên ngũ Nhuệ Tả quân, Ngô Văn Ngữ quản 10 cơ ngũ Uy ngũ Thắng Hậu quân, Nguyễn Đình Tuyển quản 10 cơ ngũ Hùng, ngũ Dũng quân Thần võ, Thống binh cai cơ Hồ Văn Thoại quản 4 cơ tứ Dực dinh Phấn dực.

Lấy 3 cơ Tiền hùng, Tả hùng, Hữu hùng Tượng dinh cho đóng giữ Bắc Thành, 3 cơ Tiền kích, Trung kích, Tả kích cho đóng giữ trấn Sơn Nam thượng, 2 cơ Hữu kích, Hậu kích cho đóng giữ trấn Thanh Hoa ngoại.

Lấy Nguyễn Đình Đức làm Tham tri Hộ bộ giúp công việc Hộ tào Bắc Thành, Trần Đại Luật làm Trấn thủ Sơn Nam thượng, Phan Tấn Huỳnh làm Trấn thủ Kinh Bắc.

Sai Công bộ Trần Văn Thái kiêm quản công việc Trường Đà. Văn Thái nhân cử Trần Văn Đức làm Cai đội, coi những đà công [tay lái] và thủy thủ [chân chèo] ở các đội Trường Đà, Thuận Thủy, Mã Hải, Kỵ Hải, Trường Thọ, hằng năm vận chở thóc thuế ở các địa phương về Kinh. Vua y cho.

Sai Nguyễn Văn Thành lượng cắt binh lính mới kén cấp cho các trạm, mỗi trạm 150 người, để sung vào việc đài đệ. Lại sai dinh thần Quảng Bình chỉnh bị ghe thuyền chờ ở bến đò Thượng Lập.

Ngày Bính thân, xa giá đi từ thành Thăng Long. Dụ Nguyễn Văn Thành rằng : “Công việc Bắc Thành, ủy hết cho khanh, khanh nên cố gắng”. Văn Thành lạy xin vâng mệnh, nhân đó tâu rằng : “Việc binh việc dân và việc lý tài ở Bắc Thành ba điều ấy rất quan trọng, phải xếp đặt rất nhiều, thần xin ngày ghi từng việc, mỗi tháng đóng thành tập đệ tâu một lần”. Vua cho là phải.

Sai Nguyễn Văn Trương, Lê Văn Duyệt, Lê Chất, Tống Phước Lương đều đem thủy quân bộ quân đi trước, bọn Nguyễn Đức Xuyên và Trần Văn Tín đi theo hầu.

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển XIX – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Nhâm tuất, năm Gia Long thứ 1 [1802], mùa đông, tháng 10, ngày Kỷ hợi, mồng 1, xa giá đến Thanh Hoa yết lăng miếu ở núi Thiên Tôn.

Ngày Nhâm tý, xa giá đến Hành cung Thượng Lập, ra lệnh đi đường sông. Ngày Quý sửu đến Kinh sư. Ngày Đinh mão, vua thân yết Thái miếu rồi đến thăm sức khỏe của Từ cung. Đặt yến lớn đãi bầy tôi.

Nước Vạn Tượng sai sứ đến cống. Ban cho 100 quan tiền rồi cho về.

Gia Định bị đói. Chiếu cho lưu trấn thần phát một vạn hộc thóc cho dân nghèo vay. Những nhân viên hưu dưỡng và các quan kinh có vợ con ở quê quán cũng được vay.

Triệu Lưu thủ Bình Định là Lê Văn Lân về Kinh, lấy Khâm sai cai cơ Mai Tiến Huệ làm Lưu thủ Bình Định.

Vua thấy trấn Hà Tiên từ sau khi gặp cuộc binh loạn, dân chưa trở về đủ, bèn sai Trấn thủ Mạc Tử Thiêm chiêu phủ dân về, khiến cho yên họp, hết thảy phú thuế dao dịch đều miễn cả.

Cho Trần Đình Hoán được nhiêu ấm. Đình Hoán là cháu gọi Cai đội Trần Đình ái bằng chú bác. Đình ái là người Thanh Chương, đi đánh giặc bị chết trận. Vua thương vì không người kế tự, cho Đình Hoán được nhiêu ấm để giữ việc thờ cúng.

Sai trấn Gia Định xét tình hình động tĩnh của dân gian và tình hình mùa màng tốt xấu, mỗi tháng đóng thành tập để tâu.

Sáu ngoại trấn Bắc Thành kén điểm thổ binh, nhân dân nhiều người ngờ sợ. Vua nghe tin, sai tuyên dụ các phiên thần rằng : “Thổ binh 10 người chỉ lấy 1 người, so với 5 nội trấn thế là đã rộng rãi rồi. Huống chi thổ binh lại do quan thổ trông nom. Triều đình lập pháp rất tiện cho dân, đừng nghi ngờ nữa”. Từ đó dân thổ mới được yên lòng.

Vua thấy từ Nghệ An ra Bắc ruộng đất bị bỏ hoang nhiều, sổ sách ghi chép lại không được thực, bèn sai quan sở tại, phàm các nơi có bãi nổi chưa thành thổ và ruộng hoang chưa khai khẩn hết thì khám xét rõ ràng, làm sổ đệ lên cho Hộ bộ bàn định thuế khóa.

Định lệ thuế quan tân ở Bắc Thành. Phàm thuyền buôn đi lại thì chiếu hàng hóa 40 phần đánh thuế 1 phần. Lại dụ khắp cho các xã dân các trấn, thu tô những ruộng phụ canh, ngoài thuế chính cung không được đòi hỏi gì khác.

Kén 50 người giáo phường ở Thanh Nghệ đến cuối mùa đông vào Kinh để dâng ca nhạc tế Thái miếu.

Khai mỏ vàng, bạc, đồng, kẽm ở Tuyên Quang và Hưng Hóa, sai bọn thổ mục Ma Doãn Điền, Hoàng Phong Bút và Cầm Nhơn Nguyên lãnh trưng. (Ma Doãn Điền khai mỏ chì Kim Tương, Hoàng Phong Bút khai mỏ đồng Tụ Long, mỏ bạc Nam Đương, mỏ vàng Tú Sơn, Cầm Nhơn Nguyên khai mỏ vàng Mẫn Tuyền, mỏ chì Tú Dung), định sang năm bắt đầu trưng thuế. Lại thấy dân Man các tộc Sơn Tử, Sơn Trang và Sơn Man có nhiều người bỏ trốn, sai các thổ mục vời gọi về, đợi khi đã hồi phục lường định thuế khóa.

Tháng 11 làm lễ tuyên cáo võ công. Ngày Quý dậu tế thiên địa thần kỳ. Ngày Giáp tuất hiến phù (1. Hiến phù : Dâng những người bắt được trong chiến tranh.) ở Thái miếu.

Sai Nguyễn Văn Khiêm là Đô thống chế dinh Túc trực, Nguyễn Đăng Hựu là Tham tri Hình bộ áp dẫn Nguyễn Quang Toản và em là Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn ra ngoài cửa thành, xử án lăng trì cho 5 voi xé xác (Dùng 5 con voi chia buộc vào đầu và hai tay hai chân, rồi cho voi xé, đó là một thứ cực hình), đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giã nát rồi vất đi, còn xương đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ của vợ chồng Huệ thì đều giam ở Nhà đồ Ngoại (2. Ngoại đồ gia : Sau đổi là Vũ khổ.) (năm Minh Mệnh thứ 2 đổi giam vào ngục thất cấm cố mãi mãi). Còn đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết. Xuống chiếu bố cáo trong ngoài.

Chiếu rằng : “Trẫm nghe, vì chín đời mà trả thù (1. Xuân Thu, Công Dương truyện, Trang công năm thứ 4 chép : Tề Tướng công giết nước Kỷ, vì ông tổ xa đời là Ai công mà phục thù, đời gọi là mối thù chín đời.) là nghĩa lớn kinh Xuân Thu ; thương muôn dân mà đánh giặc là lòng nhân của vương giả. Truân hanh (2. Trải qua khó nhọc mà đến thành công là quẻ truân mà đến hào hanh.) mới rõ công to ; hoán hãn (3. Chỉ hiệu lệnh của vua.) để ban hiệu lệnh. Nhà nước ta, Tống Sơn đúc khí thiêng, Gia Miêu gây điềm tốt. Từ Tiên vương cả gây nền lớn, nhân hậu một mạch cùng truyền. Đến Liệt thánh vâng nối công to, thái bình hai trăm năm lẻ. Chợt nửa chừng gặp lúc gian truân, để ngoan dân gây nên biến loạn. Chiếm giữ thành ấp ta ; tàn ngược sinh dân ta. Từ Nhạc, Huệ về sau, đến Quang Toản về trước, chứa tội ác không phải một ngày ; Từ Thuận Quảng vào Nam, đến Linh Giang ra Bắc, gây tai họa khắp cả mọi phương. Trẫm nghiến răng vì thù nước, đau ruột bởi ách dân. Dời đổi không thường há như Thiếu Khang nhà Hạ ở Hữu Nhưng (4. Vua nhà Hạ là Thiếu Khang sinh ở Hữu Nhưng, rồi sau dẹp yên loạn Hậu Nghệ mà trung hưng được nhà Hạ) ; Lo lắng phục hồi, còn hơn Quang Vũ nhà Hán ở Bạch Thủy (5. Hán Quang Vũ dấy quân ở quận Bạch Thủy, đánh Vương Mãng mà dựng nghiệp trung hưng). Bởi trời muốn thử thách để trao mệnh lớn, nên trẫm phải ẩn nhẫn để chờ thời cơ. Vận hội lúc đã đến trung hưng. Quân đánh dẹp ngày càng chỉnh đốn. Năm Mậu thân mới từ Xiêm La trở về Gia Định. Năm Kỷ mùi tiến lấy Quy Nhơn ; năm Tân dậu đánh được Phú Xuân. Bọn giặc vội vàng ; một ngựa bỏ chạy. Từ đó, Hoành Sơn một giải, cõi xưa thu về. Duy còn giặc Diệu quân cô, lũy cũ vẫn đóng. Nghĩ trừ ác trước nên trừ mống, mà căm thù ta phải mài gươm. Quân giáp đánh vừa qua lũy mạnh, giặc trốn đi bỏ mất thành Bàn. Nó đã nhụt khí phải chạy đêm, ta bèn đem quân đánh ra Bắc. Tháng 5 năm nay ta đem đại chúng thẳng vượt sông Gianh. Theo gió phóng lửa, mạnh tựa đốt lông ; hẹn ngày thành công, dễ như chẻ trúc. Các đạo Hoan ái, chốc đã phá tan. Giặc Diệu giặc Dũng, cùng đường sa hố. Thẳng một lối sấm vang chớp giật ; khắp mọi thành ngói lốc tro bay. Giống giặc bắt xong ; tội nhân được hết. Mây tối quét sạch, cả gầm trời bờ cõi sáng trong ; ngựa bay khải hoàn, bao sông núi đầy đường tươi đẹp. Đó thực là nhờ được Trời cao giúp đỡ, chín miếu(6. Chín miếu ở đây là miếu thờ chín đời chúa Nguyễn trước Gia Long.  6) thiêng liêng, các tướng gắng công, ba quân đua sức, nên mới được thế. Ngày mồng 6 tháng này, tế cáo Trời Đất ; ngày mồng 7 yết tế Thái miếu, làm lễ hiến phù, bọn Nguyễn Quang Toản và ngụy thái tể Quang Duy Nguyên súy Quang Thiệu, Đốc trấn Quang Bàn, Thiếu phó Trần Quang Diệu, Tư đồ Võ Văn Dũng, Tư mã Nguyễn Văn Tứ ; Đổng lý Nguyễn Văn Thận, Đô ngu Nguyễn Văn Giáp, Thống tướng Lê Văn Hưng, cùng với bè lũ đầu sỏ đều đã bắt giam, đều đem giết cả, bêu đầu bảo cho dân chúng. Nhạc Huệ trời đã giết rồi, cũng đem phanh xác tan xương, để trả thù cho Miếu Xã, rửa hận cho thần nhân. Ôi ! Tàn tặc dẹp yên, đã thành công đại định ; xa thư một mối, hưởng chung Phước thái bình”.

Thưởng cho các quân thủy bộ.

Chiếu rằng : “Từ khi khắc phục kinh đô, giống giặc chạy ra Bắc, trẫm thấy giặc nước chưa trừ, cần phải dấy binh tiến đánh. Tướng sĩ thủy bộ các ngươi cùng lòng căm giận, thề diệt cừu thù. Cuối cùng trừ hết giống giặc, cả định võ công, đều là nhờ ở sức của tướng sĩ cả. Nay tới cuộc mừng khải hoàn, thưởng cho 5 vạn quan tiền, chia cấp cùng nhau yến hưởng, để đáp sự khó nhọc đặc biệt”.

Ưu cấp cho các công thần về hưu. Vua bảo bầy tôi rằng : “Trẫm từ khi  vận nước suy vi, bôn ba nhiều chỗ, các tướng sĩ đi theo giúp đỡ, khi trú ngụ ở thành Vọng Các, nếm đủ gian khổ, hoặc năm Mậu thân mới lấy Gia Định, ứng nghĩa cần vương. Sau có người nhân đánh giặc bị thương hoặc già ốm mà phải về quê quán nghỉ ngơi. Hiện nay nước nhà đã yên, trẫm nhớ lại công trước, nên bàn việc đáp đền”. Bèn chuẩn định những người theo đi Vọng Các, hằng tháng được cấp tiền lương, những người đầu quân từ sau năm Mậu thân trước năm Canh thân, cho lập thuộc binh, đều chia làm ba hạng, ban cấp theo bực khác nhau. (Phàm người có dự theo đi Vọng Các, thì biền binh về hưu mà đánh trận bị thương là hạng nhất, người bệnh khỏi đợi dùng, cùng người tuổi già ốm yếu là hạng nhì. Người can phạm kỷ luật đã xá miễn là hạng ba. Chánh vệ, chánh chi thì hạng nhất mỗi tháng cấp

12 quan tiền, 12 phương gạo, hạng nhì 6 quan tiền, 6 phương gạo, hạng ba 3 quan tiền 3 phương gạo ; phó vệ phó chi thì hạng nhất 10 quan tiền

10 phương gạo, hạng nhì 5 quan tiền 5 phương gạo, hạng ba 2 quan 5 tiền

2 phương 15 uyển gạo ; trưởng hiệu cai cơ, cai đội thì hạng nhất 8 quan tiền 8 phương gạo, hạng nhì 4 quan tiền 4 phương gạo, hạng ba 2 quan tiền

2 phương gạo ; phó đội thì hạng nhất 6 quan tiền 6 phương gạo, hạng nhì

3 quan tiền 3 phương gạo, hạng ba 1 quan 5 tiền, 1 phương 15 uyển gạo ; đội trưởng thì hạng nhất 4 quan tiền, 4 phương gạo, hạng nhì 2 quan tiền,

2 phương gạo, hạng ba 1 quan tiền 1 phương gạo ; binh đinh thì hạng nhất 2 quan tiền 2 phương gạo, hạng nhì 1 quan tiền 1 phương gạo, hạng ba

5 tiền 15 uyển gạo. Từ năm Mậu thân về sau, năm Canh thân về trước, biền binh về hưu và đánh trận bị thương là hạng nhất ; người bệnh khỏi đợi dùng là hạng nhì ; người tuổi già ốm yếu là hạng ba. Chánh vệ thì hạng nhất cho lập thuộc binh 8 người, hạng nhì 6 người, hạng ba 5 người ; phó vệ chánh chi thì hạng nhất được lập thuộc binh 7 người, hạng nhì 5 người, hạng ba

4 người. Phó chi thì hạng nhất được lập thuộc binh 6 người, hạng nhì

4 người, hạng ba 3 người ; trưởng hiệu, cai cơ, cai đội thì hạng nhất được lập thuộc binh 3 người, hạng nhì và ba đều 2 người ; phó đội thì hạng nhất được lập thuộc binh 2 người, hạng nhì hạng ba đều 1 người. Những thuộc binh đều được miễn dao dịch.

Sai Nguyễn Văn Thành kén dùng 600 người giản binh ở Bắc Thành lập làm đội Uy chấn, để luyện tập phép bắn súng, lấy cai đội tòng quân là Nguyễn Văn Huyên làm cai đội, đội trưởng Tô Văn Chấp làm phó đội để trông coi.

Bàn thưởng công bắt giặc. Thăng Phó đô thống chế Tả dinh là Võ Doãn Văn làm Chưởng dinh, Phó thống Tiền đồn là Huỳnh Đăng Lý làm Chưởng cơ, Cai cơ Phan Long Vân và Phó vệ Nguyễn Văn Mẫn làm Khâm sai thống binh cai cơ, Chánh thống tiền đồn là Lê Đức Định làm Tổng nhung cai cơ, Chánh vệ Nguyễn Văn Cường làm Tổng binh cai cơ, Cai đội Phạm Nhữ Quá làm Cai cơ. Lại thưởng lộc điền và thuộc binh, chiết cấp bằng tiền theo thứ bậc (Ruộng họp 200 mẫu chiết cấp tiền 10.000 quan ; thuộc binh 200 người chiết cấp tiền 6.000 quan).

Chép công những người theo đi Vọng Các.

Chiếu rằng : “Bọn ngươi theo đòi bên cương ngựa nếm đủ mọi sự gian nan. Nay giặc nước đã trừ, võ công cả định, trẫm nhớ lại những công lao buổi trước, thực rất chú tâm. Những người già ốm về hưu thì từng đã ưu cấp tiền lương. Những người có chức trách quản suất đều được kén dùng. Duy ở hàng ngũ trong Kinh những người chưa có chức việc còn nhiều, chưa lục chép tới. Vậy hạ lệnh cho quan trưởng lãnh ghi lấy số để cất dùng”.

Vua nghĩ tướng sĩ đi theo hàng trận đã lâu, thể tất tâm tình, mới dụ rằng : “Các ngươi lìa thân thích bỏ mồ mả theo ta trong chốn tên đạn, trải qua hàng trăm trận đánh, mới có ngày nay, chính là lúc cùng hưởng vui với nước. Các ngươi là nanh vuốt của nước, trẫm vốn muốn lưu ở hai bên tả hữu dùng làm can thành (1. Cái mộc và cái thành, đều là vật để che giữ chống giặc.), nhưng lại nghĩ lâu ngày nhớ nhà, nhân tình không ai khỏi được, mà trong ấy thì cũng có người vui theo việc vua, có người mong về làng cũ, tình không giống nhau, cũng không nên cưỡng ép. Đặc biệt hạ lệnh cho các dinh vệ cơ hiệu đội thuyền các quân thủy bộ, từ đội trưởng trở xuống, phàm những người quán ở các dinh Gia Định, Bình Thuận, Bình Khang, ai tình nguyện ở lại quân ngũ thì được bội cấp tiền gạo lương tháng để giúp cho nuôi cha mẹ vợ con, ai tình nguyện về quê nghỉ ngơi thì cho được tự do. Như có người đau ốm và chết thì quan sở tại phải gia tâm phủ tuất (1. Vỗ về thương xót.). Từ phó đội trở lên, đã có chức việc thì vẫn ở Kinh hầu hạ, có người nào xin về thăm nhà thì cấp giấy cho hạn. Những người quê ở Phú Yên trở ra Bắc thì cho được chia phiên thay đổi nhau, khiến được nghỉ vai”.

Sai Nguyễn Đức Xuyên kén điểm binh ở châu Bố Chính ngoại, biên thành đội ngũ, lệ theo Tượng dinh.

Đặt vệ Tương võ, lấy Khâm sai cai đội là Phan Bá Phụng làm Vệ úy, Nguyễn Văn Lẫm và Lê Văn Bản làm Phó vệ úy.

Miễn binh dao và thuế thân cho dân An Du. An Du là làng cũ của Quốc mẫu. Vua nhớ ơn Thích lý (2. Thích lý : Làng họ ngoại) nên đặc biệt miễn cho. Phàm những người binh đinh lệ thuộc các dinh cơ vệ hiệu đội các quân đều cho về dân. Lại cho người họ ngoại là Phùng Thế Thanh chức hàm khám lý.

Lấy Tham tri Binh bộ là Lê Quang Định làm Thượng thư Binh bộ sung Chánh sứ sang nước Thanh, Thiêm sự Lại bộ là Lê Chính Lộ và Đông các học sĩ là Nguyễn Gia Cát sung Giáp ất phó sứ. Trước là khi vua đã lấy lại Bắc Thành gửi thư cho tổng đốc Lưỡng Quảng đem việc ấy chuyển đạt lên vua Thanh, vua Thanh sai phục thư nói nước ta đã vỗ yên được toàn cõi An Nam thì nên làm biểu sai sứ xin phong. Còn sứ bộ trước là bọn Trịnh Hoài Đức thì cho chuyển đến Quảng Tây, đợi sứ bộ xin phong đến thì đều tiến đến Yên Kinh đợi lệnh. Bọn Chính Lộ đem việc tâu lên. Vua hạ lệnh cho bọn Quang Định đem quốc thư và phẩm vật (kỳ nam 2 cân, ngà voi 2 cặp, sừng tê 4 tòa, trầm hương 100 cân, tốc hương 200 cân và trừu, the, vải đều 200 tấm) đi xin phong và xin đổi quốc hiệu làm Nam Việt.

Sai Bắc Thành sửa dựng hành cung và Sứ quán.

Vua cho sự thể bang giao là một việc quan trọng, hạ lệnh cho quan Bắc Thành noi theo việc cũ của triều Lê, xây thêm điện vũ (Đặt điện Cần chánh ở bên trong năm cửa trước điện Kính Thiên, ngoài cửa điện Cần chánh dựng một cái rạp dài, đằng trước đặt cửa Châu Tước) và nhà tiếp sứ ở bên sông. Lại hạ lệnh cho Lạng Sơn sửa đài Ngưỡng Đức. (Đài ở Nam Quan thuộc Lạng Sơn, làm từ đời Lê cũ). Từ sông Nhị Hà đến Lạng Sơn tính đường đặt bảy sở nhà trạm (Gia Quất, Cầu Lim, Mỹ Cầu, Cần Dinh, Hòa Lạc, Nhơn Lý, Mai Pha), ở đó đều đặt công quán.

Cho Nguyễn Văn Tồn đem quân Xiêm sở thuộc về quê nghỉ ngơi. Văn Tồn chiêu tập binh đinh, theo việc binh nhung đã lâu. Vua thương tình khó nhọc, bèn cho thả về. Sai đặt đồn Trà Ôn ở Trấn Giang cho Tồn kiêm quản cả hai phủ Trà Vinh và Mân Thít, lệ vào dinh Vĩnh Trấn.

Hiệp trấn Sơn Nam hạ là Nguyễn Văn Đảng và Tham hiệp là Nguyễn Đăng Cơ có tội đều bị cách chức.

Lấy Hiệp trấn Tuyên Quang là Nguyễn Trí Hòa làm Hiệp trấn Sơn Nam hạ, Tham luận Tiền quân là Lê Đình Điền làm Tham hiệp. Lại lấy Tri phủ Thường Tín là Nguyễn Nhu làm Hiệp trấn Tuyên Quang.

Ban tiền tuất cho các tướng sĩ chết bệnh và chết trận. Phàm những người đem hài cốt về táng [ở làng] thì quan địa phương phải theo lệ mà cấp tiền tuất cho nhà.

Cai đội Tiền hiệu Trung quân là Nguyễn Văn Lân lấy cớ cha già, xin về Gia Định theo trấn sai phái, nhờ ở gần để tiện thăm nuôi. Vua y cho.

Điển quân thượng đạo Lưu Phước Tường tâu rằng : “Đầu năm Kỷ mùi vâng mệnh đi theo việc quân ở thượng đạo, sở thuộc viên biên là bọn Nguyễn Vinh Xiêm, Trần Văn Cảm tất cả 98 người, theo việc sai phái đã lâu, xin lượng xét công lao, thưởng cho quan chức, để khen chút công khó nhọc”.

Vua sai cho các chức tham mưu, tham luận, cai cơ, cai đội, cai hợp, thủ hợp theo thứ bậc khác nhau.

Sai Hồ Văn Thất là Cai cơ đồn Xiêm binh quản ba đạo Quang Hóa, Xỉ Khê và Giao Dịch. Văn Thất vốn được binh Man ở ba đạo ấy tin phục, Nguyễn Văn Tồn tâu lên nên có mệnh ấy.

Quan Bắc Thành tâu nói :

“Ruộng đất công tư ở Bắc Thành nhà Lê trước có đặt làm ruộng ngụ lộc, ruộng thưởng lộc, ruộng chế lộc (1. Ruộng ngụ lộc, cấp cho quan văn, thưởng lộc, cấp cho quan hưu trí, Chế lộc, cấp cho quan võ (Việt Sử Thông Giám Cương Mục quyển XXXV, tờ 14).). Tây Sơn lấy những ruộng ấy làm ruộng biệt cấp. Nay xin giả hết cho dân. Còn ruộng đất tư của ngụy quan và những quan điền quan trại quan thổ của Lê Trịnh mà bị bá chiếm đều phải sung vào nhà nước”. Vua y theo lời tâu.

Miễn thuế thân năm nay cho thợ tượng cuộc ở Bắc Thành, vì cớ vào Kinh làm việc. Trấn thủ Lạng Sơn là Lê Đình Chính bị tội tham tang phải cách chức. Lấy Chưởng cơ Nguyễn Văn Thoại lãnh trấn thủ Lạng Sơn.

Lấy Trần Đình Trưng làm Thượng bảo khanh.

Tha giảm thuế cho Gia Định.

Chiếu rằng : “Trẫm nghĩ Gia Định là đất dấy nghiệp, từ khi dấy quân tới nay, binh lương đều lấy ở đấy, một phương các ngươi riêng chịu nặng nề đã lâu. Vậy cho tha giảm thuế lệ theo thứ bậc khác nhau.” Lại sai lưu trấn thần xét các thứ thuế tạp chưa được dự vào ngạch giảm thì tâu lên để giảm cho. (Bốn huyện châu Phước Long, Tân Bình, Kiến An và Định Viễn, thuế ruộng các ruộng núi ruộng cỏ lệ nộp bằng thóc và ruộng núi nộp thay bằng tiền, cùng bãi dâu vườn mía vườn trầu, về 3 năm Quý hợi, Giáp tí, ất sửu, đều giảm 2 phần 10. Những ruộng núi ruộng cỏ phải nộp thay vỏ đay, vườn cau phải nộp quả cau thì được miễn cả. Về các hạng dân ở bốn huyện châu và đạo Long Xuyên, các lậu phu biệt nạp các thôn thuộc về xã Minh Hương và đạo Thanh Châu, dân đồn điền, nậu đồn điền người Thanh, đội chăn bò, đội thợ đóng thuyền, ty thợ làm lược, ty giáo phường, đội thông ngôn, lễ sinh ở phủ, thuộc quân ở phủ, thuộc quân các nha, thuộc binh ở dinh đạo, các thuộc dân sổ mới án mới ở các thuyền, ban hát ở các ty trừu nam, lĩnh trắng, lĩnh thâm, lĩnh láng thuộc Nội viên, các đội nậu ty cục biệt nạp sáp ong, vải trắng, dầu lạc, chiếu cói, than gỗ, mây nước, mây sắt, dầu rái, lá buồm trắng, thợ giấy, trường sắt, thợ sắt, nghề sắt, các thôn giáp Thái Hòa, Tân An, Tân Cơ, An Tịch, Thanh Tuyền, thì tiền thuế thân dùng từ Quý hợi về sau 5 năm đều miễn, còn dân đồn điền lệ nộp thóc từ nay trở về sau giảm 4 phần 6, nậu đồn điền người Thanh lệ nộp thóc và nộp thay bằng tiền giảm 5 phần 10, đội dầu rái, đội than gỗ lệ nộp vải trắng, sáp ong, nến trám, hai thôn Phú Hòa, Tân An lệ nộp giấy, sắt, dầu rái, than gỗ, mây nước, mây sắt lá buồm, hai thôn giáp Tân Cơ, An Tịch, lệ nộp chiếu, thôn Thanh Tuyền lệ nộp gỗ muồng, các ty thuộc Nội viên lệ nộp tơ lụa nam đều giảm 5 phần 10, duy về dầu lạc thì giảm 1 phần 3, vôi giảm 4 phần 5, ban hát lệ nộp tiền thuế sai thuyền giảm 5 phần 6 ; tiền thuế thuyền buôn Nam Vang, hạng nhất 300 quan, hạng nhì 200 quan, hạng ba 100 quan, đều giảm 3 phần 10 ; tiền thuế thuyền đánh cá hạng nhất nhì ba đều được miễn, tiền thuế thuyền Trường Đà, đội thuyền Đại Lê, đều giảm 5 phần 10).

Giảm 2 phần 10 thuế thân 5 năm cho dân các dinh Bình Thuận và Bình Hòa.

Quan Bắc Thành tâu rằng : “Các trấn ẩn lậu ruộng đất và châu thổ khá nhiều. Xin hạ lệnh cho các xã dân trưng theo thực số, có kẻ gian ẩn thì cho ấp láng giềng trưng”. Vua y theo lời tâu.

Lấy Trịnh Ngọc Lượng làm cai đội quản năm đội bả canh ở Quảng Trị. (Tổng Bái Ân dinh Quảng Trị có 5 đội bả canh, cày cấy ruộng quan điền), hằng năm thu thuế đệ nộp.

Trả lại tiền cho các dân nhà giàu ở các dinh Gia Định, Bình Thuận. Trước kia dấy binh, tiêu dùng mỗi ngày phí đến nghìn vàng, dân giàu có nhiều người bỏ của ra để giúp việc quân. Vua sai đem trả hết số ấy.

Lấy Phùng Thế Hòa làm cai đội giữ cửa Sót [Luật Hải khẩu]. Thế Hòa là người An Du huyện Minh Linh. Trước kia quốc mẫu phải ẩn lánh, Thế Hòa thờ phụng rất kính cẩn, vua nghĩ công nên cho chức này.

Sai Chánh đội trưởng thuyền Lão súng là Tôn Thất Di coi giữ Thái miếu, Tống Văn Sĩ coi giữ các lăng.

Cho Vệ úy vệ Thần võ là Phạm Văn Trí làm Khâm sai chưởng cơ, Phó vệ úy Trương Phước Cẩn làm Khâm sai cai cơ.

Lấy Trung chi đạo ứng nghĩa là Nguyễn Thế Lễ làm Cai cơ, theo làm việc công ở Quảng Ngãi.

Sai Khâm sai tổng binh cai cơ Trần Văn Trường quản nguồn Hà Lôi ở Phú Yên để ngăn giữ ác man.

Tháng 12, ban cấp lương bổng hằng năm cho cung tần, hoàng tử, hoàng nữ, theo thứ bậc.

Sai làm tôn thất phả.

Sai hai bộ Hộ Binh tính kê số đinh điền, châm chước ngạch thuế đời trước định bàn thi hành.

Dụ rằng : “Trị nước không lo ít, mà lo không đều. Giặc Tây Sơn lấy của dân không có nhất định, trăm họ khổ sở. Nay nên đổi định lại để khỏi đau khổ cho dân. Bọn ngươi nên nghĩ kỹ mà bàn định”.

Lấy Nguyễn Viết Huề làm Đội trưởng coi giữ tôn lăng ở Chiêm Sơn (tên xã thuộc huyện Duy Xuyên dinh Quảng Nam) (tức là lăng Vĩnh Diễn) (1. Lăng Hiếu văn hoàng hậu họ Nguyễn.).

Chở gạo Bắc Thành. Sai phó quản tàu (buổi quốc sơ là tên quan, sau đổi) là Nguyễn Văn An trông coi việc vận tải, lính vận tải thì cấp cho 2 tháng lương.

Định lệ phụ hao cho việc vận tải (gạo chở 100 phương, phụ hao 2 phương).

Lấy Trần Đắc Xiêm làm Bình nhung cai cơ, quản việc thu thuế nguồn Chiên Đàn.

Lấy Nguyễn Hữu Khánh làm thủ ngự cửa biển Đại Chiêm.

Sai Chưởng cơ, quản tàu Phượng phi là Nguyễn Văn Chấn chở súng đồng ở Gia Định đến Kinh.

Lấy Nguyễn Đăng Tài và Nguyễn Đăng Vinh làm Hàn lâm viện sung chức hoàng tử tư giảng. Đó là do Tham tri Lễ bộ Trần Hưng Đạt tiến cử.

Nước Chân Lạp sai Trần Quang Quỳnh đem hiến phẩm vật địa phương. Quang Quỳnh là người Hán [người Việt] ở dinh La Bích, biết nói tiếng phiên, vua nhân cho quản Thông ngôn sứ ty ở Chân Lạp.

Lấy Khâm sai cai đội Nguyễn Thịnh làm Khâm sai cai cơ quản tàu Thoại phượng.

Triệu Lưu thủ Bình Khang là Lê Văn Vạn về Kinh. Lấy Phó vệ úy quân Thần võ là Nguyễn Đắc làm Lưu thủ Bình Khang.

Sai Phạm Văn Nhơn kiêm giám quân Thần sách.

Đổi quân Thần sách cũ làm vệ Thần trực, trong vệ đặt 7 thuyền là Trung bính, Tiền bính, Tả bính, Hữu bính, Hùng bính, Kiên bính và Uy bính, 6 đội là Võ tín, Võ tiệp, Võ kỷ, Võ kiếm, Võ kích và An nghĩa, lấy bọn Vệ úy Huỳnh Văn Đệ cai quản, lệ theo lưu trấn thần Gia Định sai khiến.

Cho Thuộc nội cai đội Trần Đăng Long làm Khâm sai thuộc nội cai cơ, quản vệ Cung võ, Thuộc nội cai cơ Hoàng Ngọc Văn làm Khâm sai thuộc nội cai cơ, quản Nhà đồ nội.

Vua cùng bầy tôi bàn về phong tục, nói : “Dân Nam Hà vốn thói tằn tiện, từ thời Ngụy Tây quen chuộng xa xỉ, tiêu dùng không có tiết độ, nhiều người bắt chước, lưu tệ từ đấy sinh ra. Dân Bắc Hà thì kiểu quần áo cũng không đẹp. Phải nên một phen sửa định mới có thể đồng nhất phong tục. Nhưng sửa đổi phong tục cũng phải dần dần”.

Cấm đúc trộm tiền. Vua cho rằng từ khi Tây Sơn làm loạn, trong dân có nhiều người đúc trộm tiền, đồng tiền mỏng quá, bèn hạ lệnh cấm. Kẻ nào phạm cấm thì bắt sung tượng phường, tài sản tịch thu vào quan, người nào cáo phát đúng thực thì thưởng tiền 100 quan, làm lệnh mãi mãi.

Các quan Bắc Thành tâu rằng : “Bắc Hà trải qua loạn lạc, dân nhiều người xiêu tán. Binh có thiếu ngạch thì quản quan thường thường bắt làng lân cận cấp thế. Vì thế ruộng đất của dân xiêu tán bị làng lân cận chiếm lấy để bù lại. Xin sửa đổi thói tệ ấy”.

Vua bèn hạ lệnh cho các địa phương từ Nghệ An ra Bắc, phàm ruộng đất của dân xiêu tán, quan sở tại phải lập giới hạn rõ ràng, chia cấp cho quan quân cày cấy mà được tha thuế, làng lân cận không được cày cấy. Ai trót đã cày cấy rồi thì tạm thời chiếu theo hạng ruộng công tư mà thu thuế trước (ruộng công mỗi mẫu, hạng nhất thu tiền 4 quan, hạng nhì 2 quan 5 tiền, hạng ba 1 quan 5 tiền, ruộng tư, mỗi mẫu hạng nhất thu 1 quan 5 tiền, hạng nhì 1 quan 2 tiền, hạng ba 1 quan). Lúa chín cho được thu gặt, nếu ai ẩn lánh thì quan quân gặt mà nộp thuế vào kho. Còn binh thiếu ngạch đã điền thế thì tha về, chưa điền thế thì được miễn, để không có cái khổ chịu ngạch nặng hơn. Đợi khi dân xiêu tán trở về thì đem những ruộng đất ấy cấp trả và thu thuế như lệ.

Kén 32 người nội giám triều Lê cũ sung việc quét dọn trong cung, mỗi người nội giám thì trừ cho dân một người binh, cấp tiền phụ dưỡng cũng như binh lính.

Lấy Vệ úy vệ Trung nhất Thị trung dinh Túc trực là Trần Văn Trí, Vệ úy vệ Tả nhất là Hồ Văn Bôi, Vệ úy vệ Nội trực là Lê Văn Tín làm Khâm sai thuộc nội chưởng cơ.

Lấy Trịnh Ngọc Trí làm Vệ úy vệ Tiền nhất Thị trung dinh Túc trực, Nguyễn Văn Uy làm Vệ úy vệ Ban trực hữu quân Thần sách, đều cho chức Khâm sai thuộc nội chưởng cơ.

Ngày Đinh tỵ, vua rước Từ cung yết lăng Hoàng khảo.

Ngày Mậu ngọ tế Chạp, vua đến Thái miếu làm lễ.

Ngày Nhâm tuất phong ấn (mỗi năm lấy ngày 25 tháng chạp thì phong ấn, sang năm chọn ngày tốt vào thượng tuần tháng giêng khai ấn. ở các nha cũng lấy những ngày ấy phong hay khai ấn triện).

Vua đến Thái miếu, dâng lịch vạn toàn năm Quý hợi. Làm lễ xong, vua ngự điện, ban lịch mới cho trong ngoài.

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển XX – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Quý hợi, Gia Long năm thứ 2 [1803] (Thanh Gia Khánh năm thứ 8), mùa xuân, tháng giêng, mồng 1, vua thân đến Thái miếu làm lễ. Lễ xong, ngự ở điện, nhận lễ chầu mừng.

Ngày Kỷ tỵ mở ấn.

Sai thủy quân thao diễn phép chèo thuyền. (Phép diễn, đặt đồ bơi chèo ở trên cạn, chọn người chèo giỏi vài trăm người khiến diễn tập, y như dáng đi thuyền. Buổi quốc sơ trong việc dụng binh thủy chiến rất giỏi, cho nên đầu mùa xuân thường sai diễn tập). Vua ngự xem, thưởng tiền cho các quân, mỗi thuyền đều 80 quan.

Ngày ất hợi duyệt binh. (Bộ binh, thủy binh, tượng mã binh đều theo hướng mà bày dàn. Vua mặc áo trận, đeo gươm, ban phát hiệu lệnh. Bắt đầu duyệt bộ binh. Đội Trung hầu bắn súng lớn, các quân bắn súng tay đều 3 tiếng. Thứ đến duyệt thủy binh. Đội Trung hầu bắn súng lớn 3 tiếng. Thủy binh khai thuyền đua chèo. Rồi kế đến quân voi ngựa cũng ra như thế). Từ đó cứ đến đầu năm thì duyệt binh, thành lệ mãi mãi.

Cấm quân dân vô cớ không được lên thành. Khi xe kiệu vua đi, ai phạm tất [đường vua đi] thì bị tội.

Đúc chín khẩu súng lớn bằng đồng. (Lấy bốn mùa, và năm hành mà đặt tên, cái thứ nhất là Xuân, nặng hơn 17.700 cân, cái thứ hai là Hạ, nặng hơn 17.200 cân, cái thứ ba là Thu, nặng hơn 18.400 cân, cái thứ tư là Đông, nặng hơn 17.800 cân, cái thứ năm là Mộc, nặng hơn 17.100 cân, cái thứ sáu là Hỏa, nặng hơn 17.200 cân, cái thứ bảy là Thổ, nặng hơn 17.800 cân, cái thứ tám là Kim, nặng hơn 17.600 cân, cái thứ chín là Thủy, nặng hơn 17.200 cân).

Đúc xong, làm bài minh để ghi.

Bài minh rằng : “Năm Giáp ngọ sang miền Đông, năm Mậu thân đem quân về Gia Định, năm Tân dậu, tháng trọng hạ, lấy lại kinh đô, năm Nhâm tuất, tháng trọng hạ, đại quân ra miền Bắc, đến tháng bảy thắng trận, năm ấy đem quân về, cáo yết Thái miếu, làm lễ hiến phù, giặc nước quét thanh. Mùa xuân năm Quý hợi sai nấu những thứ đồng đã thu bắt được đúc chín khẩu súng lớn, đó là từ khẩu thứ nhất đến khẩu thứ chín này, tháng chạp công thợ hoàn thành, đặc mệnh khắc minh văn này để ghi”. Năm Gia Long thứ 15 [1816] đặt tên súng là Thần oai vô định thượng tướng quân.

Kén những văn thần có tuổi và có đức sung việc dạy bảo hoàng tử và hoàng tôn.

Lấy Lê Văn Phú và Phạm Nhữ Phong làm Thượng bảo thiếu khanh.

Lấy Mai Hữu Thận làm thủ ngự nguồn Ô Da, Phạm Công Nhuận làm thủ ngự nguồn Trà Dinh, Nguyễn Văn Kim làm thủ ngự nguồn Ô Liêm, Trần Tuấn Thoại làm thủ ngự cửa Đề Di, Huỳnh Văn Hưng làm thủ ngự cửa Đại Chiêm. (Ô Da, Đại Chiêm đều thuộc Quảng Nam, Trà Dinh, Đề Di và Ô Liêm đều thuộc Bình Định).

Các tướng có người cho rằng Lê Chất là tướng đầu hàng mà danh vị lại ở trên mình, đem lòng thắc mắc. Chất không được yên lòng, bèn dâng sớ nói rằng : “Thần là người bất tài, mới theo về, so với các bề tôi khó nhọc muôn phần chưa kịp một. Nay đã được phong tước quận công, lại được Chưởng Hậu quân, lạm ở ngôi cao sang, không dám đương nổi. Xin cho xuống cùng hàng với Đô thống chế”. Vua không nghe, đặc biệt khiến cung chức như cũ.

Dân các ngoại trấn Cao Bằng và Lạng Sơn ở Bắc Thành nhiều người đem việc chịu khống giản binh tố cáo ở thành. Thành thần đem việc tâu lên. Vua ban chiếu trả lời rằng : “Các ngoại trấn người Thổ người Nùng ở lẫn, Ngụy Tây không phân biệt, thu thuế điểm binh cùng một loạt. Nay dân Nùng xiêu tán, dân Thổ không khỏi chịu riêng gánh vác nặng, nên hạ lệnh cho các trấn thần xét rõ số người Nùng người Thổ, tâu lên để sửa đổi”.

Nguyễn Văn Trương xin về nghỉ vì tuổi già. Vua không cho.

Duyệt tuyển ở các dinh Quảng Bình trở về Nam.

Khi mới lấy lại được Gia Định đã thi hành ngay phép duyệt tuyển. Sau vì liền năm chinh chiến nên phải hoãn lại. Đến nay mới nghị định cho các dinh từ Quảng Bình đến Gia Định đều thi hành phép duyệt tuyển, lấy năm Mậu và năm Quý làm khóa, mỗi dinh đặt một trường, quan văn quan võ khâm sai đều một người, tùy biện cai án một người. Bèn sai Chưởng quân Nguyễn Văn Trương và Nguyễn Văn Nhơn, Đô thống chế Phan Văn Triệu, Hộ bộ Nguyễn Kỳ Kế, Công bộ Trần Văn Thái, Hình bộ Nguyễn Tử Châu, Tham tri Nguyễn Quang Diệu, Nguyễn Hoài Quỳnh và Lê Cẩn, chia đi các dinh.

Lời dụ rằng :

“Phép duyệt tuyển là để thải người già điền người tráng, phân biệt nơi đông đúc nơi thưa thớt. Nhà nước đã có phép thường. Nay võ công đã xong, đặc biệt sai cử hành việc duyệt tuyển, bọn ngươi đều nên theo lẽ công, giữ phép nước, cốt sao cho được quân bình, để xứng với sự ủy thác”.

Tiết Vạn thọ, cho bầy tôi ăn yến. Từ đó làm lệ thường.

Ngày ất dậu, đặt đàn ở đồng An Ninh hợp tế trời đất. Vua bảo Lễ bộ rằng : “Tế trời là lễ lớn, sao có thể đơn giản được”. Bèn sai các quan Lễ bộ khảo kỹ lễ tế Giao, châm chước bàn định để thi hành.

Bãi lễ tế chay. Lệ cũ hàng năm cứ đầu xuân đặt đàn làm lễ tế chay. Vua bảo học sĩ Nguyễn Viên rằng : “Việc tế chay rất là vô vị, nên đổi thói hủ ấy đi”. Bèn bãi.

Sai quan đi Bình Định tế các tướng sĩ trận vong.

Miễn tiền khoán kho [khoán khố] cho Gia Định. (ở các dinh Gia Định, những người làm đồn điền, là dân trong dinh thì mỗi năm thu tiền 1 quan, là người Thanh thì thu tiền 2 quan, để dùng vào việc sửa chữa kho công, gọi là tiền khoán khố).

Sắc cho từ Quảng Bình trở về Nam phàm ruộng bỏ hoang mà Ngụy Tây chiếm làm quan điền trang đều trả hết cho dân, chiếu theo từng hạng công tư mà thu thuế.

Chế xe voi, xe ngựa.

Xây thành Thăng Long. Vua thấy quy chế của thành chật hẹp, muốn mở rộng thêm. Sai thành thần vẽ đồ dâng lên, sai các dinh quân đắp, những vật liệu cần dùng thì do quan trả tiền theo giá. Kẻ nào sách nhiễu tiền của dân thì bị tội, truy tang trả lại cho dân.

Sai Lê Văn Duyệt đem quân đánh Mọi Thạch Bích [Đá Vách]. Người Mọi ở giáp giới đầu nguồn Quảng Ngãi, hằng năm quấy nhiễu làm khổ dân biên thùy. Vua cùng bầy tôi bàn kế đánh. Trước sai xuống dụ cho án trấn là Nguyễn Huỳnh Đức rằng : “Ngươi nên truyền bá uy đức của triều đình, vỗ về dân biên giới, quân bình man đã định ngày đến”. Đến nay sai Văn Duyệt đi, cho Hàn lâm thị thư Trần Văn Lộc theo đi làm việc từ chương ở trong quân.

Tha thuế sáp ong từ năm Nhâm tuất trở về trước cho người Man [Mọi] Đồng Hương dinh Bình Khang. Người Man vui mừng, đem sản vật địa phương đến dâng.

Vệ úy vệ Kiện võ là Nguyễn Văn Điệu thú ở Nghệ An tự tiện đem vệ binh về Kinh, xin về Gia Định. Vua thấy tự tiện lìa bỏ nơi thú, dùng roi đánh mắng.

Bắc Thành đóng gông giải sứ thần của giặc Tây Sơn là bọn Lê Đức Thận, Nguyễn Đăng Sở và Võ Duy Nghi về Kinh. Trước kia Nguyễn Quang Toản sai bọn Đức Thận đi sứ sang nước Thanh, chưa tới Yên Kinh, người Thanh nghe tin Quang Toản đã bị diệt, cho sứ trở về. Thành thần phái người giải về Kinh. Vua tha tội và cho về. Vợ lẽ của Ngụy Nhạc và người họ là tên Đại tên Vạn cũng bị bắt đến bộ Hình. Tâu xin định đoạt. Vua nói: “Vợ lẽ Nhạc là một người đàn bà thôi. Bọn Đại tuy là thân đảng của Nhạc mà không dự binh quyền, nay Nhạc chết rồi, giết đi thì có ích gì ?”. Đều tha cả.

Ban cấp quần áo cho các quân thủy bộ và binh thú ở các thành các trấn.

Cho Trần Công Hiến làm Khâm sai chưởng cơ, vẫn hành chức Trấn thủ Hải Dương.

Tháng giêng nhuận, lấy Tri bạ Chính dinh là Huỳnh Văn Diễn làm Cai bạ Quảng Nam.

Xét hạch những viên thị hàn, nội hàn lấy 25 người bổ vào Thị thư viện.

Lấy Trần Văn Phước làm Khâm sai chưởng cơ phó quản dinh Hữu thủy.

Quan Bắc Thành tâu rằng : “Đất Thái Nguyên nhiều lam chướng, những nhân viên công sai không quen thủy thổ, xin hạ lệnh cho trấn thần chọn người thổ trước hơi biết chữ sai làm cai tri để làm công việc các phủ huyện”. Vua y cho.

Giảm bớt những quan lại viên dịch các phủ huyện tổng thuộc dinh Bình Định. Vua cho rằng ở Bình Định trước đặt danh sắc quan lại quá nhiều, bèn chuẩn định cho hai ty Xá lại ở dinh, mỗi ty 50 người, tịch sĩ 15 người. Sở thuộc, có một phủ (Quy Nhơn), ba huyện (Phù Ly, Tuy Viễn, Bồng Sơn), chín tổng và ba thuộc. Phủ đặt khám lý, chánh đề đốc, đề lãnh, phủ ký lục, mỗi chức một người ; huyện đặt cai huyện, ký huyện đều một người, chánh lại, trực sai đều 15 người, tổng đặt cai tổng một người, phó tổng một người, thuộc đặt cai thuộc một người, ký thuộc một người. Còn bao nhiều thì bãi hết.

Định lễ tế xuân thu ở miếu cũ tại Gia Định.

Trước là khi Thái miếu đã làm xong, vua dụ cho lưu trấn thần rằng: “Thấp đừng vin cao, hèn đừng thờ quý, đó là lễ vậy. Nay Thái miếu ở Kinh đã làm xong, việc thờ cũng đã có chỗ. Còn miếu cũ ở Gia Định thì những ngày tết Nguyên đán, Thanh minh, Đoan dương thì sắm lễ dâng cúng, các tiết khác thì thôi, không nên bày ra phiền”. Đến bấy giờ lễ thần lại tâu xin mỗi năm tế hai lần vào tháng đầu mùa xuân và mùa thu, còn các tiết tam nguyên (1. Tam nguyên : Những ngày rằm tháng giêng, tháng 7 và tháng 10, gọi là thượng nguyên, trung nguyên, hạ nguyên.) thì dùng hương đèn mà bái, để tỏ lòng nghiêm kính. Vua y lời tâu. Hạ chiếu cho lưu trấn thần thi hành.

Sai thống lãnh thượng đạo Thanh Hoa là Hà Công Thái coi quế hộ [hộ tìm quế]. Sau hạ lệnh cho trấn thần ủy người đốc suất. Ai bóc trộm quế là bị tội. (Người bóc quế một nửa phải nộp vào quan, một nửa trả về công bóc).

Khai mỏ bạc ở Tuyên Quang. Bọn Đàm Kỳ Trân, Vi Chuyển Ba người Thanh lãnh khai, mỗi năm nộp 80 lạng bạc.

Tha việc binh dao cho dân xã An Quán (thuộc huyện Diên Phước) dinh Quảng Nam, cho lệ vào Nội phủ để làm việc. An Quán là làng quê của Nguyên phi Tống thị cho nên đặc biệt gia ơn ấy.

Bàn lập Nguyên miếu ở Thanh Hoa. Đình thần tâu rằng : “Nguyên miếu trước hợp thờ Tĩnh vương, Thái vương, Trừng quốc công, Lỵ Nhơn công và Oai quốc công. Nay xin lập một tòa miếu chính, gian giữa thờ Tĩnh vương, gian tả thờ Thái vương, đều trông hướng nam. Lại ở bên tả miếu chính dựng riêng một miếu, gian giữa thờ Trừng quốc công, hướng về nam, gian tả thờ Lỵ Nhơn công Tôn Thất Hán, hướng về tây. Duy Oai quốc công Nguyễn Ư Dĩ người họ ngoại, thế đại đã lâu xin nên bớt đi. Lại mỗi năm hai kỳ tế xuân thu và các tiết Nguyên đán, Đoan dương, tế Chạp (hai kỳ tế xuân thu, dùng cỗ xôi lợn, các tiết khác dùng cỗ nấu), trấn thần đem những người công tính (2. Công tính : Những người họ nhà vua về dòng dõi xa không phải về trực hệ của các chúa và các vua.) tới đó làm lễ cho rõ nguồn gốc”. Vua theo lời, chép làm lệ. (Tôn Thất Hán là con thứ hai Thái tổ, làm quan ở triều Lê đến chức Tả đô đốc, đánh Mạc chết trận, nhà Lê phong là Lỵ Nhơn công ; Nguyễn Ư Dĩ, anh của Tĩnh hoàng hậu, làm quan đến chức Thái phó, phong Oai quốc công, là công thần khai quốc bực nhất. Năm Thiệu Trị thứ 5, truy tặng Trung quân đô thống phủ đô thống chưởng phủ sự thái sư, vẫn phong Oai quốc công, được tòng tự ở Thái miếu).

Đặt lễ sinh ở Văn miếu 50 người, giám hiệu 1 người, điển hiệu 2 người, miếu phu 30 người.

Sai các dinh trấn đều lập nhà Văn miếu, mỗi miếu đặt 2 người điển hiệu, lễ sinh và miếu phu đều 30 người.

Ưu tuất những biền binh bị nạn bão. Mùa thu năm ngoái những biền binh các vệ Thần sách làm việc vận tải đường biển từ Bắc Thành đến Thanh Hoa, gặp bão, chết đuối hơn 500 người. Đốc trấn Tôn Thất Chương tâu lên. Vua thương xót, hạ lệnh cấp tuất như đối với binh chết trận (vệ úy tiền tuất 100 quan, phó vệ úy 50 quan, cai đội 30 quan, còn thì theo thứ bực mà giảm dần). Lại sai đặt đàn ở chùa Thiên Mụ để tế.

Người Man [Mọi] ở bảy sách Mường Vanh, Cha Bôn, Thượng Kế, Trầm Bồn, Làng Thìn, Xương Cụm và Phá Băng thuộc đạo Cam Lộ đem sản vật địa phương vào cống (voi đực 4 thớt, trâu đen 4 con, ngà voi 2 chiếc, sừng tê 7 tòa, trống đồng 3 chiếc, sáp ong cân nặng 33 quan tiền, vải hoa mọi 2 tấm, vải trắng 72 đoạn, dao lửa 90 cái, đá lửa 6 thùng). Vua cho triệu vào, hỏi mùa màng tốt xấu thế nào, sai quan khoản đãi rất hậu, cho chiếu chiêu an và bảo về. Từ đấy cứ hai năm cống một lần.

Tha thuế thân năm năm cho các thợ và binh dân ở Gia Định. (Những thợ ở các ty Xá lại và Chiêm hậu bốn dinh, lễ sinh bản phủ, binh coi kho, lệnh sứ các đạo các thủ, người Thanh ở Trà Vinh, Trấn Giang và Cần Giờ, các vệ đội Tuần thành, Hùng diêm và An công, dân các đội nậu biệt nạp củi bó và vỏ cây).

Tha thuế muối cho thuyền buôn Ba Thắc.

Sai Gia Định lục ghi những người biền binh theo sang Vọng Các mà chết trận hay chết bệnh, đều cho bà con đem thực trạng tâu bày để cấp tuất. Rồi hạ lệnh xét hỏi người nào có con đã lớn thì kê tên tâu lên.

Cho binh mới kén Bắc Thành thao diễn trận pháp, một tháng mới thôi, rồi chia  ban cho nghỉ ngơi.

Lấy Cai cơ Lê Văn Lân làm Lưu thủ Phiên Trấn.

Cấp thêm lương bổng cho các tướng sĩ bình man. Dụ rằng : “Quảng Ngãi thóc mất mùa, người thiếu ăn. Các tướng sĩ ở ngoài, lương bổng dầu đã có định lệ, mà trèo đèo lặn suối khó nhọc, trẫm rất thương, vậy cấp thêm gạo tháng cho mỗi người một phương”.

Tháng 2, Xí Xương Mã ở Lạc Hoàn sai ấp Ma Hạt vào cống (voi đực 2 thớt, ngà voi 1 cặp, sừng tê 2 tòa, sáp ong 40 bát). Vua vời vào yên ủi hỏi han. Sai Hộ bộ khoản đãi và ban cho nhiều hơn đối với người Man Cam Lộ. Khi về, sai Quảng Trị cấp cho 30 phương gạo, 100 quan tiền. Quân Man lưu ở đạo Cam Lộ cũng cho 100 phương gạo.

Tế xuân ở Văn miếu. Vua thân hành đến làm lễ.

Ngày Tân mùi, vua rước Từ cung về chơi quê cũ là làng An Du. Sai đội Trường xuân diễn tuồng cho dân chúng xem. Hôm sau xa giá đến Hồ Xá. Cho vời người địa phương đến hỏi đường thủy nơi nào có thể vận tải được. Sai dinh thần Quảng Bình dựng đài lửa hiệu ở cầu Thủy Liên để trông kho Lai Cách. Rồi vua đến kho An Trạch, cùng các quan đi theo bàn chế xe trâu xe ngựa để tiện việc vận tải trên cạn.

Dân Quảng Bình, Quảng Trị có người dâng lễ mừng, vua cho tiền, bảo đừng dâng nữa. Ai có sự gì oan khuất thì cho đến hành tại tâu bày. Vua thân tự xét định. Nhân dân không ai là không vui mừng.

Ngày Canh thìn, vua rước Từ cung trở về Kinh.

Dựng nhà thủy các. Thưởng 400 quan tiền cho thủy quân.

Đóng gông giải bọn Thượng thư Tây Sơn là Ngô Nhậm (1. Ngô Nhậm : Chính là Ngô Thì Nhậm hoặc Ngô Thời Nhiệm, vì kiêng tên húy Tự Đức nên viết là Ngô Nhậm.), Phan Huy Ích và Nguyễn Gia Phan đến Bắc Thành. Trước là bọn Nhậm thú tội, vua không nỡ giết, đặc biệt hạ lệnh cho giải về Kinh. Đặng Trần Thường dâng biểu nói : “Bọn Nhậm thân làm tôi nhà Lê mà cam tâm theo giặc, bày lời nói dối để lừa nhà Thanh, hãm đồng loại vào chỗ bất nghĩa, xét tội ác chẻ hết tre cũng khó biên hết, thực là kẻ có tội nhất trong danh giáo. Nếu kẻ này mà không giết thì răn bảo người sau sao được ?” Vua bèn hạ lệnh đưa ra Bắc Thành để nghị tội. Thành thần bàn cho là tội bọn Nhậm đáng phải giết, nhưng đã có chiếu nói rõ ngụy quan ra thú thì đều miễn tội, vậy xin tha bọn Nhậm tội chết, chỉ đánh để làm nhục. Vua y cho. Hạ lệnh kể tội ở học đường phủ Phụng Thiên (Tức là Quốc tử giám nhà Lê cũ) mà đánh đau. Nhậm bị đánh chết.

Định điều cấm về thuyền buôn. Phàm thuyền buôn nước ngoài đến buôn, thì trầm hương, kỳ nam đều không được mua. Như có mua cột buồm và bánh lái thì phải do quan sở tại phê chuẩn mới được. Khi thuyền trở về, mua gạo để ăn, mỗi người được đóng 100 thưng làm hạn. Làm trái thì bị tội.

Vua thấy trong trận đánh Thị Nại ngày nọ, súng đạn của Tây Sơn bị chìm đắm nhiều, bèn sai Phó đô thống chế binh dinh Tả thủy là Đào Văn Lương đốc suất binh dân lặn mò, được 160 cỗ súng và hơn 500 hòn đạn, đưa về Kinh.

Lấy Vệ úy vệ Tiền nhất Thị trung dinh Túc trực là Trịnh Ngọc Trí làm Phó đô thống chế Tả dinh quân Thần sách, Phó tướng Hữu quân là Nguyễn Đức Thành làm Phó đô thống chế Hữu dinh.

Trấn thủ Sơn Nam thượng là Trần Đại Luật vì bệnh được nghỉ. Sai Chưởng dinh lãnh Phó trấn Thanh Hoa là Võ Doãn Văn làm Trấn thủ Sơn Nam thượng, Phó đô thống chế Nguyễn Đức Thành lãnh Phó trấn Thanh Hoa. Đại Luật chết, tặng Chưởng dinh.

Sai Vệ úy vệ Hổ uy là Phan Văn Thúy đem quân đi thú Thanh Hoa.

Người Thiều Châu nước Thanh là Lý Hòa Nguyên họp bọn đánh cướp mỏ Phước Tinh ở Thái Nguyên. Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành đem quân đánh dẹp. Lý Hòa Nguyên trốn. Bắt được đồ đảng là Trâu Tôn, Lý A Tứ và Trần A Nhị đều chém cả.

Cho mẹ Lê Chất là Đào Thị Thôn mỗi tháng 40 phương gạo, sai dinh thần Bình Định cấp cho hằng tháng.

Hạ lệnh cho nhà trạm các địa phương mỗi khi tiếp đệ công văn, phải ghi rõ ngày giờ, để nghiệm chóng hay chậm.

Các quản quân ở Thanh Nghệ và Bắc Thành có nhiều kẻ sách nhiễu quân nhân. Vua nghe tệ ấy, hạ chiếu cấm. Lời chiếu nói : “Năm ngoái kén lính, chia đặt người thống quản, mọi điều răn dạy còn văng vẳng bên tai. Thế mà quản quân lại có nhiều kẻ bòn lấn quân lính phàm những công việc cưới vợ lấy lẽ, cho đến làm nhà cửa, mọi vật cần dùng đều lấy ở quân lính, kẻ nào không theo thì mượn cớ việc công, thẳng tay đánh đập, khinh thường pháp luật như thế, thực không thể tha được. Nhưng nghĩ bọn ngươi theo hầu lâu ngày, muốn giữ cho được trọn vẹn nên không nỡ vội gia tội. Từ nay nên gìn giữ phép công, đừng noi thói cũ. Không thế thì nhà nước có hình phạt, ta cũng không thể vì các người mà che chở được”. Lại chiếu cho các quan thành và trấn để ý xem xét, nếu có người cố ý sai phạm thì phải tham hặc, không được dung túng.

Định phép thuế tô dung. Chiếu rằng : “Nhà đủ ăn không phải vì trốn thuế. Nước đủ dùng không phải vì đánh thuế nặng. Triều đình ta từ Thái vương dựng nghiệp tới nay, phép đánh thuế không nặng không nhẹ. Ruộng thì chia làm ba hạng, hộ thì phân biệt chính hộ và khách hộ, vì rằng đất có chỗ tốt chỗ xấu, người có kẻ giàu kẻ nghèo, cho nên tùy hạng trưng thu cho khác nhau. Vừa đây Tây Sơn nổi loạn, khinh bỏ phép cũ, cho rằng ruộng dân hạng nhất hạng nhì thì ít mà hạng ba thì nhiều, bèn không chia đẳng hạng, đại để cứ thu mỗi mẫu thóc tô 35 thăng. Đến như tiền thuế thân dung thì cũng không chia ra chính hộ khách hộ mà thu gồm làm một. Thuế má nặng nề đến thế là cùng. Đã vài mươi năm nay dân bị hà ngược. Ta nay đã thu lại dư đồ, xa thư (1. Xa thư : Xa đồng quỹ, thư đồng văn, nghĩa là : Xe đi cùng một cỡ bánh, chữ viết cùng một lối. Nói nước đã thống nhất.) một mối, biết rõ nỗi đau khổ của dân, trừ bỏ mối tệ, đặc biệt hạ lệnh cho đình thần theo rộng rãi mà sửa định, khiến cho dân có thuế chính cung (1. Chính cung : Thuế chính.), nước có phép nhất định, dùng mãi làm lệ thường. (Thuế ruộng thì các phủ Quảng Bình, Triệu Phong, Điện Bàn, Thăng Hoa, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên, Bình Hòa, Diên Khánh, ruộng công và tư hạng nhất mỗi mẫu nộp thóc 40 thăng, hạng nhì 30 thăng, hạng ba 20 thăng, ruộng mùa thu và đất mía mỗi mẫu 10 thăng. Các hạng tiền về thẻ tre, khoán khố, điền mẫu, thường tân và cung đốn, không cứ công hay tư, mỗi mẫu nộp 3 tiền. Từ Bình Thuận đến Gia Định và các đạo Long Xuyên, Kiên Giang, đều chiếu theo lệ thuế năm trước mà thu nộp. Nghệ An, Thanh Hoa, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Nam thượng hạ và phủ Phụng Thiên, ruộng công mỗi mẫu hạng nhất nộp thóc 120 bát đồng quan, hạng nhì 84 bát, hạng ba 50 bát ; ruộng tư hạng nhất 40 bát, hạng nhì 30 bát, hạng ba 20 bát. Sáu trấn Yên Quảng, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang và Cao Bằng, ruộng công hạng nhì mỗi mẫu nộp thóc 42 bát, hạng ba 25 bát, ruộng tư hạng nhất mỗi mẫu 20 bát, hạng nhì 15 bát, hạng ba 10 bát. Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Nam thượng hạ và phủ Phụng Thiên, thì trại đồn điền công, ruộng tế công lập làm quan trại, mỗi một mẫu nộp 100 bát, ruộng bãi phù sa cống trồng lúa mỗi mẫu 120 bát, phù sa công thành điền mỗi mẫu 84 bát, ruộng phù sa mỗi mẫu 60 bát, ruộng phù sa cưỡng giá mỗi mẫu 50 bát, đất bãi công trồng lúa mỗi mẫu 120 bát. Nghệ An, ruộng trại Lạp Cầu mỗi mẫu 52 bát rưỡi, đất bãi công thành điền mỗi mẫu 120 bát, ruộng phù sa thành điền mỗi mẫu 60 bát. Thanh Hoa, ruộng thần từ phật tự mỗi mẫu 30 bát, ruộng phù sa thành điền mỗi mẫu 84 bát.

Thuế thân thì các xã, thôn, phường từ Quảng Bình đến Gia Định, tráng hạng, chính hộ tiền thân dung 1 quan 6 tiền, khách hộ 1 quan 4 tiền, quân hạng, chính hộ 1 quan 4 tiền, khách hộ 1 quan 2 tiền, dân hạng, chính hộ 1 quan 2 tiền, khách hộ 1 quan, tiền dầu đèn và tiền chuỗi mây đều 1 tiền, hạng dân đinh và lão tật, chính hộ 8 tiền, khách hộ 7 tiền, tiền dầu đèn và chuỗi mây đều 30 đồng ; ba hạng cố, cùng, đào đều được miễn. Phàm dân hộ không kể chính hay khách, cứ 10 suất thì chuẩn cho 1 suất làm cố hạng hay cùng hạng đào hạng, còn dư 9 suất thì chia làm ba hạng tráng quân dân. Nếu không đủ 10 suất thì không ở lệ này, nhưng cũng chia làm ba hạng tráng quân dân. Như có 9 suất thì mỗi hạng 3 người ; 8 suất thì hạng quân 2 người, tráng và dân đều 3 người ; 7 suất thì hạng quân 3 người, tráng và dân đều 2 người ; 6 suất thì mỗi hạng 2 người ; 5 suất thì hạng quân 1 người, tráng và dân đều 2 người ; 4 suất thì hạng quân 2 người ; tráng và dân đều 1 người ; 3 suất thì mỗi hạng 1 người ; 2 suất thì tráng dân đều 1 người ; 1 suất là hạng quân. Các đội nậu dân biệt nạp và biệt tính, tiền thân dung của hạng tráng thì coi như hạng quân, hạng lão tật thì nộp một nửa. Mỗi năm thượng tuần tháng 4 thì thu, hạ tuần tháng 7 thì đủ, đến kỳ tháng 10 thì sửa lại sổ. Phàm người chết thì năm ấy được xóa sổ miễn thuế; người trốn thì chua sổ thu đến một năm, năm sau mới được xóa sổ. Từ Nghệ An ra Bắc, tạm y theo lệ năm Tân dậu mà thu nộp).

Giảm thuế tô ruộng năm nay cho từ Nghệ An ra Bắc. Chiếu rằng : “Ruộng phải nộp tô, đó là lẽ thường xưa nay, mà làm cho dao dịch đều, phú thuế giảm, cũng là điều chính sách nhà vua phải làm trước. Năm ngoái đánh dẹp miền Bắc, chi phí việc quân rất nhiều, tạm thu thuế như thế. Nay thiên hạ đã bình, đất nước yên ổn, vậy tô ruộng năm nay lường giảm nhẹ bớt, khiến cho dân mong cuộc trị bình đều được hả hơi. (Nghệ An, Thanh Hoa nội ngoại và năm nội trấn Bắc Thành, thóc tô mỗi mẫu bớt 5 bát, còn sáu ngoại trấn thì giảm một nửa).

Ngày Quý tỵ, sửa lại các lăng liệt thánh, sai Phạm Văn Nhơn trông coi công việc.

Gia Định gạo kém, dân đói. Sai tấn thủ (1. Quan trông nom các tấn ở cửa biển cửa quan.) các dinh xem xét thuyền buôn, không được chở trộm thóc gạo ra ngoài nước.

Sai bọn Cai cơ Nguyễn Văn Huấn và Cai đội Mai Văn Hiến sang nước Xiêm tặng cho vua Xiêm và vua thứ hai cùng bề tôi là bọn Phi Nhã, theo thứ bậc khác nhau. (Tặng Phật vương 100 lạng vàng tốt, 1.000 lạng bạc, 1 cây thanh long đao, 600 cân sáp ong, 1.500 cân đường cát, 250 tấm lụa. Cho vua thứ hai 50 lạng vàng tốt, 500 lạng bạc, 400 cân sáp ong, 1.400 cân đường cát. Thưởng cho Phi Nhã Chất Tri, Phi Nhã Phạt Lăng 25 tấm the, sáp vàng đều 100 cân, đường cát đều 500 cân, Phi Nhã Phi Biệt 20 tấm the, 50 cân sáp ong, 300 cân đường cát). Lại cho vợ vua Xiêm là Ngọc Thông 100 lạng bạc (Ngọc Thông là con gái Tôn Thất Xuân, trước theo Xuân sang Xiêm, rồi lấy vua nước ấy).

Tháng 3, tiết Thanh minh, vua thân đến Thái miếu làm lễ.

Định lệ cho kinh đô và ngoài cung tiến lễ phẩm ngày kỵ Hoàng khảo, theo thứ bậc khác nhau.

Định trình hạn phái người chạy trạm từ Gia Định đến Kinh, lấy chóng chậm để thưởng phạt. (Đi 12 ngày là chóng bậc nhất, 13 ngày là bậc nhì, 14 ngày là bậc ba. Cho thưởng khác nhau. Đi 15 ngày thì đình thưởng ; 16, 17, 18 ngày là chậm, phân biệt phạt roi ; chậm đến 19 ngày thì xử tử).

Bắt đầu định lễ tế hưởng ở các miếu. Bộ Lễ tâu rằng : “Đời xưa thánh nhân lấy nhân để xử việc lễ, cho nên lễ không đến nỗi phiền phức, lấy nghĩa để xử việc lễ cho nên lễ không đến nỗi thưa trễ. Niềm thương xót nảy ra từ lúc mưa xuân sa xuống ; niềm run rẩy sinh ra từ lúc sương móc ướt đầm ; không trễ nải, không phiền phức, do thế mà có lễ tế hưởng ở bốn mùa. Nhưng lễ tế hưởng bốn mùa, từ Đường Tống trở lên đều chọn ngày, từ Minh Thanh trở xuống thì tế hưởng mùa xuân vào thượng tuần thì chọn ngày, còn mùa hạ mùa thu mùa đông thì dùng ngày mồng một tháng mạnh [tháng đầu mùa], vì cho rằng tế không định ngày sợ không được thành thực vậy. Lại tế Chạp, nhà Minh thì dùng ngày cuối năm, nhà Thanh thì dùng ngày trước ngày cuối năm đều cấp bách quá ! Xin từ nay xuân tế thì dùng ngày mồng 8 tháng giêng, hạ, thu, đông tế thì đều dùng ngày mồng 1 tháng mạnh, còn tế Chạp thì dùng tháng chạp mà phải chọn ngày cho hợp với ý nghĩa việc lễ”. Vua theo lời. Từ đấy, tế hưởng ở Thái miếu vua thân hành đến làm lễ. Tế ở liệt miếu thì cho hoàng tử hoàng thân đến tế thay.

Sai bộ Lễ kính gởi chữ húy cho khắp trong ngoài. Phàm tên người tên đất có giống chữ thì đổi đi, hành văn thì tùy theo ý nghĩa mà thay chữ khác.

[《欽定大南會典事例》卷一百二十一  《禮部·禁條·敬避諱字>記載,嘉隆六年(1807年)規定「臨讀避音、臨文改用」6字分別是「暖」、「映」、「種」、「㫻」、「環」、「蘭」》

Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, quyển 121 ghi 6 chữ húy Noãn「暖」、Ánh「映」、Chủng 「種」[tên của Gia Long]、Luân 「㫻」[cha của Gia Long]、Hoàn「環」[mẹ của Gia Long]、Lan「蘭」[vợ cả của Gia Long].

]

Ngày Nhâm dần, vua đem bầy tôi dâng kim sách tôn quốc mẫu Vương Thái phi làm Vương Thái hậu. Lời sách nói : “Mảng nghe đức lớn đạo chính của đế vương, không gì bằng hiếu. Cho nên ở trong nhà mà yêu kính thì phong hóa tràn khắp cả nước, thế gọi là đạt hiếu. Kính nghĩ Thánh mẫu bệ hạ, cửa đức sáng tươi, buồng thơm tốt đẹp. Thờ đức Nhơn khảo, sửa sang việc nhà, dẫu lúc gian nguy, cũng không trễ nải. Nuôi nấng con nhỏ, cho đến trưởng thành. Kế gặp nạn nước, gắng sức siêng năng, ngoài cõi quan hà, không từng ở rỗi. Tấm lòng lo nhà lo nước, sớm khuya canh cánh, nên mới có được ngày nay. Ngửa đội uy thiêng của liệt thánh trên trời giúp đỡ mới nên, mà cũng nhờ Thánh mẫu sinh đẻ dạy nuôi nên mới được thế. Nhân to đức lớn, khó hình dung được. Tham khảo điển chương việc tôn xưng không dám để trễ. Vậy xin kính bưng kim sách, dâng tôn hiệu là Vương Thái hậu, để bày công cao mà tỏ thêm đức tốt, để trọng hiếu kính mà báo đáp ơn từ. Ôi ! Tôn trọng người thân, ngửa thấy đức khôn nguyên (1. Khôn nguyên : Đức của đất đối với muôn vật, ví đức của mẹ.) là lớn ; nối thêm nhiều Phước, hưởng bền lâu lấy mọi tốt lành”.

Ngày Giáp thìn, vua ngự ở điện. Bầy tôi dâng biểu khen mừng. Ban yến theo thứ bực. Xuống chiếu bố cáo trong ngoài.

Chiếu rằng : “Trẫm nghĩ đức dầy chở vật, nên khôn nguyên mới gọi là mẹ ; hiếu lớn tôn thân, thì nhân đạo mới hết luân thường. Từ các đế vương xưa, nối thể thống và chủ tế tự, không đâu là không tôn dâng danh hiệu để đáp lại cái ơn cao rộng tột vời. Ta khi nhỏ gặp lúc vận nước gian nan, vin cung thương xót (1. Chỉ cảnh cha chết.), nhờ được Thánh mẫu săn sóc vỗ nuôi. Trong bước gập ghềnh, một thành một lữ, cùng ta khó nhọc, góc biển chân rừng, chỉ vì ta mới phải như thế. Đánh dẹp bốn phương, không khi nào rỗi, ngày ba lần chầu bỏ cả lễ thường ; quạt nồng ấp lạnh ta rất còn thiếu. May nhờ Phước thiêng, gây lại bờ cõi, thực nhờ Thánh mẫu dạy dỗ tác thành mới có ngày nay. Cái Phước chứa thiện, rộng đến mình ta ; lấy thân mỏng mảnh ngồi trên thần dân mà hưởng tôn vinh, đâu dám nhãng đức sinh thành.

Lòng kính yêu trước phải làm vẻ vang cho cha mẹ. Xét theo điển lễ, dưới hợp lòng dân, mọi người đều nhận rằng đức phải được danh, công thực là lớn, tất dâng tôn hiệu, kính tỏ lễ sùng. Ta đã cáo yết liệt thánh, phô bày đức tốt, định ngày mồng 8 tháng này, tôn Quốc mẫu làm Vương Thái hậu để đáp ơn sâu, để nêu đức tốt. Ôi ! cao sang thỏa lòng cha mẹ, để tỏ lòng thành kẻ làm vua làm con ; đạo hiếu đầy khắp cả trời, để làm khuôn mẫu khắp phương nam phương bắc”.

Đổi dinh Bình Khang làm dinh Bình Hòa, phủ Bình Khang làm phủ Bình Hòa, huyện Yên Khang ở Thanh Hoa ngoại làm huyện Yên Khánh.

Ngày ất tỵ, xây dựng đô thành. Vua cho rằng thiên hạ đã định, muốn mở rộng đô thành để làm nơi bốn phương chầu hội. Bèn đến xã Kim Long, phía đông đến xã Thanh Hà, xem khắp hình thế các nơi. Sai giám thành là Nguyễn Văn Yến ra bốn mặt ngoài đô thành cũ Phú Xuân đo cắm để mở rộng thêm. Vua thân định cách thức xây thành, sắc cho bộ Lễ chọn ngày lành tế trời đất, cáo việc khởi công, phái các quân mở đường sá, làm đất cát, sai bọn Phạm Văn Nhơn, Lê Chất và Nguyễn Văn Khiêm trông coi công việc. Quân nhân mỗi tháng cấp tiền một quan, gạo một phương. Dân cư tám xã Phú Xuân, Vạn Xuân, Diễn Phái, An Vân, An Hòa, An Mỹ, An Bảo, Thế Lại, có ruộng đất bị mở vào thì theo giá văn tự trả tiền lại, nhà cửa thì mỗi hộ cấp 3 quan, uynh mộ thì mỗi ngôi 2 quan, còn nhân dân thì được miễn dịch. Lại thấy rằng một xã Phú Xuân, ruộng đất gần hết, dời dân xã ấy sang xã Vạn Xuân, cấp ruộng công đất công cho ở (đất công 3 khoảnh, ruộng công hơn 30 mẫu), lại cho vay tiền 1.000 quan để giúp việc chuyển dời.

Vua sắp xây dựng miếu điện. Sai các địa phương đều chở vật liệu đá gỗ sản ở địa phương đến nộp (Nghệ An thì gỗ lim, Gia Định thì ván gỗ, Thanh Hoa thì đá lát, Quảng Ngãi thì mật bọt, Quảng Nam thì gạch ngói, Bắc Thành thì son, sơn và vàng quỳ).

Cho Thống nhung thượng đạo là Nguyễn Long làm Khâm sai chưởng dinh.

Ngày Bính thìn, lập Nguyên phi Tống thị làm vương hậu. Vua trước ở Gia Định, hậu thờ thái hậu đủ mọi gian khổ, hiếu kính cần kiệm, hiền hậu yêu người, thường tự tay kéo dệt và may cắt quần áo để cấp cho các tướng sĩ. Một hôm đi thuyền gặp giặc, vua liền đốc quân ra sức chiến đấu, hậu cũng cầm dùi thúc trống. Quân sĩ nức lòng, tranh nhau phấn đấu, bèn đánh được giặc. Trước đã tiến phong làm vương phi. Tới đây sách lập làm vương hậu. Lời sách rằng : “Đạo trời nhờ công âm dưỡng mà hóa sinh muôn vật, thánh nhân đặt chức nội phụ để nêu gương sáu cung. Xứng đáng vẻ vang, về người đức tốt. Mến nghĩ Nguyên phi Tống thị, nền nếp như ngọc cư ngọc hoàng, dung dáng như ngọc uyển ngọc diễm. Buổi tiềm long, sớm nối duyên lành, trinh tĩnh nổi tiếng tăm thế tộc ; ngày mượn tổ (1. Chỉ lúc lánh nạn ngụ ở ngoài.) giữ niềm hòa thục, kiệm cần gây vương hóa chốn ghe thuyền. Quả tiêu sai, mà Phước rủ tới đàn con ; bóng cù mát, mà yêu chung bao hầu thiếp. Kịp gặp bước nguy, vui cùng bạn tốt. Quanh quẩn dưới ngọn cờ Thang Võ, cùng ta tám chín đời thù sỉ của tiên vương ; gieo neo trong đường hiểm Thục Tần (2. Đường vào Ba Thục có đường sạn đạo của vua nhà Tần làm, đi rất hiểm trở.), theo ta ba chục năm phong trần nơi nước bạn. Gian truân càng tỏ nết kiên trinh ; mềm mại vốn quen chiều lễ độ. Giúp việc hiếu ở cung Trường Lạc (3. Cung vua Huệ đế nhà Hán làm để nuôi mẹ), dâng cơm hầu từng đủ vị trân cam ; chia nỗi khổ ở núi Cối Kê (4. Quả núi Câu Tiễn nước Việt ở để tìm kế phục thù nước.), tay dệt vải để giúp cho tướng sĩ. Cởi trâm nơi Vĩnh Hạng (5. Lấy tích bà Khương hậu vợ Châu Tuyên vương rút trâm, vào ở Vĩnh Hạng là nơi giam cung nữ để can vua), vá cho áo cổn lại lành ; trông đuốc chốn minh đình, tìm áo giúp vua dậy sớm. Ta nhớ lễ chưng thường dâng chín miếu, vết giấy thơm cùng dẵm trên sương ; ta thương tình lao khổ của sáu quân, vẻ mày ngài cũng cau vì tiếng trống. Đầy lo nghĩ mà cầm lòng vững chắc ; gặp vận đen mà tỏ đức nhu hòa. Đón gấu giữ vua Hán, kém chi Phùng cơ (6. Vua Thành đế nhà Hán, khi ra chơi vườn Thượng lâm, gặp con gấu chạy ra. Lúc đó có người cung nhân là Phùng Cơ đứng đón con gấu cho vua khỏi bị hại) ; chạy ngựa dựng nghiệp Chu, sánh với Khương nữ (7. Vua Thái vương nhà Chu, khi dời bỏ ấp Mân sang dưới núi Kỳ Sơn, vợ là Khương thị theo đi để giúp việc.). Non sông dựng lại đã cùng nhau gánh vác gian nan ; nhật nguyệt sáng cùng, nên chung hưởng lấy nền phú quý. Noi theo lễ trước, cho được tiếng thơm. Vâng từ mệnh của Vương Thái hậu, đặc biệt sai Chưởng quân Thần võ Phạm Văn Nhơn và Lễ bộ Đặng Đức Siêu bưng sách vàng và ngọc tông (1. Một thứ ngọc giữa tròn có lỗ, xung quanh có tám góc.) lập làm vương chánh hậu. Ôi ! Duy có cách nghiêm kính mới có thể thờ bề trên, có nết nhân từ mới có thể tiếp kẻ dưới. Hậu hay siêng năng thì người ta không dám lười biếng ; hậu hay tần tiện thì người ta không dám xa hoa. Hậu nên nghĩ đó, để nối Phước cho tông miếu, để thêm vui cho cháu con. Ôi ! Sao thứ hai đế tòa, sánh với vua là hậu, chính từ trong bày tỏ di luân ; hào đầu quẻ gia nhân, trọn đạo nhà là hay, trị việc nước cả xem đức hóa. Kính thay, chớ coi thường sắc mệnh này !”.

Ngày Tân dậu, vua ngự ở điện, bầy tôi dâng biểu khen mừng. Ban yến theo thứ bực. Xuống chiếu bố cáo trong ngoài.

Chiếu rằng : “Ta nghĩ : Thánh nhân dựng đặt ngôi nội phụ (2. Nội phụ : Giúp việc ở trong.), cốt để tỏ rõ chính sách ở trong, giúp vua tuyên truyền đức hóa. Cho nên Kinh Dịch khen người chủ ăn uống giúp đỡ nhà vua, Kinh Thi khen việc đóng ghe thuyền để đón em trời. Nguyên phi Tống thị tuổi cặp kê thì về với ta, giữ đức thuận theo, khó nhọc mà kiên trinh, cao sang mà nhũn nhặn, nhân hiếu cần kiệm, theo lời thầy dậy, hơn vài mươi năm, thực đã giúp trẫm nhiều việc. Trong khi đường lớn chưa được bằng phẳng, việc quân lữ còn bận rộn, tuy chính vị cũng đã lâu năm, nhưng chưa tôn xưng hiệu. Nay nhờ trời giúp, ta được nối sáng công nghiệp tổ tiên, làm chủ tế trời, sâu nghĩ phong hóa trước tự buồng khe, tham xét phép xưa, lễ phải theo về bực quý. Ta đã trên tuân ý Từ cung, dưới theo lời đề thỉnh của các quan, định đến ngày 21 tháng này, kính cáo Thái miếu, ngày 22 sách lập làm Vương chính hậu, kính tỏ đức cao, để chính danh tốt. Ôi ! Theo phép kiền khôn, đã thuận cương nhu mà định vị ; từ nhà đến nước, đợi xem khuôn phép để làm tin”.

Lấy Nguyễn Văn Toan và Nguyễn Văn Vị làm Khâm sai cai cơ. Năm Kỷ mùi [1799] bọn Văn Toan phụng mật dụ đi Thanh Hoa cùng với thống lãnh thượng đạo Hà Công Thái chiêu mộ quân nghĩa dũng để làm sách ứng cho quan quân. Vua truy nghĩ công đó, nên có mệnh này.

Các quân ở Gia Định đi thú ở Bắc Thành, nhớ nhà trốn đi rất nhiều. Các cửa ải cửa biển xét hỏi bắt được giải về Kinh. Vua đều tha không bắt tội, cấp cho tiền lương và quần áo rồi thả về, và răn bảo rằng : “Bọn các ngươi đi thú ở ngoài đã lâu, xa cách gia hương, mối tình nhớ nhà, không ai khỏi được. Nay được tha tội mà về, đều nên siêng năng sinh nghiệp, chớ có làm càn, mà nên tội lệ”.

Khai khẩn thêm ruộng hoang ở Gia Định. Sai lưu trấn thần chiêu tập cùng dân, cấp cho thóc của nhà nước để cho đi khẩn trị. Lại sai các dinh thần chia nhau đi đôn đốc, xem chất đất nên trồng gì thì trồng thức ấy. Có ruộng bỏ không cày thì có tội.

Vệ úy vệ Tả dực dinh Phấn dực là Nguyễn Văn Hạnh vận chở gạo kho Bắc Thành báo con số không đúng thực. Vua giận muốn chém. Bọn Phạm Văn Nhơn, Lê Chất và Trần Văn Trạc hết sức xin cho. Lòng vua nguôi, Văn Hạnh bèn được khỏi.

Sai các quan Bắc Thành bàn về việc vận tải đường kênh. Những đường kênh ở Thanh Nghệ có chỗ bị lấp tắc. Sai các quan hai trấn ấy theo thế mà khơi đào cho được thông.

Các quan Bắc Thành là bọn Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Khiêm, Đặng Trần Thường, Phạm Như Đăng, Nguyễn Đình Đức dâng sớ rằng : “Bắc Thành từ cuối đời Lê tới đây, quyền cương đảo lộn, chính sự trễ tràng, bọn hào hữu vũ đoán trong làng xóm, dân phong ngày thêm điêu bạc, kiện tụng rối bời, trộm cướp tứ tung. Lại bị Tây Sơn bạo ngược, như lửa nóng nước sâu, chính trị phong tục càng ngày càng thêm thối nát. Nay thánh thượng ban đức thánh võ, có cả Bắc Hà, nếu không có một phen sửa sang dời đổi phong tục, thì tệ sẽ không nói xiết được. Bọn thần trộm nghĩ rằng nhà vua phát chính thi nhân, trước hết là ở việc chia ruộng cấp lộc. Điều chế có thi hành thì quan mới có thường lộc, dân mới có thường sản, sẽ không có cái lo về bọn hào hữu kiêm tính nữa. Xin trước hết hạ chiếu văn lấy việc đổi cũ theo mới mà dụ rằng vốn muốn lo tính sinh kế cho dân, lại lượng giảm bớt tô dung, để tỏ ân tín, khiến lòng dân mừng phục, rồi sau mới cử hành. Nay xin trình bày 3 điều :

1. Sửa đúng sổ ruộng để cho tiện việc quân cấp. Phép chia ruộng từ đời Hán trở xuống đều muốn thi hành mà những nhà thế gia quen thói cho là không tiện, rồi việc phải thôi. Đến cuối đời Lê thì bọn cường hào kiêm tính mỗi ngày một quá. Nay xin phàm điền thổ công tư đều dồn cả về sổ dân, ai có tư điền thì để lại 3 phần 10, còn 7 phần giao cho xã dân quân cấp. Lại ở trong số quân cấp thì để lại 2 phần 10 chờ cấp  cho dân mới tục sau.

2. Xét sổ đinh để rõ số dân. Phàm chính hộ, khách hộ, các hạng quân, dân, lão, tật, cùng, đào, đều phải biên vào sổ, ẩn lậu thì bị tội. Người dân lậu thì bị thu làm quan nô, hay bắt làm thuộc binh ở các nha, cho bộ Binh cấp bằng, đưa về dân để ghi vào sổ.

3. Chọn người hiền tài để trao quan chức. Nhân tài khó được, cũng khó biết. Các quan chăn nuôi giáo hóa, không thể không chọn. Xin từ nay cho văn võ đều cử những người mình biết, quan nhất phẩm mỗi năm cử 5 người, quan nhị phẩm 4 người, quan tam phẩm 3 người, cho đến các trấn các phủ và các học quan cùng đều phải tiến cử. Ai không xứng chức thì người tiến cử bị phạt. Như thế thì ngoài dân gian không sót người hiền, trong triều đình không có chức trống, thiên hạ lo gì mà không trị được”.

Sớ ấy dâng lên. Vua bảo bầy tôi rằng : “Cái việc quân điền, thực là điều cần trước tiên trong chính sách của vương giả, ngày nay làm thì thế nào ?” Bầy tôi đều nói : Chưa nên. Bèn hạ chiếu báo cho các thành thần rằng : “Bọn các ngươi trình bày, ta không phải cho là không phải. Duy ngày nay võ công mới định, việc nước đương bận, mà triều đình làm việc nên có thứ tự hoãn cấp. Ta sẽ bàn dần để lần lượt thi hành”.

Bọn đề đốc Nhà đồ nội là Lương và thủ hợp là Nho lấy trộm của công, cai đội Hoàng Hữu Toán dùng roi đánh chết. Việc ấy đến tai vua. Bắt giam vào ngục Tả vệ. Tri bạ Nguyễn Tường Vân và Nguyễn Văn Nghĩa là người đồng sự mà không biết can ngăn, đều bị tội phạt.

Hai nước Thủy Xá Hỏa Xá, sai sứ đến quy phục, sứ giả đến Phú Yên. Dinh thần tâu lên, vua sai ban áo gấm và xuyến ngà rồi cho về.

Truy tặng Phó tướng Tiền quân là Nguyễn Huệ làm Chưởng dinh, Vệ úy vệ Lương võ dinh Tiên phong là Nguyễn Công Trọng, Vệ úy vệ Ban trực tả quân Thần sách là Võ Văn Tài, Khâm sai cai cơ trưởng hiệu Hậu hiệu Trung chi Trung quân là Nguyễn Văn Tường làm Chưởng cơ (4 người đều chết trận).

Bộ Lễ dâng nghi chú về lễ hưởng các miếu. (Trước 3 ngày ăn chay. Trước 1 ngày hữu ty bày đồ tế. Đêm hôm ấy tiểu hầu chầu hát. Đến ngày, sáng sớm, bày nghi trượng ở phía đông tây trước sân Thái miếu, đặt nhạc bát âm ở dưới thềm và đặt chiêng trống vào chỗ. Các quan mặc áo chầu đứng chực. Đến giờ, vua đội mũ cửu long, mặc áo bào vàng đóng đai ngọc, làm lễ. Quan coi chiêng trống đánh chiêng trống. Nhạc sinh theo từng

tiết mà tấu những khúc nhạc nhỏ. Lễ xong. Tiểu hầu chầu hát, chúc Phước lộc thọ).

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển XXI – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Quý hợi, năm Gia Long thứ 2 [1803], mùa hạ, tháng 4 ngày mồng 1, tế hạ hưởng.

Truy tặng cha thái hậu là Cai cơ Chính dinh Nguyễn Phước Trung (Họ Nguyễn, hoặc được từ tính, hoặc dùng chữ Phước Trung làm mỹ tự, không khảo ở đâu được) làm Tán trị công thần đặc tiến khai phủ phụ quốc thượng tướng quân, Thượng trụ quốc Trung quân đô đốc phủ chưởng phủ sự thái bảo Miên quốc công, thụy là Chính trực ; mẹ là Phùng thị làm Quốc thái phu nhân, thụy là Trang thục ; ông tổ là Cai cơ Chính dinh Nguyễn Phước Kiêm làm Dương võ công thần khai phủ phụ quốc quang tiến trấn quốc đại tướng quân Cẩm y vệ đô chỉ huy sứ ty đô chỉ huy sứ, Thiếu úy Kiêm quận công, thụy là Đôn hậu ; bà là Tống thị làm Quận phu nhân, thụy là Đoan thục. (Năm Minh Mệnh thứ 13 gia tặng Nguyễn Phước Trung làm Đặc tiến tráng võ đại tướng quân Trung quân đô thống phủ chưởng phủ sự thái bảo phong Diễn quốc công, Phùng thị làm Diễn quốc nhất phẩm phu nhân).

Triệu Cai bạ Trấn Định là Nguyễn Thành Chẩn, Ký lục Phiên Trấn là Nguyễn Duy Hòa về Kinh.

Lấy Tham luận vệ Tuyển phong hữu là Bùi Đức Mân làm Cai bạ Trấn Định, Hàn lâm thị học Phạm Quang Triệt làm Ký lục Phiên Trấn.

Sai Tham tri Binh bộ là Lê Công Xuân kiêm coi việc Binh bộ Gia Định, Hàn lâm thị học Phạm Văn Dưỡng làm Bồi sự, Đoàn Công Nghi quản tri Nhà đồ Gia Định.

Sai các dinh phủ ở Gia Định cấm dân gian không được chứa riêng đồ binh khí. Các nhà dân trong hạt và đến cả những người Đường [Trung Quốc], người Tây và người Cao Miên ở lộn, ai có súng tay và khí giới phải đem hết nộp quan. Những khí giới ở quân trại các đồn điền cũng bắt tiêu hủy để rèn đúc đồ điền khí. Quân nhân không phải đi bắt trộm cướp và đi công sai thì khi đi đường không được mang một tý binh khí. Làm trái đều bị tội.

Lấy Ngô Đình Giới, Nguyễn Hữu Thận, Ngô Vị, Nguyễn Văn Linh làm Thiêm sự Lại bộ, Võ Sảng làm Hàn lâm chế cáo, Bùi Đình Long sung Hàn lâm viện.

Trấn thần Thanh Hoa tâu rằng những lính mới kén ở trấn đều đã biên thành vệ đội, chưa có quản suất thì xin lấy bọn phó vệ úy và cai đội ngạch thừa sung bổ. Vua y cho.

Lấy Nguyễn Văn Yên làm Thuộc nội cai cơ lãnh giám thành sứ.

Cho học sĩ Nguyễn Viên được chi lương theo hàm tòng nhị phẩm.

Cho bọn Tống Viết Trì và Tống Viết Thiết là con Đô thống chế Trung dinh quân Thần sách Tống Viết Phước tiền gạo đủ dùng (mỗi tháng mỗi người 4 quan tiền, 3 phương gạo).

Lê Văn Duyệt đánh Man [Mọi] Thạch Bích phá được đuổi đến Tử Khê, Nhiêu Thủy rồi về. Tin thắng trận báo. Vua hạ chiếu khen ngợi rằng : “ác man từ trước cậy chỗ ở hiểm không chịu thần phục. Nay khanh phụng mệnh tiến đánh đã thẳng tới được nguồn núi, đánh vào sào huyệt, thực do tướng sĩ vâng lệnh, dõng dược xông tới, không từ khó nhọc nguy hiểm, cho nên mới có công lạ này”. Bèn phát tiền 5.000 quan, khiến chiếu theo công trạng mà thưởng cấp. Lại cho những người Man đầu hàng, gấm, đoạn, nhiễu theo thứ bậc.

Định thuế liêm hộ [hộ đãi vàng] ở Quảng Nam. (Tráng hạng mỗi người một năm nộp vàng 2 đồng 2 ly 2 hào, tiền thuế thân 1 quan 5 tiền, dân đinh và lão tật nộp một nửa).

Sai Bình Định xét xem ruộng đất của xã dân có bị nước lở cát bồi thì đều cho miễn thuế.

Bỏ thuế mây cho hai nguồn Ô Giang và Cổ Lâm thuộc Quảng Trị. Theo lệ cũ, dân ở nguồn chỉ phải nộp thuế thân thôi (mỗi năm mỗi người nộp 1 quan 1 tiền) ; Tây Sơn mới thu thuế mây, dân khổ lắm. Dinh thần tâu xin miễn trừ. Vua theo lời. Chỉ khiến mỗi năm nộp tiền thuế thân và 60.000 sợi mây nước thôi.

Định điều cấm về trường thuế ở Bắc Thành. Thành thần tâu rằng : “Từ trước thu nộp ở trường thuế, những bọn lại sâu lính mọt nhân đó làm gian, dân bị hại nhiều mà thuế nhà nước thường đến không đủ. Xin nêu rõ điều cấm, để trừ tệ cũ. Phàm đông hạ hai mùa thuế đều phải hai tháng thì xong. Nhân dân đến nộp, cứ 20 ngày là một kỳ. Bao nhiều khoản ngoại ngạch lạm thu và đòi riêng đều cấm. Những người cai trưng và coi kho có ai nhận khoán bán riêng, mượn cớ làm khó dễ, thì bị tội”, Vua y lời  tâu.

Triệu Lê Văn Phong về Kinh. Trước kia vua cho đất Gia Định là nơi căn bản, sai Văn Phong và Phó thống đồn Hậu quân là Nguyễn Văn Hiên quản đem binh và voi đi thú. Đến nay địa phương yên ổn, lưu trấn Nguyễn Văn Nhơn tâu lên, bèn lưu Hiên ở lại mà triệu Phong về.

Nước Nam Chưởng xin nội phụ. Trước là Hưng Hóa dịch thư bằng lá của nước Nam Chưởng nói rằng Nam Chưởng với Vạn Tượng ước nhau  cùng cử binh đánh Mường Then, dụ mười hai châu Hưng Hóa cùng hiệp lực. Quan Bắc Thành đem việc tâu lên và nói : “Nam Chưởng thì cách ở cõi xa, Vạn Tượng thì làm tôi thờ bản triều, cho nên chưa có thể toàn tin vào lời dịch mà vội gây hấn khích ngoài biên. Xin hạ lệnh cho Trấn thần Hưng Hóa, ủy người dò xét và gửi thư cho Nam Chưởng bày tỏ uy đức của triều đình để xem tình hình động tĩnh”. Vua theo lời. Đến nay Nam Chưởng sai bọn Nại Khai dâng thư xin theo đường châu Ninh Biên vào cống. Xuống chiếu cho quan Bắc Thành tiếp đãi sứ giả trọng hậu, và viết thư trả lời cho vào cống.

Bắc Thành bị hạn. Tha hơn 20 người tù.

Tháng 5, lấy Ký lục Quảng Nam là Huỳnh Văn Diễn làm Cai bạ Bình Định, Tham luận Đoàn Viết Nguyên làm Ký lục Quảng Ngãi, Nguyễn Xuân Thục làm Tham hiệp Nghệ An, Thư ký Ngô Đĩnh Siêu làm Ký lục Quảng Nam, Hàn lâm Lê Đại Nghĩa làm Ký lục Quảng Trị. Khi bệ từ vua dụ rằng : “Bọn ngươi làm việc đã lâu ngày, nay ủy cho trách nhiệm một phương thì nên thanh liêm cần cán mà giữ mình, noi theo điển thường của nhà nước, ngõ hầu không phụ chức mình”.

Hiệp trấn Thái Nguyên là Nguyễn Đức Tư và Tham hiệp là Hoàng Đường có tội bị bãi. Lấy Hiệp trấn Hưng Hóa là Lê Nguyên và Tham hiệp là Nguyễn Thế Trung thay. Lấy Đốc học Phụng Thiên là Nguyễn Đình Tứ làm Hiệp trấn Hưng Hóa. Hàn lâm Võ Xuân Cẩn là Tham hiệp, Thị trung học sĩ Phạm Thích lãnh Đốc học Phụng Thiên.

Thu thuế hai mỏ chì Võ Chấn và Khôn Hiển thuộc Thái Nguyên.

Định lệ đình nghị. Chiếu rằng : “Nước nhà mới định yên, công việc còn bề bộn, ta một ngày muôn việc, sợ không thể chu tất được cả. Bọn khanh đều là người gần gũi, nên sáng suốt gắng làm để có ích cho chính trị. Từ nay, quan võ từ thống chế, phó đô thống chế và phó tướng trở lên, quan văn từ tham tri trở lên, mỗi tháng cứ bốn ngày mồng 1, mồng 8, 15, 23 thì họp bàn ở tả vu, phàm những việc mà các ty không giải quyết được thì phải bàn nhau mà xử định. Đến như sự thể quan trọng thì cũng chước lượng bàn bạc trước, rồi sau tâu xin quyết định.

Cho Mai Tiến Vạn và Nguyễn Thoại làm Khâm sai chưởng cơ, Nguyễn Văn Tỉnh làm Thuộc nội cai cơ.

Sai Cai cơ Nguyễn Kính Loan coi hai nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch.

Đổi Tượng dinh làm Tượng quân, Tượng chi làm Tượng cơ.

Định điều cấm về việc ẩn lậu suất đinh. Vua thấy phép cũ bỏ lâu, trong dân nhiều kẻ giả mạo, có chỗ lấy người sống làm chết, lấy người ở làm trốn, bèn chuẩn định phàm lậu 1 đinh thì xã trưởng bị 100 roi và đi hành dịch một năm, người cáo ra được thưởng tiền 30 quan ; lậu từ 2 đinh trở lên cho đến 10 đinh, thì cứ theo số mà gia thêm hạn hành dịch, người cáo ra được thưởng tiền 300 quan hay được miễn dao dịch 10 năm ; từ 11 đinh đến 15 đinh thì xã trưởng đi hành dịch vĩnh viễn, người cáo ra được miễn dao dịch suốt đời ; từ 16 đinh trở lên, thì xã trưởng bị tội chết, người cáo ra cũng được miễn binh dao suốt đời. Vu cáo thì bị phản tọa.

Sai các địa phương chiếu các sở thủy lợi nguồn và đầm cho dân đấu giá lãnh trưng. Quan lại đều không được mua tranh của dân. Nếu trái lệnh cấm mà cầu lợi và thiên vị cho riêng thì đều xử theo luật vi chế.

Lại định điều cấm về việc mua bán ruộng đất công. Theo lệ cũ thì công điền công thổ cho dân quân cấp, đem bán riêng là có tội, do đó nhân dân đều được lợi cả. Từ loạn Tây Sơn bỏ hết luật cũ, dân gian nhiều người đổi ruộng công làm ruộng tư, cũng có kẻ tạ sự việc công mà cầm bán ruộng đất công. Vua muốn chữa cái tệ ấy, bèn sắc định rằng phàm xã dân có công điền công thổ đều không được mua bán riêng, làm trái là có tội. Ai mua nhầm thì mất tiền. Nếu nhân có việc mà cho người mướn để chi dùng việc công trong xã thôn thì chỉ hạn cho ba năm, quá hạn thì xử tội nặng. Người nào tố cáo đúng thực thì thưởng cho ruộng nhất đẳng một mẫu, cày cấy ba năm, hết hạn trả về dân.

Các địa phương gạo kém nhân dân thiếu ăn, nhất là Quảng Ngãi. Hạ chiếu tha 4 phần 10 thuế điền năm nay cho Quảng Ngãi, hoãn thu 5 phần 10 cho Quảng Đức, Quảng Nam, Quảng Trị, Quảng Bình. Thuế vụ chiêm ở các trấn Bắc Thành thì nộp thay một nửa bằng tiền.

Vua nghĩ tới Thống nhung quận công Nguyễn Văn Huỳnh có công nên miễn dao dịch cho 18 người cháu gọi bằng chú bác.

Trấn thành Thanh Hoa tâu rằng : “Những thợ thuyền ở bốn xã thôn Kim Trì, Đam Khê, Lan Khê và Đới Sơn thuộc huyện Yên Mô lệ theo Bắc Thành làm việc, và xã Thiện Trạo thuộc huyện Yên Khánh biệt nạp vải trắng và chiếu trơn cũng do Bắc Thành mà nộp, đường sá xa cách, xin cho theo về trấn để tiện dân”. Vua y lời tâu.

Các ốc nha ở hai phủ Trà Vinh và Mân Thít thấy dân Man ở lẫn ở Lam Khê (thuộc huyện Long Xuyên), ruộng đất nhiều chỗ bị dân Hán [Việt] bá chiếm, bèn kêu ở Lưu trấn thần Gia Định, Lưu trấn thần sai Ký lục Vĩnh Trấn là Nguyễn Đức Hội đến phân hoạch giới hạn, có ai xâm chiếm thì phải trả lại hết.

Lập đàn ở chùa Hà Khê, để tế tướng sĩ trận vong.

Vua đến xem lễ, sai lễ thần đọc sắc tặng ở đàn, người nghe không ai là không cảm khích.

Quan Bắc Thành tâu rằng : “Thế nước sông Nhị Hà rất mạnh, đê bên tả bên hữu ven sông thuộc Sơn Tây, Kinh Bắc, Sơn Nam thượng, hạ nhiều chỗ vỡ lở, xin thuê dân sửa đắp để chống lụt mùa thu. Lại thủy đạo các trấn nhiều nơi ứ tắc, xin hạ lệnh cho trấn thần tùy thế khơi vét”. Vua theo lời tâu.

Đắp bảy đoạn đê mới ở Bắc Thành. (Một đoạn ở xã Nại Tử Châu huyện Yên Lạc trấn Sơn Tây, dài hơn 220 trượng, một đoạn ở xã Kim Xà, huyện Yên Lãng, dài hơn 298 trượng, một đoạn ở xã Thổ Khối huyện Gia Lâm trấn Kinh Bắc, dài hơn 400 trượng, một đoạn ở xã Tào Nha huyện Nam Xang trấn Sơn Nam thượng, dài hơn 513 trượng, một đoạn ở thôn Ngọ Xá huyện Sơn Minh, dài hơn 178 trượng, một đoạn ở xã Mễ Trường huyện Thanh Liêm, dài 53 trượng, một đoạn ở xã Lại Trì huyện Thư Trì trấn Sơn Nam hạ, dài hơn 42 trượng) ; lại bồi đắp một đoạn hưu đê (1. Hưu đê : Đê cũ đã bỏ.) cũ (ở xã Vĩnh Thái huyện Phú Xuyên trấn Sơn Nam thượng, dài hơn 65 trượng). Chi tiền hơn 80.400 quan.

Lấy Hoàng Trung Đồng làm Chánh Tuần hải đô dinh.

Hộ bộ Bắc Thành là Nguyễn Văn Khiêm vào chầu. Nhân nói bạc thoi của Ngụy Tây pha nhiều thiếc kẽm thậm chí có thoi không đủ phân lạng, xin từ nay có đúc bạc thì khắc chữ để làm tin. Vua cho là phải. Dụ cho quản Đồ gia Bắc Thành là Trần Bình Ngũ rằng : “Các trấn ở Bắc Thành là nơi sản xuất vàng bạc, dân hay trà trộn làm gian, chỉ trộn chút ít mà được lợi rất to : Tệ giả mạo như thế phải trừ. Nay cho ngươi làm Trung bình hầu, phàm vàng thoi bạc thoi công hay tư, có dấu trung bình của ngươi thì mới được thông dụng. Ngươi nên cẩn thận. Kẻ làm gian xảo thì trị tội”.

Văn Khiêm lại nói sau việc binh cách dân gian thiếu tiền, xin đúc thêm để nhà nước đủ dùng, nhưng quyền đúc tiền thì ở triều đình, nên có tiền mẫu thì mới khỏi tệ.

Vua theo lời. Từng hạ lệnh cho bầy tôi bàn về tiền chế. Các quan đều nói : “Ngày xưa các tiên vương tính tiền của mà định nặng nhẹ, nhà Châu đúc tiền lớn, nhà Tần đúc tiền bán lạng, nhà Hán làm tiền du giáp (1. Du giáp: Tiền dáng như lá du (bưởi) lá giáp (chầm kết).), đến Văn đế lại đúc tiền tứ thù (2. Tứ thù: Tiền nặng 4 thù, thù là 1/24 của lạng.), đời sau lại làm tiền yêu (3. Đồng tiền nặng 7 phân 3 thù gọi là tiền yêu.) tiền ấu(4. Đồng tiền nặng 4 phân 5 thù gọi là tiền ấu.) hoặc nhân nhẹ mà làm ra nặng, hoặc nhân nặng mà làm ra nhẹ, đều là tùy tiện để ứng phó với sự cần kíp của dân mà thôi. Nay xin đúc đồng làm tiền, vành nên mỏng để tiện cho dân dùng”. Vua cho là phải.

Hạ chiếu dụ Lê Văn Duyệt và các tướng sĩ bình Man rằng : “Bọn ác Man gây vạ, dân ngoài biên không được yên. Tướng sĩ các ngươi phải khó nhọc, lặn suối trèo non, thực là vì việc nhà vua mà phải thế. Các ngươi theo chinh chiến đã lâu, chưa được nghỉ ngơi, nay đến tiết trời nóng bức, lam chướng lại thịnh, thấy các ngươi khó nhọc, lòng ta rất thương. Vậy cho 5.000 quan tiền ủy cho Văn Duyệt chia cấp. Tựu trung ai có công trạng khác nữa thì làm biểu báo lên. Thuốc thang ở trong quân cũng tâu ngay xin gởi phát”.

Vua đến cửa Eo, theo sông Nghi Giang, qua Thai Dương lên bờ trông lũy cũ ở Quy Sơn, quay lại bảo các bầy tôi đi theo rằng : “Núi này phía đông giáp biển, phía tây có phá Hà Trung, cũng là một nơi hình thắng. Tây Sơn đắp lũy ở đấy, toan muốn đặt hiểm để tự chủ, không bao lâu bị quân ta đánh thua, mới biết được thua là ở đức chứ không ở hiểm”. Lại xuống thuyền đi xem hình thể núi Khúc Tượng, hôm sau mới về.

Tháng 6, vua xem Tôn Thất phả. Sai học sĩ Nguyễn Viên xét rõ các phái hệ xa gần, phát 3.000 phương gạo lương chia cấp cho công tộc và công tính theo thứ bậc khác nhau. (Công tộc(5, 6. Công tộc là những người về dòng các chúa – Công tính là dòng họ xa hơn.) 2.100 phương, công tính(6) 900 phương).

Dựng cây đo bóng ở sân điện.

Lấy Nguyễn Đức Xuyên kiêm quản Tàu vụ. (Phàm thuyền buôn nước ngoài đến Kinh và Quảng Nam thì ủy người đến khám mà chiếu thu thuế. Còn ở các thành và dinh trấn thì cho quan địa phương cứ thực tâu lên, y lệ thu thuế, vẫn do quan quản Tàu vụ làm sổ dâng lên).

Lấy Nguyễn Tăng Địch làm Hiệp trấn Thanh Hoa, Trần Văn Đại làm Hàn lâm cáo chế, Lương Tiến Tường, Nguyễn Hữu Phượng làm Hàn lâm thị thư, Trần Ngọc Thành, Trần Văn Phú, Nguyễn Văn Khiêm sung Hàn lâm viện.

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển XXI – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Bắt đầu đúc tiền Gia Long thông bảo. Sai cai đội Cáp Văn Cẩn trông coi công việc. Đúc xong đưa 1.000 đồng ra Bắc Thành để đúc theo cho có quy thức nhất định. (Mẫu tiền, mỗi đồng đường kính 5 phân 5 ly, mỗi quan tiền nặng 2 cân 4 lạng).

Sai các dinh ở Gia Định chiêu tập quân dân xiêu tán, Dụ rằng : “Gia Định từ khi dấy binh, hằng năm chinh chiến, đi phải mang theo, ở thì phải đưa tiễn, dân cũng mệt nhọc. Trong lúc nhiều việc, hoặc có kẻ chạy đông chạy tây, trốn tránh vào rừng núi để tạm lánh phu dịch. Nay nghịch tặc đã trừ, binh cách đã dứt, nên dụ bảo rộng rãi, khiến cho người ta vui vẻ quay về. Nếu có kẻ tình nguyện đầu quân, cho quan sở tại làm sách tâu lên, không thì cũng đều cứ trở về hương lý để cùng hưởng Phước thái bình”.

Lại sai lưu trấn thần đưa thư sang Chân Lạp nói phàm có dân Hán [Việt] ngụ cư ở đó thì đưa trả về hết.

Đúc ba cái triện nhỏ bằng bạc. Một cái khắc bốn chữ “Văn lý mật sát (1. Văn lý mật sát : Lời lẽ văn xét kỹ.)”, phàm chiếu văn, sớ sách thì dùng để đóng chỗ giáp lề, một cái khắc “Bảo”, khi giấy tờ có tẩy cải gì thì dùng, một cái khắc bốn chữ “Đồng di hiệp cung” (2. Đồng di hiệp cung ; Công đồng đều thỏa thuận.), phàm Công đồng truyền thị việc gì thì dùng đóng ở chỗ giáp lề ; tẩy cải cũng dùng. Hạ lệnh mồng 1 tháng 7 thì bắt đầu dùng.

Cho Phó thống Hậu đồn quân Thần võ là Nguyễn Văn Khánh làm Khâm sai cai cơ.

Đóng các thuyền hải đảo, thủ quyển, sam bản (3. Thuyền đi biển, thuyền đầu cong, thuyền ván sam.), sai Công bộ Trần Văn Thái trông coi công việc.

Án thủ Hà Trung là Nguyễn Văn Thuận sửa sang đường quán, lấy riêng của dân hơn một vạn quan tiền, rồi bắt quân làm thay. Việc phát ra, Thuận bị giết, tịch thu gia tài. Hạ lệnh cho trấn thần phát hơn 3.800 quan tiền công cấp cho những lính làm thay.

Lại tha ba năm tô thuế cho dân xiêu dạt ở Thanh Hoa. Những người lưu tán chưa thành án cũng được hoãn thu thuế. Sai trấn thần xét tâu để tha. Trấn thần lại nói: “Ba đội thủy du (4. Thủy du : Dầu nước), vân đằng (5. Vân đằng : Mây có vân. ) và diêm tiêu dân số điêu hao nhiều, xin hoãn thuế cho”. Vua y cho.

Hạ lệnh từ Nghệ An trở ra Bắc phàm ngụy quân theo về đã được lục dụng rồi thì đều được tha thuế thân.

Quan Bắc Thành tâu rằng : “Các động sách Tây Nghiễn, Ngưu Đầu, Bạch Sa và Ngư Châu thuộc châu Vĩnh An trước kia chính hóa của triều đình chưa tới, nay trấn thần Yên Quảng tuyên dương đức ý, rộng đi chiêu dụ vỗ về, nhân dân đều vui vẻ quy phụ. Xin hạ lệnh cho làm sổ sách đinh điền, đợi sau bàn định thuế khóa”. Vua y theo.

Lê Văn Duyệt thấy quân Man trốn chạy vào núi sâu, chưa có thể tiễu trừ hết, xin đóng quân ở đất Trà Khúc rồi sẽ tính dần phương lược. Vua chiếu bảo rằng : “Nay trời hè mưa lụt, tướng sĩ lăn lộn nơi lam chướng, bị ốm nhiều, tiến đánh thực là chưa tiện. Gần đây gọi binh Bắc Thành, định sai đến theo đánh giặc, nhưng vì nghĩ việc vận tải lương thực trong quân không đủ nên tạm lưu ở Kinh, nay cũng dần sinh tật bệnh rồi. Phàm hành binh cần phải có mưu lược, việc binh man đã ủy thác cho khanh, khanh nên lượng tính sự thế, nếu cơ có thể đánh được mà nên thêm quân, thì tâu ngay xin điều khiển ; bằng chưa có cơ đánh được, thì nên dâng biểu tâu lên, để thả những lính đã gọi cho về, để khỏi tốn lương”.

Hồng Mao sai sứ đến hiến phương vật, dâng biểu xin lập phố buôn ở Trà Sơn dinh Quảng Nam. Vua nói rằng : “Hải cương là nơi quan yếu, sao lại cho người ngoài được !” Không cho. Sai trả vật lại mà bảo về.

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển XXII – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Quý hợi, Gia Long năm thứ 2 [1803], mùa thu, tháng 7, ngày mồng 1, lễ thu hưởng.

Lấy Chưởng cơ Nguyễn Đình Tuyển lãnh chức Trấn thủ Thái Nguyên.

Dựng nhà đốc học ở Quốc tử giám. Lấy Phan Đăng Ưng làm Đốc học chính đường, Nguyễn Viết Ưng làm Đốc học giáp phó đường, Trương Chí Lý làm Đốc học ất phó đường. Định phép khảo khóa học trò.

Chiếu rằng : “Vừa đây Tây Sơn nổi loạn, dao dịch nặng nề, nghề học trễ nải. Nay võ công đã định, văn giáo mở mang. Vậy định lấy hai tháng trọng mùa xuân và mùa thu làm kỳ khảo khóa. Phàm ai có theo việc cử nghiệp, không kỳ quân hay dân, cho nộp quyển ở hai học đường để ứng khảo. Người nào thông văn lý thì cho miễn binh dao một năm, hoặc nửa năm, mãn hạn thì khảo lại. Người nào học tiến thì lại cho miễn binh dao như cũ, không tiền thì truất đi, để tỏ sự khuyến khích. Học trò các ngươi đều nên giữ thành thực mà cố gắng để học tiến lên, đợi khoa thi mà dự trúng thì sẽ được lục dụng”.

Lấy Lê Văn Nguyên sung Hàn lâm viện, Trần Lợi Trinh và Lê Phong sung Cống sĩ viện. Bổ Nguyễn Khoa Hảo là con Tham chính Nguyễn Khoa Thuyên và Trần Phước Hiển là con Tham mưu Trần Phước Nhàn làm Hàn lâm viện thị thư, Hoàng Minh Triết là con Phó đô thống chế Huỳnh Công Thành sung Hàn lâm viện.

Cho Phó thống Tiền đồn Hậu quân là Đặng Đức Bính làm Khâm sai chưởng cơ.

Lấy Cai cơ Võ Văn Phú làm Thủ ngự cửa biển Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập làm đội Hoàng Sa.

Sai Thuộc nội cai cơ Nguyễn Văn Đức quản giữ ba đạo Cần Giờ, Vũng Tàu và Đồng Tranh. Văn Đức tâu rằng : “Cần Giờ trước có quân ba đội Bình hải, gần đây trốn đi gần hết. Xin hạ lệnh cho cai đội Tiền thủy là Bùi Văn Hạnh mộ dân ngoại tịch lập làm đội Bình hải cho lệ theo để sai khiến”. Vua y cho.

Vua nhớ thổ mục sách Quảng Địa ở Thanh Hoa là Nguyễn Đình Ba ứng nghĩa có công, truy tặng quận công.

Lấy Nguyễn Quang Huyên và Nguyễn Ngọc Cơ làm Thiêm sự Hộ bộ.

Tiết Thánh thọ (ngày 19 tháng này là ngày sinh nhật của Hoàng thái hậu), vua đem bầy tôi đến chúc mừng. Hằng năm lấy làm lệ thường.

Tổng binh cai cơ hành Lưu thủ Trấn Biên là Võ Tiến Đẩu chết. Tiến Đẩu có công theo đi Vọng Các, tặng chức Chưởng cơ, cho tiền tuất 300 quan. Lấy Cai cơ Nguyễn Văn Triêm làm Lưu thủ Trấn Biên.

Đô thống chế lãnh Trấn thủ Kinh Bắc là Phan Tấn Huỳnh, Hiệp trấn là Nguyễn Duy Hợp, Tham hiệp là Nguyễn Văn Huỳnh, vì xét hỏi việc hình không đúng, đều bị tội bãi chức. Cho Lưu thủ Phú Yên là Phạm Tiến Tuấn làm Khâm sai chưởng cơ lãnh Trấn thủ Kinh Bắc, Cai án Tiền quân là Thái Văn Minh làm Hiệp trấn, Nguyễn Văn Huỳnh làm Tham hiệp.

Vua nhiều lần đi xem Kinh thành. Nhân dân đem việc đón kêu, lính tiền đạo đuổi đi. Vua nhân dụ quản đội Tiểu sai là Võ Viết Bảo rằng : “Việc ngục tụng đều có nơi phụ trách, thế mà dân phải kêu ca không thôi thì ở trong ắt có duyên cớ, nên nhận cho để biết hết thực hư”.

Hạ lệnh từ nay các dinh trấn đệ dâng án tội nặng thì trước phải do bộ Hình thẩm duyệt, đình thần xét lại, rồi sau mới tâu lên.

Vua đến kho Thọ Khang, triệu Hộ bộ hỏi số thóc gạo xuất nhập. Nguyễn Kỳ Kế lần lượt tâu thưa, nhân đó xin thêm lính kho. Vua y cho.

Cấp tiền gạo cho các biền binh Gia Định nghỉ về quê quán. Vua bảo bầy tôi rằng : “Biền binh Gia Định theo ta chinh chiến, bao năm khó nhọc, nay về quê nghỉ, trong đó hoặc có người không có điền sản thì lấy gì chi dùng cho đủ”. Sai ngay lưu trấn thần phát tiền kho 30.000 quan và 30.000 phương gạo để chia cấp cho. (Chia làm năm hạng : Chánh vệ, chánh chi, mỗi người 7 quan tiền và 7 phương gạo ; phó vệ, phó chi, cai cơ, mỗi người 6 quan tiền, 6 phương gạo ; trưởng hiệu, cai đội, mỗi người 5 quan tiền và 5 phương gạo ; phó đội, tham luận, tri bạ, mỗi người 4 quan tiền và 4 phương gạo, đội trưởng, cai án, cai hợp, thủ hợp và quân nhân, mỗi người 3 quan tiền và 3 phương gạo).

Phó tướng quân Chấn võ là Nguyễn Văn Lợi chết. Lợi có công theo đi Vọng Các, tặng chức Chưởng dinh và cho 500 quan tiền.

Đắp đồn Hà Trung. Vua thấy kho cũ Hà Trung cách sông hơi xa, vận chuyển không tiện, bèn sai giám thành Nguyễn Văn Yên đến xem đất ở gần sông, phái quân dân xây đắp đồn mới, dời dựng kho tàng. Nhà dân nào phải dời đi, mỗi hộ cấp cho 5 phương gạo ; đất ruộng thì trả theo giá ; ruộng đã gieo cấy rồi thì mỗi mẫu cấp cho 7 hộc 20 bát thóc.

Bắc Thành nước to, đê vỡ, lúa ruộng ngập mất, nhà dân bị trôi mất nhiều. Hạ chiếu cho thành thần vận chở tiền gạo chia đi chẩn cấp. Lại sai các trấn thần khám xét phân số lúa ruộng tổn thương để tâu lên.

Lại định điều cấm về thuyền buôn. Phàm thuyền buôn nước ngoài, không được mua riêng vàng bạc, chở trộm tiền đồng. Làm trái thì tang hóa thu hết vào quan, kẻ bán vàng bạc thì bị tội đồ.

Quản cơ cơ Hữu uy là Hồ Văn Hoạch và Phó quản cơ là Hồ Văn Điềm lạm lấy tiền của quân. Việc phát, bị giết.

Tháng 8, sai Lễ bộ định phép thờ cúng ở miếu Lê Thánh Tông (miếu ở xã Phú Xuân, dựng ở buổi quốc sơ), mỗi năm hai tháng trọng mùa xuân mùa thu, sai quan đến tế.

Cấp lương hằng năm cho các thái trưởng công chúa và trưởng công chúa (1. Thái trưởng công chúa là cô vua ; trưởng công chúa là chị em với vua.) theo thứ bậc khác nhau.

Cha Lê Văn Duyệt là Lê Văn Toại vào yết kiến. Vua yên ủi và hỏi thăm : “Duyệt có mấy em?”. Thưa : “Năm em”. Lại hỏi : “Những người ấy có con chưa?”. Thưa : “Em Duyệt là Phong đã có 2 con, đứa lớn tên là Yên, Duyệt nuôi làm con.” Vua bảo : “Con của anh em cũng như con của mình, Duyệt thế là có người kế hậu rồi”. Nhân nói chuyện cũ giờ lâu, ban cho áo khăn rồi cho về.

Chưởng cơ quản vệ Nội trực là Lê Văn Tín chết. Văn Tín có công theo đi Vọng Các, tặng Chưởng dinh.

Vua thấy Quảng Đức ít thóc, hạ lệnh cho các thuyền của quan và dân ở Gia Định tới Kinh đều được chở gạo để bán. Do đó chỗ có chỗ không trao đổi được với nhau, lương thực của dân thêm nhiều.

Định lệ tế tự. Bộ Lễ tâu rằng : “Việc thờ công thần, theo thiên “Bàn canh” sách Thượng thư chép thì cho tòng tự ở lễ Đại chưng, theo sách Châu lễ thiên “Tư huân” thì cũng phối hưởng lễ Đại chưng, đều dùng tháng quý đông. Từ Hán Ngụy trở lên thì phối hưởng ở lễ Đế, dùng tháng mạnh hạ. Từ Đường Tống trở xuống, thì phối hưởng ở lễ Đại cáp, cũng trong tháng quý đông. Đều là tòng tự ở sân miếu, chưa lập miếu, mỗi năm đều tế một lần. Điển lễ nhà Minh thì đã phối hưởng ở miếu, lại lập miếu khác ở núi Kê Minh, đợi khi tế miếu hưởng rồi lại sai quan đến miếu ấy để tế. Đều là tôn đức báo công để khuyến khích những bầy tôi sau này. Nay noi theo lệ trước, cứ bốn tháng quý tế công thần thì đem lẫn cả lịch đại đế vương cùng những người không được dự thờ để tế chung ở đó, như thế thì lễ chưa yên. Xin đều lập miếu riêng để tế. Nay ở Kinh chưa có miếu công thần, hãy tạm dùng đàn Tiên sơn để tế. Còn ở ngoài thì miếu Hiển trung Gia Định, miếu Hà Ra sơn ở Diên Khánh, miếu Bát Giác đường và miếu Thị Nại ở Bình Định, miếu Cù Mông ở Phú Yên, đều lấy ngày canh hai tháng trọng xuân và trọng thu để tế. Lại thiên “Tế pháp” sách Lễ ký chép rằng : “Những người thi pháp lệnh cho dân thì nên thờ, chết vì siêng việc thì nên thờ, khó nhọc để yên nước thì nên thờ, chống được nạn lớn thì nên thờ, ngăn được họa lớn thì nên thờ”. Nay các đền tạp nhạp, hợp với tự điển xưa thì ít, gián hoặc có tục truyền là linh dị thì phương dân tùy xứ lập đền, noi theo đã lâu. Phàm việc tế thì nên chuyên, không nên chia, vì chuyên thì kính, chia thì nhàm. Vậy xin ở Kinh và các nơi lỵ sở dinh trấn, đều lập miếu Hội đồng để hợp thờ những vị trong cõi nên thờ. Cứ đến ngày nhâm hai tháng trọng xuân trọng thu thì sai quan đến tế để tỏ chuyên nhất. Lại việc tế Lệ (1. Lệ : Tế trừ ôn dịch.) gọi là tế Na, dùng tháng quý xuân, tháng trọng thu và tháng quý đông. Tiền Hán thì gọi là tế Bạt trừ, Hậu Hán thì gọi là tế Khế từ, đều dùng ngày mồng 3 tháng 3, ngày mồng 5 tháng 5 và tháng 12 trước Chạp một ngày ; nhà Đường thì gọi là tế Lệ, tế vào ngày Thanh minh tháng 3 mùa xuân, ngày rằm tháng 7 mùa thu và ngày mồng 1 tháng 10 mùa đông, từ Kinh cho đến ngoài đúng ngày đặt tế. Đều là để đuổi ôn dịch, trừ tai ác, mà việc tế thì thưa nhặt không giống nhau. Nay xin châm chước định làm mỗi năm hai lần tế, ở Kinh và ở các dinh trấn, mùa xuân thì lấy tháng 3, mùa đông thì lấy tháng chạp. Đến kỳ tế thì 3 ngày trước dự cáo, đến ngày thì tế. Tế xong thì nổ súng để tống đi”. Vua cho lời tâu là phải. Sai chép làm lệ.

Chưởng cơ quản vệ Thần võ là Nguyễn Văn Kỷ chết. Văn Kỷ có công theo đi Vọng Các, tặng Chưởng dinh.

Miễn dao dịch cho dân ở đạo Côn Lôn thuộc Gia Định, cho lệ thuộc vào tấn thủ Cần Giờ để đi tuần xét.

Sai Bình Định thu thuế đầm nguồn như lệ. Trước là vua thấy Bình Định gặp nạn binh lửa lâu ngày, những nơi đầm nguồn đều cho thu giảm thuế. Vua nói : “Việc thu giảm thuế là do ơn đặc biệt, sao được vin vào đó mà nài xin. Vậy hạ lệnh cứ chiểu lệ mà thu”.

Dân Quảng Nam đói. Sai phát hơn 5.000 phương gạo kho để chẩn cấp.

Lưu trấn thần Gia Định tâu xin đặt thêm thuộc viên để coi việc thu thuế thuyền buôn. Vua nói : “Thuế buôn đã có các dinh thần chuyên giữ, nếu đặt thêm nữa chỉ thêm phiền nhiễu thôi”. Vua không cho.

Lưu trấn thần lại nói : “Ruộng quan điền ở các dinh trước bị Tây Sơn bá chiếm, sau khi quân nhà vua đã lấy lại được Gia Định thì đã đem hết trả dân, mà ngoài chính ngạch tô ruộng, lại thu bội một phần để giúp quân phí. Nay binh cách đã yên, xin miễn số thu ngoại ấy”. Vua cho là phải.

Tha số thuế sắt thiếu cho đạo Kiên Giang.

Vua bàn việc đi Bắc tuần. (Người Thanh đưa thư nói sứ thần ta là bọn Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức đã đến Yên Kinh, vua Thanh sai án sát sứ Quảng Tây là Tề Bố Sâm sang tuyên phong).

Sai Phạm Văn Nhơn, Nguyễn Văn Khiêm và Trần Văn Thái lưu giữ kinh thành, Tống Phước Lương và Nguyễn Vĩnh Thị đem quân thủy bộ tiến trước.

Ngày Bính dần, xa giá từ Kinh sư đi ra. Nguyễn Văn Trương, Lê Chất, Nguyễn Đức Xuyên đều đem quân sở bộ và các quân Thị trung, Thị nội, Túc trực, Thần sách đi theo hầu.

Ngày Canh ngọ đến Quảng Bình.

Châu Bố Chính ngoại đói, sai phát 1.500 phương gạo kho để chẩn cấp.

Ngày Quý dậu, xa giá đến Nghệ An, đóng lại ở hành cung Hà Trung. Trấn thủ Huỳnh Viết Toản và Hiệp trấn Hồ Thế Học vào lạy ra mắt. Vua hỏi thăm dân tình đau khổ thế nào, và sắc rằng dân sở tại sửa đắp đường quan mỗi 15.000 trượng thì cấp cho 10.000 phương gạo, người cung ứng cỏ rơm cho voi ngựa thì mỗi ngày cấp 15 phương gạo ; cầu cống có gãy nát thì dùng quân lính mà sửa chữa, không được động dụng sức dân.

Vua thấy dân Nghệ An đói, sai phát chẩn. Chiếu rằng :

“Trấn các ngươi sau cơn binh lửa, mà gánh vác dao dịch chưa được nghỉ ngơi. Năm nay lại mất mùa, mặt dân xanh như rau cả, lòng trẫm rất thương. Vậy phát gạo kho 35.000 phương gạo để chẩn cấp, tổng trưởng, xã trưởng kẻ nào xén bớt thì xử tội chết”. Lại hoãn thu 5 phần 10 thuế biệt nạp năm nay.

Tha thuế trầm hương năm nay còn thiếu cho dân xã Chi Quan. (Dân xã Chi Quan mỗi người hằng năm phải nộp trầm hương và tốc hương đều một cân. Năm nay thiếu thuế trầm hương hơn 30 cân).

Sắc cho các xã dân từ Nghệ An ra Bắc, ai có việc đau khổ oan khuất gì thì cho đến hành tại tâu bày. Sai văn thần là bọn Nguyễn Viên thu nhận các đơn kêu, tâu lên xin xét đoán. Kẻ nào vu cáo thêu dệt thì bị tội. Cấm bọn điêu hoạt, chặn bọn hào cường. Nơi nào có đặt những danh sắc riêng (như loại thông huyện, thông xứ) đều cấm. Lòng dân vui mừng.

Ngày Bính tuất, trú tại hành cung Nghệ An.

Người huyện Nghi Xuân là Nguyễn Công Trứ điều trần mười việc. Sai bộ Lại duyệt kỹ để tâu.

Ban áo mũ cho bọn Huỳnh Viết Toản, Trịnh Ngọc Trí, Hồ Văn Bôi, Nguyễn Văn Khiêm và Nguyễn Đình Đức.

Sai Thanh Hoa và các trấn Bắc Thành xét lúa ruộng và giá gạo ở sở tại, cứ thực tâu lên.

Tháng 9, sai Bắc Thành chế quân phục cấp cho các quân, chi tiền hơn 26.800 quan.

Cho 600 người quân Nghệ An hộ dẫn thuyền lương ở kênh Sắt. Khi thuyền đến Lãnh Khê, bốc lên 1.000 phương gạo chứa tại đồn Thổ Sơn để cấp cho quân.

Đổi định lại lệ thuế biệt nạp gỗ lim ở Nghệ An. Theo chế độ cũ thì có 24 xã thôn biệt nạp gỗ lim, mỗi năm thu hoành gỗ lim mỗi người một phiến dài 30 thước, đến nay dân cho thuế ấy là nặng xin bớt. Bèn sắc đổi nộp bằng gỗ lim, còn thuế gỗ ván từ trước còn thiếu cũng miễn. (Lệ định lấy 20 người làm một nậu, mỗi năm nộp gỗ lim 23 cây, trong ấy trường 30 thước 2 cây, trường 25 thước và 20 thước mỗi thứ 4 cây, trường 15 thước 6 cây, trường 7 thước 5 cây, trường 5 thước 2 cây. Không đủ 20 người thì lấy 10 người làm một nậu, mỗi năm nộp 10 cây gỗ lim, trong ấy trường 30 thước 1 cây, trường 25 thước và 15 thước mỗi thứ 2 cây, trường 20 thước 4 cây, trường 5 thước 1 cây. Còn 9 người trở xuống thì cứ 2 người mỗi năm nộp 5 cây gỗ lim, đều dài hơn 7 thước, 1 người thì mỗi năm nộp 2 cây gỗ lim, đều dài 7 thước. Có cây nào chưa hợp lệ thì hoặc lấy 4 cây làm 3 cây, lấy 3 cây làm 2 cây, lấy 2 cây làm 1 cây).

Sai Tuyên úy sứ Thái Nguyên là Ma Thế Cố coi thu thuế bạc của người Thanh và người Nùng.

Nước Chân Lạp sai sứ sang cống. Kinh thần tâu lên cho nhà vua hay. Sai các trấn từ Quảng Trị trở ra Bắc, hậu tiếp sứ giả, đưa đến hành tại.

Sai Lê Văn Duyệt rút quân về. Vua cho rằng bọn ác man ở Quảng Ngãi đã trốn vào hang núi, không phải lo nữa, bèn vời Duyệt về lưu thủ Kinh thành, mà ra lệnh chia quân đóng ở những nơi yếu hại để phòng bị.

Triệu bọn Phạm Văn Nhơn, Nguyễn Văn Khiêm và Lê Văn Phong đến hành tại.

Ngày Tân sửu, xa giá đi từ Nghệ An. Ngày ất tỵ, dừng lại ở hành cung Thanh Hoa. Sai Đặng Đức Siêu đến Nguyên miếu làm lễ yết cáo.

Hạ chiếu lấy Gia Miêu ngoại trang làm Quý hương, Tống Sơn làm Quý huyện, cho Nguyễn Hữu Triêm làm Cai đội, Nguyễn Hữu Kỷ làm Đội trưởng coi hai thuyền an và lão và dân lệ thuộc để phụng giữ việc thờ cúng ở Nguyên miếu.

Ban bằng châu thi cho các xã trưởng tổng trưởng huyện Tống Sơn.

Cho dân Bùi Xá 1.000 quan tiền. Bùi Xá là làng cũ của hoàng hậu, nên gia ơn cho số tiền ấy. Người Quảng Xương là Lê Đình Hiệu và Lê Đình Chí dâng thư kín chê bai tệ chính. Vua bảo để đấy. Sắc rằng : “Ai muốn nói việc gì cứ thực trình bày, không được nói phiếm bàn nhảm, tự gây tội lệ”.

Đặt Trợ giáo phủ Phụng Thiên, lấy Cựu huấn đạo Phạm Hữu Khánh cho làm.

Lấy Tham hiệp Yên Quảng là Nguyễn Văn Kim làm Hiệp trấn Tuyên Quang.

Hơn trăm chiếc thuyền của giặc biển Tề Ngôi ra vào ở khoảng Tiên Yên và Vân Đồn, xâm bức bảo Cỗ Dũng, lại vào cả sông Bạch Đằng, cướp bóc địa phương Kinh Môn. Nguyễn Văn Thành sai Chưởng dinh Nguyễn Đình Đắc, Đô thống chế Phan Tấn Huỳnh, Tán lý kiêm Binh bộ Đặng Trần Thường đem quân đánh dẹp.

Vua nghe báo, sai Nguyễn Văn Trương lãnh quân thủy bộ đến cùng Văn Thành điều độ biền binh phái thêm để phòng triệt những đường trọng yếu. Hương cống cũ triều Lê là Bùi Huy Ngọc và Nguyễn Huy Khuê người Yên Quảng họp đem thổ hào ở hai tổng Hà Nam và Hà Bắc đi theo quan binh, đánh chém được 6 đầu giặc, bắt được thiếu úy giặc là tên Vân. Thổ hào ba huyện Kim Thành, Thủy Đường và Giáp Sơn (1. Thủy Đường bây giờ là huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng), Giáp Sơn bây giờ là huyện Kinh Môn (Hải Dương).) thuộc Hải Dương cũng đều họp quân đón đánh, chém được 2 đầu giặc, bắt được hơn 60 người. Thuyền giặc chạy ra biển về phía đông. Văn Thành đem tình trạng tâu lên. Vua cho Huy Ngọc làm Tham hiệp Yên Quảng, Huy Khuê làm Tri huyện Hữu Lũng. Các thổ hào đều được thưởng thụ cai đội, đội trưởng, cai thuộc, ký thuộc, cai tổng, phó tổng khác nhau.

Lấy Chưởng cơ Nguyễn Văn Lân làm Phó thống Trung đồn Tiền quân.

Quảng Nam và Thanh Hoa có sâu keo. Vua nghe báo, sai các quan địa phương khám thực tâu lên.

Cho Điển quân thượng đạo Lưu Phước Tường làm Khâm sai chưởng cơ.

Lấy Phó vệ úy vệ Tả nhất Thị trung dinh Túc trực là Lê Phước Điển làm Vệ úy vệ Ban trực tuyển phong tiền quân Thần sách, Thuộc nội cai đội đội Hoàng kiếm là Trần Phước Trung làm Phó vệ úy, Phó vệ úy vệ Nội trực là Trương Văn Phượng làm Vệ úy vệ Nội trực, Trương Văn Cường làm Phó vệ úy.

Mùa đông, tháng 10, sai các dinh thần từ Quảng Bình về Nam xét hỏi tình hình thóc lúa ở dân gian được mùa mất mùa thế nào để tâu lên.

Ngày Canh ngọ, thuyền ngự phát tự Lương giang (1. Tức sông Chu.), sai Đốc trấn Thanh Hoa là Tôn Thất Chương theo hầu, cho Phó đốc trấn Nguyễn Đức Thành thay lãnh việc trấn. Sai Nguyễn Đức Xuyên đem quân bộ đi trước đến Bắc Thành.

Cho các binh ốm quê ở Thanh Hoa và Nghệ An về quê an dưỡng ; những người quê ở Quảng Bình về Nam thì lưu ở Thanh Hoa điều trị.

Ngày Quý dậu, vua đi chơi núi Dục Thúy (thuộc tỉnh Ninh Bình), xem ngắm hình thế. Sai lấy hai huyện Đại An và Vọng Doanh trấn Sơn Nam hạ lệ vào Thanh Hoa ngoại.

Ngày Đinh sửu, xa giá đến hành cung thành Thăng Long.

Sai Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường kinh lược các trấn ở Bắc Thành, lấy Nguyễn Văn Trương quyền lãnh việc thành.

Hạ lệnh cho quan lại sĩ thứ ở Bắc Thành điều trần về lợi hại của việc đê. Chiếu rằng : “Làm lợi bỏ hại là việc trước tiên của chính trị. Xét xưa sánh nay, phải sao cho đúng lẽ. Những huyện ở ven sông trong địa phương các ngươi từ trước đã lập đê điều để phòng nước lụt. Song nhân tuần đã lâu, hễ đến mùa lụt thì đê điều vỡ lở, lúa ruộng bị ngập, người và súc vật cũng bị hại. Bọn ngươi, người thì sinh ở nơi đó, người thì làm việc ở nơi đó, thế đất tình người đã từng am thuộc. Vậy đắp đê và bỏ đê, cách nào lợi, cách nào hại, cho được tỏ bày ý kiến. Lời nói mà có thể thực hành sẽ được nêu thưởng”.

Diễn trận pháp của các quân. Vua ngự trên lầu cửa đông của thành để xem.

Sai các quan địa phương từ châu Bố Chính ngoại ra Bắc thông sức cho các xã dân biết rằng những nợ riêng từ năm Canh thân trở về trước thì đình chỉ không được đòi hỏi, từ năm Tân dậu đến mùa đông năm nay thì cho hoãn đòi một năm.

Vua đi thăm xã Thanh Khúc (thuộc huyện Thanh Trì), xem đường đê, quan dân đều dâng phong thư, có người nói đắp đê thì lợi, có người nói bỏ đê thì lợi. Vua cho rằng dư luận phân vân, chưa biết thế nào là đúng. Bèn sai Hộ bộ Nguyễn Văn Khiêm đi khắp các đường xem dòng sông uốn khúc, thế nào, nước phân hợp thế nào, vẽ thành đồ bản để dâng.

Hạ lệnh cho Đồ gia nội ngoại liệu để lại 500 người thợ để làm việc, còn thì phóng cho về, vẫn tha cho thuế thân năm nay.

Án  trấn Quy Nhơn là Nguyễn Huỳnh Đức xin kén lính ở Bình Định.

Vua nói : “Bình Định sau khi binh lửa, dân chưa lại hơi, việc kén lính cũng chưa phải cần”. Không cho.

Sai quan Bắc Thành hội chép thành sổ tổng số tiền thóc ở các trấn.

Bọn Nguyễn Thường Hiến từ nước Xiêm trở về. Vua hỏi việc nước Xiêm, bọn Hiếu tâu trình hết. Vua khen.

Sai Chưởng dinh Trương Tấn Bửu và Tham tri Nguyễn Văn Lễ lấy trượng đo từ thành Thăng Long đến cửa Nam Quan xem số dặm đường xa gần thế nào.

Mở cục Đúc tiền Bắc Thành, lấy Cai cơ Nguyễn Văn An làm Giám đốc, Lê Duy Đạt làm phó. Sai những người thợ đúc tiền đều mua sắm đồng riêng dựng lò để đúc, y theo kiểu mẫu đồng tiền mới đúc mà đúc (mỗi lò thu thuế 1 quan). Đúc riêng đúc trộm thì cấm. Đồng tiền làm mỏng mảnh và pha tạp thì có tội.

Vua bảo bầy tôi rằng : “Nay đương đúc tiền mà giá đồng cao vọt là do nhân dân hám lợi vét mua mới nên nỗi thế. Thực muốn cấm đi, nhưng phải nắm được chỗ cốt yếu. Phàm rải đồng ở dưới [ở dân] thì đồng đắt, thu đồng ở trên thì đồng rẻ, đó là lẽ tất nhiên”. Bèn sắc rằng từ nay ai có đồng đỏ hay đồng tạp đều cho đem đến cục Đúc tiền để bán, không được mua bán riêng với nhau. Sai viên giám đốc xem các lò ở cục, ai không có tiền vốn thì cho lãnh tiền công để mua đồng mà đúc, sau khi thành tiền đem nộp thì thu tiền ngoại phụ. (Tiền vốn công 100 quan thì thu tiền ngoại phụ 2 quan).

Binh bộ Nguyễn Đức Thiện chết, tặng Tham chính.

Tháng 11, lấy lính cơ mới kén ở Bắc Thành chia cho lệ theo các trấn để sai phái tuần phòng, còn lính kinh đi thú thì chỉ coi giữ trấn thành thôi.

Đặt miếu phụ cho các miếu lịch đại đế vương, đều lấy xã dân sở tại sung vào : miếu Đinh Tiên Hoàng 40 người (lấy xã Trường Yên thượng, huyện Gia Viễn, trấn Thanh Hoa ngoại), miếu Lê Đại Hành 50 người (xã Trung Lập, huyện Thụy Nguyên, trấn Thanh Hoa), miếu các vua triều Trần 43 người (xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, trấn Sơn Nam hạ), miếu Hùng vương 52 người (xã Hy Sơn, huyện Sơn Vi, trấn Sơn Tây), miếu các vua triều Lý 243 người (xã Đình Bảng, huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc), miếu Thục An Dương Vương 79 người (xã Cổ Loa, huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc), miếu Lê Thái Tổ 56 người (xã Na Lữ, huyện Thạch Lâm, trấn Cao Bằng).

Sai các trấn từ Nghệ An ra Bắc đều xét hình thế trấn lỵ, vẽ đồ bản dâng lên.

Phiên thần các trấn Sơn Tây, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Cao Bằng là bọn Đinh Công Thể, Ma Thế Cố vào bái yết ở hành tại. Vua sai đình thần bàn định cho quan chức theo thứ bậc khác nhau.

Lấy thông ngôn ở dinh La Bích (1. Thuộc nước Cao Miên.) là Huỳnh Văn Linh làm cai đội, theo trấn Gia Định mà thông dịch tiếng Phiên.

Vua nghe tin Xiêm La cùng Miến Điện nổi binh đánh nhau, sai lưu trấn thần Gia Định dò hỏi tình hình để tâu.

Lưu trấn thần Gia Định là bọn Nguyễn Văn Nhơn tâu rằng : “Trị nước thì gốc ở nhân tài, hành chính thì trước lấy giáo hóa. Vừa rồi trời gây đen tối, người ở Gia Định nghiên bút bỏ hoang. Nay non sông dựng lại, đất nước lặng trong, chính là lúc học giả được thành nghiệp. Vậy xin định lại giáo điều, khiến cho học trò có đường tiến tới để đáp lại tấm lòng thánh thượng muốn xếp qua để giảng học”. Vua khen rất phải. (Phép học, mỗi xã chọn một người có đức hạnh văn học, được miễn dao dịch, khiến dạy bảo con em trong ấp. Người từ 8 tuổi trở lên thì vào tiểu học rồi đến học sách Hiếu kinh, Trung kinh ; 12 tuổi trở lên, trước học Luận ngữ, Mạnh Tử, rồi tới Trung dung, Đại học; 15 tuổi trở lên, trước học Thi Thư, sau học Dịch Lễ, Xuân thu, học kèm Chư tử và sử. Ai dám uống rượu đánh bạc và hát xướng thì cáo với quan trừng trị, để răn bảo kẻ lười biếng).

Mạc Công Tài đến bái yết ở hành tại, nhân xin tha dao dịch cho 5 người con cháu của Công Bính. Vua nghĩ đến cha con Thiên Tứ có công với nước y cho.

Ban mũ áo cho Trấn thủ Sơn Nam thượng là Võ Doãn Văn và Thượng bảo khanh là Trần Đình Trưng.

Cấp tiền lương tháng cho những biền binh Thanh Nghệ theo hầu. Các quân có người ốm đau thì sai xuất thuốc của nhà nước để điều trị.

Cho Cai đội Tiền chi tặng Cai cơ là Nguyễn Văn Hiền (cha Nguyễn Văn Thành) 9 người phu mộ, miễn cho dao dịch.

Ngụy đô đốc là Trần Văn An được thư nặc danh, trong thư nói con cháu nhà Lê mưu nổi loạn, sai vợ đem thư ấy đến Lê Duy Hoán đòi lấy tiền chuộc. Duy Hoán trong lòng không yên, đem việc báo cả với Văn Thành. Văn Thành tâu lên. Vua nói : “Đó chắc là tên An tạo ra để dọa người làm tiền, chứ con cháu nhà Lê hẳn không có việc ấy”. Sai bộ Hình bắt An trị tội.

Nước Xiêm La sai bọn Sá Phất Ba Ni đến hiến phương vật. Vua sai các dinh trấn từ Diên Khánh ra Bắc hậu tiếp sứ giả, đưa tới hành tại, rồi cho về.

Vua thấy năm gần hết, sai Tôn Thất Thăng về Kinh làm lễ yết Thái miếu và tôn lăng.

Tháng 12, lấy Cai cơ Cao Khả Cận làm Phó vệ úy vệ Toàn võ quân Thần sách.

Lấy người Thanh là Trịnh Du làm Cai phủ tàu Bắc Thành, coi thu thuế thuyền buôn.

Định ngạch lính lưu thú ở Bình Định và Phú Yên, Bình Định

600 người, Phú Yên 200 người, theo lệ chi cấp lương bổng, còn dư đều cho về nghỉ.

Chiêu Nội ở Trấn Ninh xin nội thuộc. Trước kia vua từ thành Gia Định ra đánh miền Bắc, quốc trưởng nước Vạn Tượng là Chiêu Ấn nhiều lần cho binh theo quan quân ở miền thượng đạo đi đánh giặc. Khi Bắc Hà đã định, vua lấy đất Trấn Ninh ban cho. Đến nay tù trưởng Trấn Ninh là Chiêu Xanh chết, Chiêu Ấn lập người anh họ là Xà Cương thay giữ dân chúng. Con Chiêu Xanh là Chiêu Nội không phục, đem đồ đảng 600 người chạy đến Trà Lân (tức là Tương Dương). Việc ấy báo lên. Vua sai Trấn thần Nghệ An phát hơn 200 phương gạo cấp cho.

Các dinh Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên gạo kém, dinh thần tâu xin lại cấm nấu rượu. Vua nói : “Tế lễ và thuốc thang tất cần có rượu. Nhưng nên hạn chế cho có chừng, chứ không thể bỏ hẳn được”. Bèn hạ lệnh ở hai dinh Quảng Ngãi, Bình Định và ở các huyện lỵ đều đặt một lò, ở dinh Phú Yên đặt một lò, cốt cung cho tế tự và thuốc thang, thuế rượu đều miễn. Người dân mà nấu riêng bán riêng thì bị tội.

Thuyền buôn của người Xiêm là Ngô Mân Quan bị bão, đậu vào cửa biển Cù Mông. Trấn thần Phú Yên báo lên.

Vua sắc rằng : “Từ nay người buôn Xiêm bị nạn thì số gạo nhà nước bán chiếu theo nhân khẩu, vừa đủ thì thôi, không được bán nhiều. Thuyền có hàng hóa cũng đánh thuế”.

Định lệ lương bổng cho quan và quân ở Bắc Thành. (Binh bộ, Hộ bộ, Hình bộ ở Bắc Thành lương tháng mỗi người đều tiền 30 quan, gạo 20 phương, Tham tri tiền 30 quan, gạo 10 phương, Thiêm sự tiền 6 quan, gạo 6 phương, Trấn thủ, Hiệp trấn các trấn và án phủ phủ Phụng Thiên, mỗi tháng tiền 10 quan, gạo 10 phương, Tham hiệp tiền 8 quan, gạo 8 phương, Tuyên phủ tiền 7 quan, gạo 7 phương. Đô thống chế các quân trở xuống, hàn lâm, cống sĩ, các cai quan ty quan tượng cục, chia làm 5 hạng : những người làm việc từ năm Mậu thân, Kỷ dậu, Canh tuất, Tân hợi làm hạng nhất, từ năm Nhâm tý, Quý sửu, Giáp dần làm hạng nhì, từ năm ất mão, Bính thìn, Đinh tỵ làm hạng ba, từ năm Mậu ngọ, Kỷ mùi, Canh thân làm hạng tư, từ năm Tân dậu, Nhâm tuất, Quý hợi làm hạng năm. Đô thống chế và phó tướng lương tháng hạng nhất, đều tiền 30 quan 4 tiền, gạo 20 phương 12 bát, hạng nhì đều tiền 30 quan 3 tiền, gạo 20 phương 9 bát,  hạng ba đều tiền 30 quan 2 tiền, gạo 20 phương 6 bát, hạng tư đều tiền 30 quan 1 tiền, gạo 20 phương 3 bát, hạng năm đều tiền 30 quan, gạo 20 phương. Phó đô thống chế lương tháng hạng nhất đều tiền 20 quan 4 tiền, gạo 15 phương 12 bát, hạng nhì tiền 20 quan 3 tiền, gạo 15 phương 9 bát, hạng ba tiền 20 quan 2 tiền, gạo 15 phương 6 bát, hạng tư tiền 20 quan 1 tiền, gạo 15 phương 3 bát, hạng năm tiền 20 quan, gạo

15 phương. Chánh thống đồn và chánh quản mười cơ lương tháng hạng nhất tiền 13 quan 3 tiền, gạo 10 phương 9 bát, hạng nhì tiền 13 quan 2 tiền, gạo 10 phương 6 bát, hạng ba tiền 13 quan 1 tiền, gạo 10 phương 3 bát, hạng tư tiền 13 quan, gạo 10 phương, hạng năm tiền 10 quan, gạo 5 phương. Phó  thống đồn, phó quản mười cơ, chánh quản các tượng cơ, chánh quản Tứ dực cơ lương tháng hạng nhất tiền 10 quan 2 tiền, gạo 7 phương 6 bát, hạng nhì tiền 10 quan 1 tiền 20 đồng, gạo 7 phương 4 bát, hạng ba tiền 10 quan 40 đồng, gạo 7 phương 2 bát, hạng tư tiền 10 quan, gạo 7 phương, hạng năm tiền 8 quan, gạo 3 phương. Chánh vệ úy khâm sai thuộc nội cai đội quản Bắc Thành Đồ gia và quản các đội Uy chấn, lương tháng hạng nhất tiền 10 quan 2 tiền, gạo 7 phương 6 bát, hạng nhì tiền 10 quan 1 tiền 20 đồng, gạo 7 phương 4 bát, hạng ba tiền 10 quan 40 đồng, gạo 7 phương 2 bát, hạng tư tiền 10 quan, gạo 7 phương, hạng năm tiền 8 quan, gạo 3 phương. Chánh vệ úy khâm sai thuộc nội cai cơ, quản đồ gia Bắc Thành và các đội quản uy chấn, lương tháng hạng nhất tiền 10 quan 2 tiền, gạo 7 phương 6 bát, hạng hai tiền 10 quan 1 tiền 20 đồng, gạo 7 phương 4 bát, hạng ba, tiền 10 quan 40 đồng, gạo 7 phương 2 bát, hạng tư tiền 10 quan, gạo 7 phương, hạng năm tiền 8 quan, gạo 4 phương. Phó vệ úy lương tháng hạng nhất tiền 8 quan 2 tiền, gạo 5 phương 6 bát, hạng nhì tiền 8 quan 1 tiền 20 đồng, gạo 5 phương 4 bát, hạng ba tiền 8 quan 40 đồng, gạo

5 phương 2 bát, hạng tư tiền 8 quan, gạo 5 phương, hạng năm tiền 5 quan, gạo 2 phương. Chánh trưởng chi, chánh quản cơ, phó quản Tứ dực có lương tháng hạng nhất tiền 8 quan 2 tiền, gạo 5 phương 6 bát, hạng nhì tiền 8 quan 1 tiền 20 đồng, gạo 5 phương 4 bát, hạng ba tiền 8 quan 40 đồng, gạo 5 phương 2 bát, hạng tư tiền 8 quan, gạo 5 phương, hạng năm tiền 7 quan, gạo 4 phương. Tham quân lương tháng hạng nhất tiền 8 quan 1 tiền 30 đồng, gạo 3 phương 3 bát, hạng nhì tiền 8 quan 1 tiền, gạo 3 phương 2 bát, hạng ba tiền 8 quan 30 đồng, gạo 3 phương 1 bát, hạng tư tiền 8 quan, gạo 3 phương, hạng năm tiền 5 quan, gạo 2 phương. Phó trưởng chi, phó quản cơ lương tháng hạng nhất tiền 5 quan 2 tiền, gạo 3 phương 6 bát, hạng nhì tiền 5 quan 1 tiền 20 đồng, gạo 3 phương 4 bát, hạng ba tiền 5 quan 40 đồng, gạo 3 phương 2 bát, hạng tư tiền 5 quan, gạo 3 phương, hạng năm tiền 4 quan, gạo 3 phương. Tham mưu lương tháng hạng nhất tiền 5 quan 1 tiền 30 đồng, gạo 2 phương 3 bát, hạng nhì tiền 5 quan 1 tiền, gạo 2 phương 2 bát, hạng ba tiền 5 quan 30 đồng, gạo 2 phương 1 bát, hạng tư tiền 5 quan, gạo 2 phương, hạng năm tiền 4 quan, gạo 2 phương. Trưởng hiệu lương tháng hạng nhất tiền 4 quan 1 tiền 30 đồng, gạo 3 phương 3 bát, hạng nhì tiền 4 quan 1 tiền, gạo 3 phương 2 bát, hạng ba tiền 4 quan 30 đồng, gạo 3 phương 1 bát, hạng tư tiền 4 quan, gạo 3 phương, hạng năm tiền 3 quan, gạo 2 phương. Cai cơ, cai đội, suất đội lương tháng hạng nhất tiền 4 quan 1 tiền 30 đồng, gạo 3 phương 3 bát, hạng nhì tiền 4 quan 1 tiền, gạo 3 phương 2 bát, hạng ba tiền 4 quan 30 đồng, gạo 3 phương 1 bát, hạng tư tiền 4 quan, gạo 3 phương, hạng năm tiền 2 quan, gạo 2 phương. Tham luận lương tháng hạng nhất tiền 4 quan 1 tiền 30 đồng, gạo 2 phương 3 bát, hạng nhì tiền 4 quan 1 tiền, gạo 2 phương 2 bát, hạng ba tiền 4 quan 30 đồng, gạo 2 phương 1 bát, hạng tư tiền 4 quan, gạo 2 phương, hạng năm tiền 2 quan, gạo 2 phương. Cai đội, phó đội, chánh đội trưởng, phó suất đội lương tháng hạng nhất tiền 3 quan 1 tiền 30 đồng, gạo 2 phương 18 bát, hạng nhì tiền 3 quan 1 tiền, gạo

2 phương 17 bát, hạng ba tiền 3 quan 30 đồng, gạo 2 phương 16 bát, hạng tư tiền 3 quan, gạo 2 phương 15 bát, hạng năm tiền 1 quan, gạo 1 phương. Về thuộc binh, chánh vệ lương tháng hạng nhất tiền 5 quan 2 tiền, gạo

3 phương 4 bát, hạng nhì tiền 5 quan 1 tiền 30 đồng, gạo 3 phương 3 bát, hạng ba tiền 5 quan 1 tiền, gạo 3 phương 2 bát, hạng tư tiền 5 quan

30 đồng, gạo 3 phương 1 bát, hạng năm tiền 5 quan, gạo 3 phương. Phó vệ lương tháng hạng nhất tiền 4 quan 1 tiền 30 đồng, gạo 2 phương 3 bát, hạng nhì 4 quan 1 tiền, gạo 2 phương 2 bát, hạng ba tiền 4 quan 30 đồng, gạo 2 phương 1 bát, hạng tư tiền 4 quan, gạo 2 phương, hạng năm tiền

3 quan, gạo 2 phương. Cai cơ, cai đội về thuộc binh lạc tòng, lương tháng hạng nhất tiền 3 quan 1 tiền 30 đồng, gạo 2 phương 3 bát, hạng nhì tiền

3 quan 1 tiền, gạo 2 phương 2 bát, hạng ba tiền 3 quan 30 đồng, gạo

2 phương 1 bát, hạng tư tiền 3 quan, gạo 2 phương, hạng năm tiền 2 quan, gạo 2 phương. Phó đội, chánh đội trưởng lương tháng hạng nhất tiền 2 quan 6 tiền 30 đồng, gạo 2 phương 3 bát, hạng nhì 2 quan 6 tiền, gạo 2 phương

2 bát, hạng ba tiền 2 quan 5 tiền 30 đồng, gạo 2 phương 1 bát, hạng tư tiền 2 quan 5 tiền, gạo 2 phương, hạng năm tiền 1 quan, gạo 1 phương. Thư ký, tri bạ, cai án, câu kê, cai hợp, thủ hợp cùng lương y, tượng ty, lương tháng hạng nhất tiền 2 quan 1 tiền 30 đồng, gạo 2 phương 3 bát, hạng nhì tiền

2 quan 1 tiền, gạo 2 phương 2 bát, hạng ba tiền 2 quan 30 đồng, gạo

2 phương 1 bát, hạng tư tiền 2 quan, gạo 2 phương, hạng năm tiền 1 quan, gạo 1 phương. Tham luận về thuộc binh lạc tòng lương tháng hạng nhất tiền 2 quan 1 tiền 30 đồng, gạo 2 phương 3 bát, hạng nhì tiền 2 quan 1 tiền, gạo 2 phương 2 bát, hạng ba tiền 2 quan 30 đồng, gạo 2 phương 1 bát, hạng tư tiền 2 quan, gạo 2 phương hạng năm tiền 1 quan 5 tiền, gạo 1 phương

15 bát. Thư ký, tri bạ, cai án, câu kê, cai hợp, thủ hợp về thuộc binh lạc tòng, lương tháng hạng nhất tiền 1 quan 2 tiền, gạo 1 phương 4 bát, hạng nhì tiền 1 quan 1 tiền 30 đồng, gạo 1 phương 3 bát, hạng ba tiền 1 quan

1 tiền, gạo 1 phương 2 bát, hạng tư tiền 1 quan 30 đồng, gạo 1 phương

1 bát, hạng năm tiền 1 quan, gạo 1 phương. Hàn lâm viện, lương tháng hạng nhất tiền 4 quan, gạo 3 phương, hạng nhì tiền 3 quan 5 tiền, gạo

2 phương 18 bát, hạng ba tiền 3 quan, gạo 2 phương 7 bát, hạng tư tiền

2 quan 5 tiền, gạo 1 phương 20 bát, hạng năm tiền 2 quan, gạo 1 phương

16 bát. Cống sĩ viên, lương tháng hạng nhất tiền 3 quan, gạo 2 phương

15 bát, hạng nhì tiền 2 quan 7 tiền 30 đồng, gạo 2 phương 7 bát, hạng ba tiền 2 quan 5 tiền, gạo 2 phương, hạng tư tiền 2 quan 2 tiền 30 đồng, gạo

1 phương 22 bát, hạng năm tiền 2 quan, gạo 1 phương 15 bát. Cai quan ở tượng cục, lương tháng hạng nhất tiền 1 quan 6 tiền 30 đồng, gạo 1 phương 18 bát, hạng nhì tiền 1 quan 6 tiền, gạo 1 phương 17 bát, hạng ba tiền

1 quan 5 tiền 30 đồng, gạo 1 phương 16 bát, hạng tư tiền 1 quan 5 tiền, gạo 1 phương 15 bát, hạng năm tiền 1 quan, gạo 1 phương. Ty quan, lương tháng hạng nhất tiền 1 quan 2 tiền, gạo 1 phương 4 bát, hạng nhì tiền

1 quan 1 tiền 30 đồng, gạo 1 phương 3 bát, hạng ba tiền 1 quan 1 tiền, gạo

1 phương 2 bát, hạng tư tiền 1 quan 30 đồng, gạo 1 phương 1 bát, hạng năm tiền 1 quan, gạo 1 phương. Đội trưởng, biện lại các quân và quân thuộc binh lạc tòng với binh lính thì chia làm ba hạng : những người làm việc từ năm Mậu thân đến năm Giáp dần là hạng nhất, từ năm ất mão đến Canh thân là hạng nhì, từ Tân dậu đến Quý hợi là hạng ba. Đội trưởng, biện lại các quân và binh lính lương tháng hạng nhất tiền 2 quan, gạo 2 phương, hạng nhì tiền 1 quan 5 tiền, gạo 1 phương 15 bát, hạng ba tiền 1 quan, gạo 1 phương. Đội trưởng thuộc binh lạc tòng và binh lính, lương tháng hạng nhất tiền 2 quan, gạo 1 phương 15 bát, hạng nhì tiền 1 quan 5 tiền, gạo 1 phương 7 bát, hạng ba tiền 1 quan, gạo 1 phương. Về Xiêm binh cai đội và thống binh trở xuống chia làm mới cũ 2 hạng : từ năm Canh thân trở về trước là hạng cũ, từ năm Tân dậu trở về sau là hạng mới. Hạng cũ cai đội lương tháng tiền 3 quan, gạo 3 phương, phó đội tiền 2 quan, gạo 2 phương, binh lính tiền 1 quan 5 tiền, gạo 1 phương 15 bát. Hạng mới thống binh lương tháng tiền 2 quan, gạo 2 phương, cai đội tiền 1 quan 5 tiền, gạo 1 phương 15 bát, phó đội và binh lính đều tiền 1 quan, gạo 1 phương. Thuộc kiên quân và tượng quân thì tiểu mục, thuộc binh, lương tháng đều mỗi người gạo 1 phương. Lính kho mỗi tháng cấp gạo 15 bát).

Sai đội Tiểu sai mang phương vật về Kinh dâng tiến Từ cung.

Lấy Thị nội tham luận Bùi Công Kim, Hàn lâm viện viện trưởng Nguyễn Cư Tuấn (con Lại bộ Nguyễn Cư Trinh), Hàn lâm viện chế cáo Nguyễn Thừa Thân (con tham mưu Nguyễn Thừa Mân) và Hoàng Tử Cao, Hàn lâm viện Đặng Văn Ân và Trần Công Hòa làm Thiêm sự để tham bồi công việc các tào Hộ, Binh và Hình ở Bắc Thành.

Sửa đền Hiển trung ở Gia Định.

Bọn Lê Quang Định từ nước Thanh về. Vua hỏi thăm công việc đi sứ, thắm thiết ủy lạo. Bèn đem công việc làm biểu tâu Từ cung và chiếu dụ cho các đại thần lưu Kinh biết.

Sai chế mũ võ tú tài ban cấp cho đội Tiểu hầu.

Lấy Lê Văn Vạn làm Lưu thủ Phú Yên.

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển XXIII – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Giáp tý, Gia Long năm thứ 3 [1804] (Thanh Gia Khánh năm thứ 9), mùa xuân, tháng giêng, vua ở hành cung thành Thăng Long.

Sứ nhà Thanh là án sát Quảng Tây Tề Bố Sâm đến cửa Nam Quan. Trước là người Thanh bị Nguyễn Văn Huệ đánh thua, vẫn sợ thế giặc Tây Sơn là mạnh. Kịp khi nghe quân ta dẹp giặc, đánh đâu được đấy, lấy làm kinh dị. Mùa hạ năm Nhâm tuất, vua sai bọn Trịnh Hoài Đức vượt biển sang thăm, đưa những sắc ấn nhà Thanh phong cho Tây Sơn mà ta bắt được, lại xin nghiêm phòng biên giới để triệt đường giặc chạy. Vua Thanh bèn sai Tổng đốc Lưỡng Quảng đóng giữ địa đầu để nghiêm phòng bị. Thế là Tây Sơn không còn đất trốn, đem đầu chịu giết. Khi việc xong, vua lại sai bọn Lê Quang Định sang xin phong và xin đổi quốc hiệu, trong thư lược nói : “Các đời trước mở mang cõi viêm bang, mỗi ngày một rộng, bao gồm cả các nước Việt Thường, Chân Lạp, dựng quốc hiệu là Nam Việt, truyền nối hơn 200 năm. Nay đã quét sạch miền Nam, vỗ yên được toàn cõi Việt, nên khôi phục hiệu cũ để chính danh tốt”. Vua Thanh trước cho rằng chữ Nam Việt giống chữ Đông Tây Việt nên không muốn cho. Vua hai ba lần phục thư để biện giải, lại nói nếu vua Thanh không cho thì không chịu phong. Vua Thanh sợ mất lòng nước ta, mới dùng chữ Việt Nam để đặt tên nước, gửi thư lại nói: “Khi trước mới có Việt Thường đã xưng Nam Việt, nay lại được toàn cõi An Nam, theo tên mà xét thực thì nên tóm cả đất đai mở mang trước sau, đặt cho tên tốt, định lấy chữ Việt mào ở trên để tỏ rằng nước ta nhân đất cũ mà nối được tiếng thơm đời trước, lấy chữ Nam đặt ở dưới để tỏ rằng nước ta mở cõi Nam giao mà chịu mệnh mới, tên xưng chính đại, chữ nghĩa tốt lành, mà đối với tên gọi cũ của Lưỡng Việt ở nội địa [Trung Quốc] lại phân biệt hẳn”. Đến đây vua Thanh sai Bố Sâm đem cáo sắc và quốc ấn đến phong, lại cho gấm đoạn và đồ khí mãnh. (Lệ bang giao cũ tặng đoạn mãng (1. Mãng đoạn : Đoạn thêu rồng bốn móng.) 8 tấm, đoạn mỡ 8 tấm, đạo gấm 8 tấm, nhung dài lông 8 tấm, đoạn bóng 8 tấm, đoạn tơ 27 tấm, trừu mùa xuân 27 tấm. Đến nay lại thêm đoạn mãng, đoạn mỡ, đoạn bóng mỗi thứ 4 tấm, đồ sứ 4 cái, hộp quả đào sơn 4 cái, điếu sứ hút thuốc 4 cái, quả trầu sơn khảm ốc 2 cái, lá chè 4 bình).

Vua nghe tin báo, sai Chưởng dinh Trương Tấn Bửu, Binh bộ Đặng Trần Thường, Tham tri Binh bộ Nguyễn Văn Lễ, sung làm hậu mệnh sứ ở cửa quan, Phó tướng quân Thần võ Trần Quang Thái, Hình bộ Phạm Như Đăng, Tham tri Hộ bộ Lê Viết Nghĩa, sung làm hậu tiếp sứ ở địa đầu Kinh Bắc, Đô thống chế Phan Tấn Huỳnh, Tham tri Hình bộ Nguyễn Đăng Hựu, sung làm hậu tiếp sứ ở Công quán Gia Quất. Lại phái 3.500 biền binh và 30 thớt voi theo hậu mệnh sứ ở cửa quan để nghinh tiếp, 1.000 biền binh theo hậu tiếp sứ đến địa đầu Kinh Bắc đứng chờ. Lại sai đình thần chọn người chia đi trực ở các quán trạm. (Sáu trạm Mai Pha, Nhơn Lý, Hòa Lạc, Cần Dinh, Mỹ Cầu, Cầu Lim mỗi trạm đặt đổng cán 2 người, dùng quản cơ, thù phụng 2 người, biện lý 2 người, đều dùng tri phủ, tri huyện, thư ký 2 người, dùng cai hợp, thủ hợp; công quán Gia Quất thì đổng cán 4 người ; nhà tiếp sứ ở bến sông thì đổng cán 2 người, thù phụng 2 người).

Ngày Quý mão, làm đại lễ bang giao. Hôm ấy sáng sớm, đặt lỗ bộ đại giá ở sân điện Kính Thiên đến cửa Châu tước, ngoài cửa đến bến sông Nhị Hà thì bày nghi vệ binh tượng ; sai thân thần Tôn Thất Chương đến công quán Gia Quất, Đô thống chế Phan Văn Triệu, Hộ bộ Nguyễn Văn Khiêm, Tham tri Hộ bộ Nguyễn Đình Đức đến nhà tiếp sứ ở bến sông để nghinh tiếp.

Vua ngự ở cửa Châu tước, hoàng thân và trăm quan theo hầu. Sứ giả nhà Thanh đến, vào điện Kính Thiên làm lễ tuyên phong. Chưởng Tiền quân Nguyễn Văn Thành sung việc thụ sắc, chưởng Thần võ quân Phạm Văn Nhơn sung việc thụ ấn. Lễ xong, mời Bố Sâm đến điện Cần Chánh, thong thả mời trà rồi lui. Bèn đặt yến ở công quán Gia Quất, tặng biếu phẩm vật. Bố Sâm nhận lấy the, lụa, vải, sừng tê, kỳ nam, còn dư đều trả lại, lại tiến mừng phương vật. Vua sai thu nhận một vài thứ để yên lòng. Bố Sâm từ về. Vua sai Tôn Thất Chương đưa đi một trạm và quan hậu mệnh hộ tống ra cửa ải.

Lấy Lê Bá Phẩm làm Tham tri Hình bộ sung chánh sứ sang Thanh, Trần Minh Nghĩa và Nguyễn Đăng Đệ sung Giáp ất phó sứ, đem phẩm vật sang tạ (vàng tốt 200 lạng, bạc 1.000 lạng, lụa the đều 100 tấm, sừng tê 2 tòa, ngà voi và nhục quế đều 100 cân). Lại dâng hai lễ cống năm Quý hợi và năm ất sửu (ngà voi 2 cặp, sừng tê 4 tòa, trừu, the, lụa, vải đều 200 tấm, trầm hương 600 lạng, tốc hương 1.200 lạng, sa nhân, cau khô đều 90 cân). Theo lệ bang giao cũ, cứ 2 năm thì cống một lần, 4 năm một lần sai sứ dâng hai lễ cống. Trước ta gửi thư sang Thanh, người Thanh đưa thư trả lời nói việc tuế cống lấy năm Quý hợi bắt đầu lễ cống hai năm Quý hợi và ất sửu đều cho sứ giả tạ ân cùng dâng, cho nên sai bọn Lê Bá Phẩm kiêm cả.

Lấy Chưởng cơ Ngô Văn Vĩnh làm Chánh quản mười cơ Ngũ uy và Ngũ thắng thuộc Hậu quân, Trần Văn Thìn làm Chánh quản mười cơ Ngũ hùng và Ngũ dũng thuộc quân Thần võ.

Trấn thủ Cao Bằng là Lê Văn Tấn và Hiệp trấn là Lê Văn Chính có tội bị bãi ; lấy Trấn thủ Yên Quảng là Nguyễn Hữu Đạo là Trấn thủ Cao Bằng, Hàn lâm viện Nguyễn Văn Huỳnh làm Hiệp trấn, Phó quản mười cơ Hậu quân là Lê Văn Vịnh làm Trấn thủ Yên Quảng.

Trấn Hưng Hóa bị cháy, lan đến kho công, mất hơn 900 quan tiền và hơn 700 hộc thóc. Thành thần đem việc tâu lên. Vua hỏi : “Có hại người không ?” Đáp rằng không. Đặc biệt tha tội cho.

Nguyễn Văn Thành tâu rằng : “Năm ngoái giặc biển nổi dậy, binh kinh đi hội tiễu, Lê Chất lấy việc ấy ngạo thần, nói nhiều lời láo xược, Nguyễn Văn Trương từng nói lại với thần”. Vua cho triệu hai người đến hỏi. Hai người đều nói là không.

Vua hỏi Văn Thành: “Ngươi có từng uống rượu với Văn Trương không?”. Đáp rằng có. Vua khuyên giải rằng : “Đó là Văn Trương say rượu nói thế. Ngươi vì rượu mà lầm người, Văn Trương lại vì rượu mà tự lầm, tội là ở các ngươi, Chất có lỗi gì đâu”. Ba người đều lạy tạ.

Lấy Ký lục Nguyễn Duy Hòa làm Tham tri Hình bộ, biện lý công việc tào Hình ở Bắc Thành.

Cho Lê Duy Hoán 200 quan tiền. Duy Hoán có tang bác, đặc biệt cho số tiền ấy.

Vua bàn việc hồi loan. Sai Lê Chất và Đô thống chế các dinh Thần sách đều đem quân sở bộ đi trước.

Triệu Nguyễn Văn Thành bảo về việc kinh lý công việc ở thành.

Ngày Tân hợi, xa giá phát tự thành Thăng Long.

Hoãn thu tô thuế năm nay cho trấn Sơn Nam thượng. Năm ngoái nước lụt lúa mất, trấn thần nhân xin cho hoãn thu. Vua y cho.

Lấy Lê Chính Hòa sung Thị thư viện.

Lại cho hai huyện Đại An và Vọng Doanh lệ vào trấn Sơn Nam hạ.

Trấn thần Thanh Hoa ngoại là Ngô Văn Sở tâu nói : “Hai xã Vũ Lao và Chân Lộc (đều thuộc huyện Lạc Thổ) trước không có thuế diêm tiêu, giặc Tây Sơn thu diêm tiêu không phải là thổ sản, dân bị khổ sở”. Vua sai bỏ đi.

Ngày ất mão, xa giá đến Thanh Hoa. Vua yết Nguyên miếu.

Hạ chiếu sửa lại sổ điền các trấn Bắc Hà. Chiếu rằng : “Ruộng lấy sổ làm căn cứ ; thuế lấy ruộng làm sai đẳng. Sổ không định thì thuế không đều, đó không phải là ý của tiên vương phân biệt ruộng đất để định phú thuế. Vậy hạ lệnh phàm ruộng của dân, ruộng chiêm ruộng mùa, số mẫu, sào, thước, tấc, tọa lạc nơi nào, đều đem thực số biên vào sổ”.

Định lệ tiền chi phí cho các kho ở Kinh và ở ngoài. (Về đinh số : mỗi người phải nộp tiền đầu quan là 1 tiền, trong đó có lính coi kho ở Kinh và ở dinh trấn để chi tiền dầu đèn và tiền lòi mây mỗi thứ 1 đồng, tiền sổ và giấy 3 đồng, còn dư 55 đồng thì nộp vào kho. Về điền mẫu : mỗi mẫu nộp tiền tạp vật 1 tiền, cho lính coi kho ở dinh trấn để chi về tiền thẻ tre 1 đồng, tiền dầu đèn và lòi mây nửa đồng, cho lính kho ở Kinh chi tiền dầu đèn và lòi mây nửa đồng, tiền sổ và giấy nửa đồng, còn dư 57 đồng rưỡi thì nộp vào kho).

Nguyễn Văn Thành tâu rằng : “Những tướng hiệu Tiền quân theo đi thú ở Bắc Thành mà có con em ở Gia Định thì xin cho miễn binh dao”. Vua y cho.

Tha thuế đúc tiền cho Bắc Thành. Trước kia mở cục đúc tiền, những thợ đúc đều được dùng đồng riêng để đúc mà nộp thuế cho nhà nước. Vua nghĩ đúc tiền cốt để nhà nước tiêu dùng cho dồi dào, hạ lệnh cho Hộ bộ thu lấy những tiền kiểu mới của thợ đúc để nộp vào kho, phát tiền cũ trả lại cho và tha thuế.

Định điều lệ hương đảng cho các xã dân ở Bắc Hà. Chiếu rằng : “Nước là họp các làng mà thành. Từ làng mà đến nước, dạy dân nên tục, vương chính lấy làng làm trước. Gần đây giáo dục trễ nải, chính trị suy đồi, làng không tục hay, noi theo đã lâu, đắm chìm quá đỗi. Phàm tiết ăn uống, lễ cưới xin, việc ma chay và thờ thần thờ phật, nhiều việc quá trớn lấn lễ ; bọn hào mục nhân đó mà đục khoét, người cùng dân đến nỗi dạt xiêu, thực là bởi cớ ấy. Nay tham chước thêm bớt, xén chỗ quá đáng, để chỗ vừa phải, lập định lệ cho hương đảng, là muốn sửa đổi nguồn tệ để cùng về đường chính vậy”.

1. Về tiết ăn uống. Đời sống hằng ngày của dân rất là cần thiết. Sách Kinh nói : “Dân mà thất đức là bởi cho ăn cơm nguội”. Sách Truyện nói : “Người tham ăn uống thì ai cũng khinh”. Đều là răn cái hại về ăn uống. Gần đây có kẻ mượn cớ việc làng, họp nhau chè chén, tiêu phí một bữa ít là 3, 4 quan, nhiều là hơn 10 quan, nếu đóng góp chưa kịp thì bắt xã trưởng thôn trưởng vay nợ cầm áo mà ứng biện, để đến kỳ thu thuế thì vượt lệ bội thu mà bù vào phí trước, trên thì quy oán cho quan ty, dưới thì bóc lột của dân nghèo. Từ nay về sau, xã dân như có việc công đáng phải họp bàn thì chỉ dùng trầu cau làm lễ, rượu thịt đều cấm. Lại như chuông trống là hiệu lệnh của nhà binh, mà dân gian lấn dùng, khiến tai nghe hỗn loạn. Từ nay về sau phàm có việc gì hoãn cấp hội họp thì cho đánh mõ làm hiệu, không được đánh trống như cũ.

2. Về lễ vui mừng. Khi có người dự trúng khoa trường, hay được ban sắc mệnh, người làng vin tục lệ, đòi thết đãi, cỗ bàn ăn uống mấy phen, sau trước theo nhau, gọi là nợ miệng. Đền xong khoán lệ của làng thì mất hết gia tài, làm ăn đến phải lụn bại. Từ nay về sau, các lễ vui mừng, việc lớn cho dùng xôi lợn, không có thì nộp thay 3 quan tiền, việc nhỏ thì dùng xôi gà, không có thì nộp thay 1 quan 6 tiền. Đến như hương trưởng xử đoán việc làng, cốt ở công bằng hợp lý, lầm lỗi thì khuyên nhau, khiến cho trong nhà ngoài làng, đúc nên thói tốt. Gần đây có kẻ vin vào lệ làng, bới lông tìm vết, bắt phạt không nghe thì đem giam cầm, thực không phải là thương xót yêu nhau. Từ nay về sau dân làng như có lỗi nhỏ thì cho xã dân chiếu lẽ mà tỏ bảo phải trái, người trái thì nộp phạt trầu rượu, nếu không phục tình thì cho cáo ở quan tư sở tại, không được vũ đoán trong làng.

3. Về lễ giá thú. Phong hóa loài người bắt đầu gây nên từ đó. Sách Kinh nói : “Hôn lễ là mối đầu của đạo người”. Văn Trung Tử nói : “Giá thú mà bàn của cải là thói của rợ mọi”. Đại phàm lấy vợ lấy chồng, chẳng qua cốt được cặp đôi mà thôi, còn lễ cưới thì nên châm chước trong sáu lễ, lượng tùy nhà có hay không, chứ không được viết khế cố ruộng. Hương trưởng thu tiền cheo trong lễ cưới thì người giàu 1 quan 2 tiền, người vừa thì

6 tiền, người nghèo 3 tiền, người làng khác thì gấp đôi. Nếu có kẻ cẩu hợp chửa hoang thì phạt người gian phụ 30 quan và cha anh 3 quan để giữ phong hóa.

4. Về việc tang tế. Đó là đạo thường của người làm con, nhớ gốc tìm nguồn, ai cũng một lòng như thế, lòng đều một lẽ như thế, nên phải thương nhau giúp nhau. Sách Kinh nói : “Phàm người có tang ta nên khúm núm giúp đỡ”. Sách Truyện nói : “Việc lễ xa phí quá, thà tiết kiệm thì hơn. Việc tang bày đặt quá, thà tỏ niềm thương xót thì hơn”. Đó đều là nói việc tang việc tế phải làm theo lễ. Gần đây dân làng có người đặt ra khoán lệ quá nặng, nhà người có tang ăn uống kể đến mấy lần, cỗ bàn phải có nhiều món, danh là báo hiếu, thực là nợ miệng, noi nhau thành thói, người giàu thì lấn lễ vượt phận để phô mẽ với người ta, người nghèo thì vay nợ đợ mình đến nỗi thất sở, việc tang tế thương nhau lại như thế sao ? Từ nay dân làng có tang thì làng xóm giúp nhau, nên nghĩ rằng : “một nhà có việc trăm nhà bận”, đừng bắt “một người chết mà muôn người say”. Kẻ giàu thì giúp của, kẻ túng thì giúp sức, kẻ biết lẽ thì trông đỡ việc tang. Tế táng điếu phúng, hết thảy theo như Gia lễ của Châu Văn Công, khiến kẻ giàu biết có phận hạn, không quá xa hoa, kẻ nghèo tùy lực có không, không gắng theo tục ; còn cỗ bàn ăn uống nhiều ít thì tùy ở nhà tang, không được vin lệ đòi hỏi. Đến như chọn đất chôn cất là việc quan trọng trong sự báo hiếu của người làm con, làm bền quan quách, để ấm đất đai, là trước sau đều cẩn thận, mồ mả cho yên người chết, há nên coi thường ? Nhưng chẳng qua chọn lấy nơi cao ráo, lánh năm mối lo là những nơi đầu non, đuôi nước, chùa miếu, binh lửa, thị thành, để được yên tĩnh cho yên lòng người làm con thôi. Gần đây có kẻ tính việc kết phát, nhẹ dạ nghe lời thầy địa lý, sáng chôn chiều bới, di cải không thường, tấm lòng thương xót không còn gì nữa. Chẳng nghĩ tới đạo làm người duy trung với hiếu, mà phận sự của người con trai đều nên yên nghiệp để định chí, giàu khó sang hèn đều do trời định, người ta không thể cưỡng được. Thử xem các thầy địa lý có học thuật gì mà sự ăn mặc trong nhà cũng vẫn thiếu thốn. Tức là Quách Phác (1. Quách Phác :  Người đời Tấn, là tổ địa lý và bói toán ; bấy giờ có Vương Đôn sắp làm loạn, gọi Quách Phác đến để bói, Quách Phác nói : “Minh công làm việc ấy họa không xa đâu”. Vương Đôn hỏi : “Số mệnh nhà ngươi thế nào?”. Đáp : “Số tôi chết ngày nay”. Quả nhiên đến nửa ngày, Vương Đôn đem chém Quách Phác.) mà bị hình thương, Quỷ Linh (2. Quỷ Linh : Có lẽ cũng là thầy địa lý, nhưng chưa biết rõ sự tích.) mà bị chết yểu, thì các phép thu sa nạp thủy (3. Thu sa nạp thủy : Phép địa lý lấy gò đất ở bên tả, bên hữu làm thu sa, lấy dòng nước chảy lại gọi là nạp thủy.) lại có ích gì ? Huống chi lại lấy lòng bất hiếu mà mưu cầu cái Phước không đâu, trong hạn ba năm, Phước còn chưa đến, nghĩ ác một chút, vạ đã theo liền. Thói tệ ấy cần phải răn đổi. Từ nay về sau nhà dân như có chôn, thì chỗ đất để mồ không cần phải tìm long mạch để cấu kết phát. Như có gặp phải năm điều lo đó thì trước làm đơn trình quan sở tại, xét đúng, mới cho cải táng. Lại gần đây nhiều người đặt ra câu sấm, tạo ra lời phao để cổ hoặc dân ngu, bàn nhảm lành dữ, đến nỗi có kẻ bỏ cả nghề nghiệp sinh sống, mưu toan những việc trái phép rồi mắc họa. Nay nên nghiêm cấm, phàm có kẻ truyền đọc sách sấm và soạn bậy câu vè thì phải tội nặng.

5. Việc thờ thần thờ phật. Trước phải xem việc dân rồi mới đến việc thần. Sách Kinh nói : “Cúng tế nhàm là bất kính”. Sách Truyện nói : “Kính quỷ thần mà nên ở xa”. Lại nói : “Nếu không phải ma của mình mà tế thì là siểm nịnh”. Đó đều là nói việc thờ cúng quỷ thần tất phải có đạo. Gần đây có nhiều kẻ siểm nịnh thần kỳ, thành hoàng miếu vũ thì cửa ngăn nóc chồng, chạm xà vẽ cột, tế khí nghi trượng thì trang sức vàng bạc, màn tàn cờ quạt thì thêu thùa văn vẻ, tế xuân tế thu, vào đám hát xướng, nhiều thì vài mươi ngày đêm, ít thì tám chín ngày đêm, chèo tuồng hát hỏng, thướng lèo vô số, ăn uống xa hoa, tiêu không tiếc của. Ngoài ra lại đua thuyền múa rối, đủ mọi thứ trò, lại kén lấy trai tơ gái trẻ, đánh cờ đánh bài, tiếng là thờ thần, thực để thỏa dục. Rồi lại bắt đóng góp, hao của tốn tiền. Từ nay về sau, các vị thần công đức nên tế bằng trâu bò thì phải làm đơn xin quan phủ huyện, xét đáng mới cho. Còn như miếu vũ nếu có trùng tu và làm mới thì chỉ cho làm một gian nội từ và ba gian trung đường, hai cột nghi môn không được chạm khắc sơn vẽ. Miếu sở không được gọi lấn là điện ; đồ tế khí nghi trượng không được sơn son thếp vàng ; màn tàn cờ quạt chỉ dùng vải lụa nhuộm mùi, không được thêu văn vẻ. Hằng năm tế tự, vào đám hát xướng, chỉ cho một ngày đêm, thưởng lèo không được quá phí. Khi tế cho dùng chuông trống làm lễ, tế xong thì thôi. Còn bao nhiêu trò vè khác thì đều cấm cả. Đến như việc thờ phật thì sách Truyện nói : “Say mê dị đoan, chỉ hại mà thôi”. Lại nói : “Có tội với trời thì cầu đảo vào đâu được”. Người có thờ phật là cốt để Phước báo. Sách nhà phật nói : “Có duyên phật độ, không duyên phật chẳng độ”. Lại nói : “Thờ cha mẹ chẳng ra gì, tuy hằng ngày ăn chay niệm phật cũng vô ích. Trung với vua mà đến thế, dẫu không cúng phật cũng không sao”. Như thế thì người có duyên cần gì phải phật độ, mà người không duyên thì phật độ làm sao được ? Thử xem những tổ đã thành phật như là Mục Liên (1. Một người tu hành đắc đạo thành phật mà mẹ bị xuống địa ngục cũng không cứu được.) mà cũng không độ được mẹ, chuộng phật giáo như Tiêu Diễn  (2. Tức Lương Vũ đế, rất mộ đạo phật, sau bị chết ở Đài Thành.) mà cũng không giữ được thân, huống chi những bọn bất trung bất hiếu, không biết quân vương là phật hiện thời, bỏ cả cha mẹ là phật sinh thành, mà đi cầu phật vô hình xa ngoài muôn dặm, để mong Phước may chưa đến, có lẽ ấy được chăng? Gần đây có kẻ sùng phụng đạo phật, xây dựng chùa chiền quá cao, lầu gác rất là tráng lệ, đúc chuông tô tượng rất đỗi trang hoàng, cùng là làm chay, chạy đàn, mở hội, phí tổn về cúng phật nuôi sư không thể chép hết, để cầu Phước báo viển vông, đến nỗi tiêu hao máu mỡ. Vậy từ nay về sau, chùa quán có đổ nát mới được tu bổ, còn làm chùa mới và tô tượng đúc chuông, đàn chay hội chùa, hết thảy đều cấm. Sư sãi có kẻ chân tu thì lý trưởng sở tại phải khai rõ tính danh quán chỉ, đem nộp ở quan trấn để biết rõ số. Lại đời sống của dân đều có định mệnh, tai không thể giải được, Phước không thể cầu được, cái thuật cầu đảo giải trừ đều vô ích cả. Từ xưa, đồng cốt cũng nhảm mà họ Cao Tân (1. Tức Đế Cốc họ Cao Tân, làm lễ cầu thần Cao Môi.) đã bày rõ việc tế tự, tả đạo dối dân, nên thiên Vương chế (2. Thiên “Vương chế” ở Kinh Lễ.) đã đặt luật giết trừ, đó đều là để bài bỏ mê tín, khiến cho tục dân theo về đường chính. Tây Môn Báo (3. Tây Môn Báo : Thời Đông Chu, Tây Môn Báo làm Thái thú Tây Hà, tục dân có việc Hà bá lấy vợ, mỗi năm dân phải vất một người con gái xuống sông, Báo đến nơi, bắt mụ đồng phải xuống sông mời Hà bá lên, mãi không thấy lên, lại vất hết các mụ đồng khác xuống, dân làng đến kêu van xin thôi. Từ đấy mất tục Hà bá lấy vợ.) ném mụ đồng xuống sông, Địch Nhơn Kiệt (4. Địch Nhơn Kiệt : Tể tướng đời Đường, Địch Nhơn Kiệt đi tuần Giang Nam, tâu xin hủy hơn 70 dặm từ ở nước Ngô nước Sở.) phá những đền thờ nhảm. Thực là có định kiến. Nay thói thờ quỷ mù quáng đã sâu, người ta không hay giữ yên tính mệnh, động đến là xin phù chú, kêu đồng bóng, lập đàn trường, khua chuông trống, như chiều gió lướt, tập tục theo nhau, làm cho mê hoặc. Kẻ có tà thuật đều giả thác ảo huyền, làm rối tai mắt. Thổi bùa vẽ khoán, tạ pháp án để sinh nhai ; chuộc mệnh gọi hồn, xem nhà bệnh là hàng quý. Thậm chí phụ đồng thiếp tính, bịa đặt lời thần, cấm thuốc nhịn ăn, làm cho người bệnh không thể chữa được nữa. Lại còn ngựa rơm người giấy, đập cửa đốt nhà, cùng với mọi thứ bùa thuốc mê hoặc, khiến cho vợ cả ghét chồng, chồng say vợ lẽ, đã dụng thuật để nhiễu người, lại gõ cửa để xin chữa, lừa dối trăm chiều, thực làm hại lớn cho dân chúng. Từ nay dân gian như có đau ốm, chỉ nên cầu thuốc để trị, cẩn thận sự đi đứng, nhất thiết chớ nên tin nghe bọn yêu tà mà cầu cúng xằng xiên. Những bọn thầy pháp cô đồng cũng không được sùng phụng hương lửa để nhương tai trừ họa. Nếu quen giữ thói cũ, ắt bị nghiêm trị. Lại như đạo Gia Tô là tôn giáo nước khác truyền vào nước ta, bịa đặt ra thuyết thiên đường địa ngục khiến kẻ ngu phu ngu phụ chạy vạy như điên, tiêm nhiễm thành quen, mê mà không biết. Từ nay về sau, dân các tổng xã nào có nhà thờ Gia Tô đổ nát thì phải đưa đơn trình quan trấn mới được tu bổ, dựng nhà thờ mới thì đều cấm. Những điều trên này, đều là nên cố đổi tệ cũ, kính giữ giáo điều. Nếu cứ quen theo thói làng, can phạm phép nước, có người phát giác thì xã trưởng phải đồ lưu đi viễn châu, dân hạng, nặng thì sung dịch phu, nhẹ thì xử roi hay trượng, để bớt tổn phí cho dân, mà giữ phong tục thuần hậu).

Giảm tô thuế năm nay cho từ Nghệ An ra Bắc. (Thuế ruộng Nghệ An, Thanh Hoa nội ngoại, các trấn Bắc Thành, được giảm 1 phần 10. Tiền thân dung, mỗi người giảm 1 tiền, duy sáu ngoại trấn ở Bắc Thành thì giảm mỗi người 30 đồng).

Lấy Thuộc nội vệ úy Nguyễn Lược làm quản phủ Quỳ Châu, sai mộ dân sung làm quế hộ để nộp thuế quế.

Quốc trưởng Vạn Tượng là Chiêu Ấn chết. Em là Chiêu A Nỗ [Anouvong] nối ngôi. Vua sai Cai cơ Nguyễn Văn Uẩn, và Hàn lâm Lê Văn Phú sang phúng.

Khiến Chiêu Nội về Trấn Ninh. Vạn Tượng gửi thư nói rằng người thổ đều không phục Xà Cương mà xin lập Chiêu Nội. Chiêu Nội cũng xin về. Vua cho rằng vương giả đối đãi với Di Địch, kẻ lại thì không cự, kẻ đi thì không nên đuổi theo, bèn sai Nghệ An lượng cấp khẩu lương mà cho về.

Tháng 2, ngày Mậu thìn, xa giá đến Kinh sư. Ngày Quý dậu vua yết Thái miếu. Lễ xong, đến Từ cung mừng thăm.

Đặt quốc hiệu là Việt Nam. Ngày Đinh sửu, đem việc cáo Thái miếu. Lễ xong vua ngự ở điện nhận lễ chầu mừng. Xuống chiếu bố cáo trong ngoài. Chiếu rằng : “Đế vương dựng nước, trước phải trọng quốc hiệu để tỏ rõ nhất thống. Xét từ các đấng tiên thánh vương ta xây nền dấy nghiệp, mở đất Viêm bang, gồm cả đất đai từ Việt Thường về Nam, nhân đó lấy chữ Việt mà đặt tên nước. Hơn 200 năm, nối hòa thêm sáng, vững được nền thần thánh dõi truyền, giữ được vận trong ngoài yên lặng. Chợt đến giữa chừng, vận nước khó khăn, ta lấy mình nhỏ, lo dẹp giặc loạn, nên nay nhờ được Phước lớn, nối được nghiệp xưa, bờ cõi Giao Nam, đều vào bản tịch. Sau nghĩ tới mưu văn công võ, ở ngôi chính, chịu mệnh mới, nên định lấy ngày 17 tháng 2 năm nay, kính cáo Thái miếu, cải chính quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn, truyền lâu xa. Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến quốc hiệu và thư từ báo cáo với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa”. Lại hạ chiếu báo các nước Xiêm La, Lữ Tống và các thuộc quốc Chân Lạp, Vạn Tượng, khiến đều biết cả.

Đúc ấn sáu bộ (ấn khắc năm chữ “Mỗ bộ đường chi ấn”, triện nhỏ thì khắc “Khâm tư lại chính”, “Khâm tư hộ chính”, “Khâm tư lễ điển”, “Khâm tư binh chính”, “Khâm tư hình chính”, “Khâm tư công chính”, mỗi triện đều bốn chữ).

Quan Bắc Thành tâu xin phong tặng cho thần thiêng các địa phương. Sai xét hỏi rõ linh tích. Phàm vị nào có công đức với dân, các triều có phong tặng, thì làm danh sách tâu lên.

Lấy Chưởng cơ Huỳnh Đăng Lý làm Trấn thủ Sơn Tây.

Dời dựng thành trấn Hải Dương đến Hàm Giang (tên xã, thành cũ ở xã Mao Điền, hai xã đều thuộc huyện Cẩm Giàng), thành trấn Kinh Bắc đến Lỗi Đình (tên xã, thuộc huyện Tiên Du, thành cũ ở xã Đáp Cầu thuộc huyện Võ Giàng).

Thành thần tâu rằng : “Dòng nước sông Hàm Giang, phía đông chảy xuống Yên Quảng, phía nam chảy đến Sơn Nam, xin dựng đồn thủy để đóng thủy binh mà phòng sự hoãn cấp”. Vua y cho.

Miễn cho thuyền buôn Mã Cao khỏi tiền ba lễ. (Ba lễ thượng tiến dâng vua, dâng cung Trường Thọ, dâng cung Khôn Đức). Hạ lệnh rằng thuyền đến chở nhiều kẽm, nhà nước mua trả đúng giá.

Ngày Đinh hợi, vua đến nhà Quốc học, triệu các học thần bàn bạc về điều cốt yếu trong việc học của người xưa.

Tháng 3, ngày Canh dần, vua yết lăng liệt thánh.

Ngày Giáp thìn, dựng Thái miếu, miếu Triệu tổ, miếu Hoàng khảo. Trước kia, vua lấy lại được đất Gia Định thì dựng nhà Thái miếu để thờ Chiêu huân tĩnh vương ở giữa, bên tả thờ Gia dụ thái vương, Hiếu chiêu vương, Hiếu nghĩa vương, Hiếu tuyên vương, Hiếu khang vương, bên hữu thờ Hiếu văn vương, Hiếu triết vương, Hiếu minh vương, Hiếu vũ vương, Hiếu định vương, Hiếu huệ vương (tức là Tân chính vương Dương, là con Tuyên vương Hạo, sau đổi thụy là Mục vương), phía sau làm tẩm miếu để thờ các bà phi của tiên vương. Kịp khi lấy lại Kinh thành thì tạm dựng Thái miếu, cũng nhân quy chế ấy mà làm. Đến đây vua cùng bầy tôi bàn rằng nhà nước dựng nghiệp ở cõi Nam, bắt đầu từ Thái vương, trải đời truyền nhau đến Hiếu định vương thì đúng hợp với số chín miếu. Nên định ở bên tả trong hoàng thành dựng nhà Thái miếu, noi theo kiểu đồng đường dị thất (1. Đồng đường dị thất : Cùng một nhà, nhưng có nhiều gian, mỗi gian thờ một vị.) của nhà Hán nhà Minh, thờ Thái vương làm Thái tổ, đặt ngôi ở gian giữa, từ Hiếu văn vương đến Hiếu định vương thì chia ra hai bên 4 chiêu 4 mục, hợp thành 9 ; đằng sau Thái miếu thì dựng miếu Triệu tổ, thờ Chiêu huân tĩnh vương làm Triệu tổ, để tỏ rằng Thái tổ là tự đó mà ra ; lại ở bên hữu phía trong hoàng thành, dựng miếu Hoàng khảo để tỏ rằng đế nghiệp là tự đó mà ra. Tuyên vương và Huệ vương, thì đợi các miếu làm xong, sẽ làm viên tẩm (2. Viên tẩm : Nhà thờ ở trong vườn.  ) riêng để thờ. Bàn xong, sắc cho bộ Lễ chọn ngày lành, lấy ngày Giáp thìn khởi công. Sai bọn Chưởng quân Lê Văn Duyệt, Phó tướng Phan Văn Đức, Thống chế Nguyễn Công Nga, Chưởng cơ Nguyễn Văn Thống, Tham tri Nguyễn Văn Ngoạn trông coi công việc. Vua thường ra xem.

Tha thuế thân và thuế diêm tiêu năm nay cho đội Hùng diêm Bình Định.

Từ Quảng Bình vào Nam bị hạn hán, tha bớt tô thuế năm nay theo thứ bậc khác nhau. Quảng Đức, Quảng Trị thì thuế thân và thuế ruộng bớt 5 phần 10, ở các dinh trấn thì thuế ruộng bớt 4 phần 10, tiền thuế thân, các hạng tráng quân, biệt tính và biệt nạp ở Quảng Bình mỗi người bớt 4 tiền, các hạng dân đinh lão tật thì bớt một nửa. Từ Quảng Nam trở vào mỗi người bớt 2 tiền, dân đinh lão tật cũng bớt một nửa.

Tha dao dịch cho người Minh Hương ở Gia Định.

Dựng điện Cần chánh, cung Trường Thọ, cung Khôn Đức. Sai bọn Nguyễn Đức Xuyên, Lê Chất, Trần Văn Năng chia nhau trông coi công việc.

Bớt thóc thuế cho quân đồn điền ở Gia Định. Gia Định trước có lập riêng 300 người quân đồn điền, mỗi người mỗi năm nộp 6 hộc thóc để sung việc chi dùng ở trong cung. Đến nay đặc biệt giảm cho, mỗi năm mỗi người nộp 2 hộc thóc.

Định lệ nộp ván gỗ cho đội Mộc đĩnh ở Gia Định. (Đội Mộc đĩnh có 5 hiệu 500 người, cứ 100 người, mỗi năm phải nộp ván gỗ đóng một thuyền hải đạo, lấy 50 mái chèo làm hạn).

Đặt đội Châu tượng [thợ đóng thuyền] ở Gia Định, mộ những người dân xiêu tán sung vào, mỗi năm phải nộp ván thuyền như lệ đội Mộc đĩnh.

Sai Bắc Thành chế các thứ cân, thước và phương, thăng, hộc. Dụ rằng : “Thống nhất việc đo lường cân là việc đầu tiên trong chính trị. Nay nên theo thức mà chế tạo, gửi khắp các trấn. Phàm dân có chế để dùng phải lấy đó làm kiểu, do sở tại so sánh rồi khắc chữ làm tin. Làm trái thì có tội”.

Sai Điển quân Lưu Phước Tường và Hàn lâm viện Trần Công Hòa sung chánh phó sứ sang Xiêm. Người Xiêm đến cáo việc tang của vua thứ hai nước ấy, nên sai bọn Tường sang phúng. (Tặng Phật vương 50 lạng vàng, 500 lạng bạc, the màu và vải trắng đều 100 tấm ; phúng vua thứ hai 500 cân sáp ong, 100 tấm vải trắng, 3.000 cân đường cát, đường phèn, đường phổi đều 500 cân). Khi sứ giả trở về, người Xiêm gửi thư đến tạ ơn.

Lữ Tống bị đói, xin đong gạo ở Gia Định. Lưu trấn thần không muốn bán, đem việc tâu lên. Vua nói rằng : “Bờ cõi dù khác nhau, nhưng lấy lòng chung mà thương nhau, sao nỡ không ngó đến”. Bán cho 50 vạn cân gạo.

Sai Gia Định đóng 50 chiếc sai thuyền.

Dời dựng miếu nhà Lê về Thanh Hoa. Miếu nhà Lê ở thành Thăng Long, họ Lê tâu xin dời về Bố Vệ (tên xã, thuộc huyện Đông Sơn, là đất cũ trung hưng nhà Lê). Vua nói : “Giữ việc thờ cúng nhà Lê là trọng điển của Triều đình”. Sai trấn thần Thanh Hoa thúc dân sửa sang. Lấy Phan Tấn Quý làm quản phủ Thiệu Thiên để coi công việc. Rồi lấy 100 người dân xã Bố Vệ làm miếu phu.

Phong tặng ông cha các đại thần. Chiếu rằng : “Thưởng người có công, đền người khó nhọc, đó là điển lớn của triều đình. Nay võ công đã định, khôi phục non sông, nghĩ tới những bầy tôi huân cựu, suy ơn đến gốc, nên phong tặng cho ông cha ba đời theo thứ bực khác nhau”. (Quan nhất phẩm phong tặng ba đời, cha hàm nhị phẩm, ông hàm tam phẩm, cố hàm tứ phẩm, quan nhị phẩm phong tặng hai đời, cha hàm tam phẩm, ông hàm tứ phẩm ; quan tam phẩm phong tặng một đời, cha hàm tứ phẩm. Còn sống thì suy phong, chết rồi thì được truy tặng. Những mẹ, bà và cố bà đều theo phẩm hàm của cha, ông, cố. Nếu cha, ông, cố đã có chức hàm rồi mà phẩm cao hơn con cháu, thì được tiến một bực, phẩm còn thấp thì theo chức hàm con cháu mà phong tặng. Phàm người được dự phong tặng thì phải có huân lao chính tích và có ân chỉ thì mới được cấp).

Ban học quy cho các thành và dinh trấn. Quan Bắc Thành tâu rằng : “Hiện nay thánh thượng lưu ý đào tạo nhân tài, chia đặt đốc học, rèn đúc học trò, để cống hiến cho nhà nước. Đó thực là cơ hội lớn để sửa đổi phong tục và tác thành nhân tài. Nhưng sự dạy dỗ mới bắt đầu thì văn khoa cử nên có kiểu mẫu để làm khuôn phép cho học trò. Vậy xin chuẩn định học quy, khiến cho người dạy lấy đó mà dạy học trò, và học trò lấy đó mà chuyên nghiệp, để cho giảng dạy khảo khóa lấy đó mà theo”. Vua chuẩn lời tâu. Sai Tham tri Hình bộ là Nguyễn Thế Trực và quan Quốc tử giám là Nguyễn Viết ứng soạn định những bài mẫu mới về kinh nghĩa và văn sách để ban bố thi hành.

Cấp tự điền tự dân cho Thái úy quốc công Võ Tánh, cho con là Khánh coi giữ việc thờ cúng. Dụ rằng : “Làm cho người trung được vẻ vang, người hiền được thỏa chí, đó là điển lớn của nhà nước. Cha ngươi là bực công đầu của nước, giữ trách nhiệm ở thành Trà Bàn mà sống chết ở đó. Vậy đặc biệt ban cho tự dân 200 người, tự điền 300 mẫu. Ngươi nên cẩn thận, lấy đấy phải có quy chế, dùng đấy phải có tiết độ, đời đời vâng giữ, cùng nước cùng dài, để xứng với tấm lòng trọng đức đền công của ta”.

Lấy Trưởng chi Diệp Mậu làm Khâm sai cai cơ, coi phủ Trà Vinh. Mậu là người Chân Lạp, theo chinh chiến đã lâu, lại xuất nhiều của nhà để giúp quân phí. Vua nghĩ công, nên có mệnh ấy.

Định điều cấm cho người giám thủ kho tàng. Phàm xẻo xén tiền thóc và cho người mượn riêng tiền từ 1 quan, gạo từ 1 phương trở lên, đều bị tội nặng, gặp ân xá cũng không được miễn ; người mượn cũng bị tội.

Lấy Đoàn Công Lễ làm đội trưởng coi giữ tôn lăng ở Chiêm Sơn (1. Tức lăng Hiếu chiêu hoàng hậu Đoàn thị.) (tức lăng Vĩnh Diên ở xã Chiêm Sơn. Đền thờ ở bãi Đông An thuộc tỉnh Quảng Nam, trước đặt giám thủ đội trưởng 2 người, dân phu 20 người, tự điền 5 mẫu ; đến nay người họ là Công Lễ đem việc tâu lên, mới cho làm đội trưởng, cho suất dân phu 10 người coi giữ).

Miễn thuế cho dân vận tải đường thủy ở Quảng Bình.

Gọi hơn 7.000 người thuộc năm quân cùng năm cơ Kích, bốn cơ Dực ở Bắc Thành về Kinh.

Giặc nổi ở Thái Nguyên, đánh cướp ở Vũ Nhai và Lạng Giang. Trấn thủ Kinh Bắc là Phạm Tiến Tuấn đem quân đi đánh. Quan Bắc Thành sai Chánh quản mười cơ Tả quân là Nguyễn Văn Giám, Phó thống Tiền đồn Tiền quân là Nguyễn Xuân đem quân đến hội. Quân đến, giặc vỡ chạy ngay. Quân cũng bãi về.

Thủy sư Bắc Thành đánh tan giặc biển Tề Ngôi ở hải phận Yên Quảng, bắt được quân giặc 13 người và thuyền ghe khí giới đem nộp.

Đắp tám đoạn đê mới ở Bắc Thành (Một đoạn ở xã Thượng Cát huyện Từ Liêm trấn Sơn Tây dài hơn 135 trượng, một đoạn ở xã Phú Xuyên huyện Tiên Phong, dài hơn 394 trượng, một đoạn ở xã Phù Liệt huyện Văn Giang, trấn Kinh Bắc dài hơn 361 trượng, một đoạn ở xã Phù Cầm huyện Yên Phong dài hơn 47 trượng, một đoạn ở xã Đông Phù Liệt huyện Thanh Trì, trấn Sơn Nam thượng dài hơn 370 trượng, một đoạn ở xã Hà Lão huyện Hưng Nhơn trấn Sơn Nam hạ dài hơn 119 trượng, một đoạn ở xã Đường Sâm huyện Chân Định dài 214 trượng, một đoạn ở xã Trà Lý huyện Chân Định dài hơn 88 trượng). Sai thành thần thuê dân mà đắp, chi tiền hơn 89.000 quan.

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển XXIV – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Giáp tý, Gia Long năm thứ 3 [1804], mùa hè, tháng 4, ngày mồng 1, tế hạ hưởng.

Ngày Kỷ mùi, xây cung thành và hoàng thành. Cung thành bốn mặt dài suốt 307 trượng 3 thước 4 tấc, xây bằng gạch, cao 9 thước 2 tấc, dày 1 thước 8 tấc. Phía trước có cửa Tả túc, cửa Hữu túc, bên tả là cửa Hưng Khánh, bên hữu là cửa Gia Tường, phía sau là cửa Tường Lân và cửa Nghi Phượng. Hoàng thành bốn mặt dài suốt 614 trượng, xây gạch, cao 1 trượng 5 thước, dày 2 thước 6 tấc. Hồ bọc ba phía, tả, hữu, hậu, dài suốt 464 trượng 1 thước. Phía trước có cửa Tả Đoan và cửa Hữu Đoan, bên tả là cửa Hiển Nhơn, bên hữu cửa Chương Đức, phía sau có cửa Cung Thần. Cửa Tường Lân sau đổi làm cửa Tường Loan, cửa Cung Thần sau đổi làm cửa Địa Bình). Sai Nguyễn Văn Trương và Lê Chất trông coi công việc. Các quan ứng dịch ở đấy được thưởng thêm lương tiền. Lại lấy sự chậm chóng để định thưởng phạt.

Lấy Hồ Văn Lân làm Chưởng dinh, Lê Văn Quế làm Đô thống chế dinh Hậu thủy Thủy quân.

Truy tặng Cai cơ quản Nội thủy Trung thủy là Nguyễn Văn Uy làm Chưởng cơ (Văn Uy chết trận năm Giáp thìn).

Lấy Lưu thủ Quảng Bình là Tôn Thất Huyên làm Lưu thủ Quảng Nam, Tri bạ Đồ gia là Nguyễn Tường Vân làm Cai bạ, Cai cơ Lê Văn Chử làm Lưu thủ Quảng Bình, Tri bạ Chính dinh là Nguyễn Văn Nhiên làm Ký lục, Hàn lâm thừa chỉ Võ Hữu Hợp làm Ký lục Bình Hòa.

Tìm những sách chứa riêng ở nhà dân. Người Duyên Hà (tên xã thuộc huyện Duyên Hà) là Lê Duy Thanh đem sáu quyển Tạp lục và hai quyển Quần thư khảo biện của cha là Lê Quý Đôn (đỗ Bảng nhãn triều Lê cũ, học vấn rộng) để dâng.

Cấp lương tháng cho các quan dạy học ở Quốc tử giám (chánh đốc học tiền 6 quan, gạo 6 phương, phó đốc học tiền 5 quan, gạo 5 phương). Sai chọn con em tôn thất, từ 10 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống, cho vào học nhà Quốc học.

Sai Hộ bộ thống kê rõ số tiền thóc thuế thu và chi tâu lên. Vua cho rằng quan Hộ bộ chủ việc tài chính, chi thu phải có chuyên trách. Sai Thượng thư Hộ bộ là Trịnh Hoài Đức giữ việc trưng thu, Tham tri Nguyễn Hữu Đồng làm phó, Hộ bộ Nguyễn Kỳ Kế giữ việc chi phát, Tham tri Nguyễn Văn Kiêm làm phó. Cứ cuối năm thống kê sổ sách dâng lên.

Làm thêm kho ở Kinh, sai các dinh trấn Quảng Đức, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Bình, Bình Định, Phú Yên, Bình Hòa, Bình Thuận và Nghệ An cho quân dân đi tìm gỗ, cứ mỗi gian kho cấp tiền 100 quan. Lại sai hai đội Lâm công [thợ rừng] và Hùng diêm lấy gỗ ở núi Hải Vân, đội Tuần thành lấy gỗ ở núi Quảng Bình, đều phát tiền thưởng cấp.

Biên hai chi Hùng trấn và Dũng trấn ở Cao Bằng làm cơ Hùng dũng thuộc trấn, lấy Nguyễn Hựu Bằng làm quản cơ, Nguyễn Hựu Triệu làm phó.

Sai các địa phương làm sổ về ngạch thủ ngự. Từ  trước tới nay, chức thủ ngự có lúc do đình thần chọn cất, có lúc do địa phương kén bổ, sổ ngạch chưa rõ ràng. Bèn sai các dinh trấn cứ mỗi năm đến tháng 2 thì làm sổ tâu lên.

Sai Đô thống chế dinh Hậu thủy là Lê Văn Quế quản 10 chiếc thuyền hải đảo đi thú Bắc Thành.

Tha tô thuế năm nay cho huyện Tống Sơn. Chiếu rằng: “Huyện Tống Sơn là nơi cơ bản, tô thuế hai năm Nhâm tuất và Quý hợi đều đã miễn rồi. Nay ta ưu đãi cố hương nên lại tha cho”.

Sai Cai đội Nguyễn Ngọc Huyên suất xã dân xã Cư Chính giữ gìn lăng Hoàng khảo.

Lưu trấn Gia Định là Nguyễn Văn Nhơn tâu rằng: “Các hạng lão tật của dân đồn điền, xin từ nay về sau giảm bớt thóc thuế cho 5 phần 10. Lại khe ngòi xưa nay không có thuế, gần đây bọn lại gian mưu lợi thu nộp cả, làm cho rối dân, xin tha cho”. Vua đều theo lời tâu.

Thuyền bị nạn ở nước Xiêm đậu ở phần biển Gia Định. Sai lưu trấn thần lấy gạo kho cấp phát cho đủ.

Ban tiền gạo cho bọn Mai Đức Nho là con Mai Đức Nghị, Đô thống chế Hậu dinh quân Thần sách và Tống Phước Lý, Tống Phước Thoại là con Tống Phước Châu, Thống chế dinh Trung thủy Thủy quân, theo thứ bậc khác nhau. (Đức Nho mỗi tháng 5 tiền, gạo 4 phương, bọn Phước Lý đều tiền 1 quan, gạo 1 phương).

Lục bổ con Hữu quân Võ Doãn Triêm là Võ Doãn Đạo làm Hàn lâm viện thị thư, con Lễ bộ Nguyễn Đô là Nguyễn Hy sung Hàn lâm viện.

Bọn giặc Thái Nguyên còn sót đánh cướp bảo Bắc Cạn. Trấn thần đem quân đánh úp phá được. Thưởng tiền 600 quan.

Quan Bắc Thành tâu rằng: “Tô thuế bảy huyện ở phủ Kinh Môn trấn Hải Dương, trước nộp về Yên Quảng. Nay kho  ở trấn đầy mà hằng năm chi tiêu không hết mấy, chỉ hai huyện Đông Triều và Thủy Đường cũng đủ. Vậy xin cho năm huyện Giáp Sơn, Kim Thành, An Dương, Nghi Dương và An Lão nộp về Hải Dương”. Vua nghe theo.

Sửa hành cung Bắc Thành. ở Bắc Thành trước dùng điện Kính Thiên của nhà Lê làm hành cung. Đến nay sai làm thêm một tòa ở sau điện, để làm nơi trú chân trong khi vua đi tuần thú.

Bàn định quan chế. Bàn xong, đem tuyên bố ở triều. Dụ cho bầy tôi rằng: “Bọn khanh nếu có ý kiến đều nên nói thực, chứ không nên trước mặt thì đồng ý, sau khi lui về lại còn nói”. Bầy tôi đều nói xin theo như đã bàn. Bèn sai ban bố cho trong ngoài.

Chiếu rằng: “Quan chế các triều, diên cách khác nhau, cần nên tùy nghi thêm bớt, chia chức làm việc mong sao cho không trống mà thôi. Các đấng thánh vương trước đặt quan đã có chép sẵn. Chợt từ Tây Sơn nổi loạn, danh hiệu rườm rà. Nay võ công đã định, cần phải chỉnh đốn quan chức. Đã bàn định quan chế hai ban, chuẩn cho thi hành, đều nên vâng theo. Những người được đặc ân gia hàm tiến tước thì không ở lệ này”.

Văn giai: ở trên nhất phẩm là tôn nhân lệnh Tôn nhân phủ và tam công [Thái sư, Thái phó, Thái bảo]; chánh nhất phẩm là tả hữu tôn chính Tôn nhân phủ và tam thiếu [Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo]; tòng nhất phẩm là tham chính, tham nghị, thị trung đại học sĩ; chánh nhị phẩm là thượng thư lục bộ và tả hữu đô ngự sử Đô sát viện; tòng nhị phẩm là tham tri sáu bộ, tả hữu phó đô ngự sử Đô sát viện, tán lý; chánh tam phẩm là chánh thiêm sự, thị trung trực học sĩ, thị trung học sĩ, trực học sĩ các điện, học sĩ các điện, hiệp trấn các trấn, cai bạ, ký lục công đường các dinh; tòng tam phẩm là thiếu thiêm sự, cai bạ Chính dinh, tham tán các quân, Thượng bảo khanh, tham quân quân Thần sách; chánh tứ phẩm là đốc học Quốc tử giám, thiêm sự sáu bộ, Thượng bảo thiếu khanh, Đông các học sĩ, tham quân, tham mưu các dinh quân, cai bạ cung Trường Thọ, tham hiệp các trấn; tòng tứ phẩm là phó đốc học Quốc tử giám, tuyên phủ sứ, tham luận, thị trung điển quân các dinh quân, cai bạ điển quân; chánh ngũ phẩm là tham luận thị nội, tham luận quân Thần sách, Hàn lâm thừa chỉ, thị giảng, thị độc, chế cáo, thị thư, tu soạn, Hàn lâm viện, đốc học các dinh trấn; tản giai chánh ngũ phẩm là giám chính Khâm thiên giám, ngự y Thái y viện, chánh cai bạ tàu; tòng ngũ phẩm là tham luận các dinh quân, phó đốc học các trấn dinh, cai bạ điển quân và tham luận các biệt đạo; tản giai tòng ngũ phẩm là tri bạ Chính dinh, cai án tri bạ thị trung, cai án tri bạ thị nội, thư ký, cai án tri bạ quân Thần sách, cai án tri bạ cung Trường Thọ, cai án tri bạ cung Khôn Đức, thư ký, cai án trị bạ các dinh quân, tri bạ tàu, tham luận Trường Đà, cai án Tư thiện, câu kê ty Lệnh sử sáu bộ, cai án tri bạ thuộc Đồ gia, câu kê ty Lệnh sử Đồ gia, câu kê ty Lệnh sử tàu, thư ký, cai án tri bạ các trấn dinh, cai án tri bạ các biệt đạo, giám phó Khâm thiên giám, ngự y phó Thái y viện, chiêm hậu Khâm thiên giám; chánh lục phẩm là tri phủ; tòng lục phẩm là Thị thư viện, Cống sĩ viện; tản giai tòng lục phẩm là cai hợp ty Lệnh sử sáu bộ, cai hợp thị trung, cai hợp thị nội, cai hợp quân Thần sách, cai hợp cung Trường Thọ, cai hợp cung Khôn Đức, cai hợp các dinh quân, y chánh Thái y viện, cai hợp ty Lệnh sử Đồ gia, cai hợp ty Lệnh sử tàu, câu kê hai ty các dinh trấn; chánh thất phẩm là tri huyện, tri châu; tản giai tòng thất phẩm là thủ hợp ty Lệnh sử sáu bộ, thủ hợp thị trung, thủ hợp thị nội, thủ hợp quân Thần sách, thủ hợp cung Trường Thọ, thủ hợp cung Khôn Đức, thủ hợp các dinh quân, y phó Thái y viện, thủ hợp ty Lệnh sử Đồ gia, thủ hợp ty Lệnh sử tàu, cai hợp hai ty các dinh trấn, cai hợp ty Chiêm hậu các dinh trấn, cai án tri bạ, bình luận các cửa biển đầu nguồn, cai hợp các biện đạo, tri án, cai hợp các thủ sở; chánh bát phẩm là trợ giáo, nho học huấn đạo; tản giai tòng bát phẩm là trợ giáo, nho học huấn đạo; tản giai tòng bát phẩm là bản ty ty Lệnh sử sáu bộ, bản ty ty Lệnh sử cung Trường Thọ, bản ty ty Lệnh sử cung Khôn Đức, bản ty ty Lệnh sử Y viện, Đồ gia, bản ty ty Lệnh sử tàu, bản ty ty Chiêm hậu lại, thủ hợp hai ty các dinh trấn, thủ hợp ty Chiêm hậu các dinh trấn, thủ hợp các biệt đạo, thủ hợp các thủ sở, chánh cửu phẩm là lễ sinh Quốc tử giám, lễ sinh các phủ; tản giai tòng cửu phẩm là bản ty hai ty các dinh trấn, Chiêm hậu các dinh trấn, Lệnh sử các đạo, Lệnh sử các thủ sở, phủ ký lục các phủ, thư lại vị nhập lưu, ký huyện, ký thuộc, đề lại các phủ huyện, cai phủ tàu, ký lục tàu, lương y, ngoại khoa lương y, pháp lục tướng thần, xã trưởng thôn trưởng, trang trưởng, cai trại, từ thừa, cai hợp, thủ hợp ở nhà.

Võ giai: ở trên nhất phẩm là tôn nhân lệnh Tôn nhân phủ và tam công; chánh nhất phẩm là tả hữu tôn chính Tôn nhân phủ, tam thiếu, chưởng quân chưởng phủ sự, chưởng tượng chính, đô thống chế thị trung, chưởng dinh; tòng nhất phẩm là Thự phủ sự các quân, đô thống chế quân Thần sách, phó đô thống chế thị trung; chánh nhị phẩm là phó tướng, phó đô thống chế quân Thần sách, thống chế thị trung, thống chế thị nội, thống chế Thủy dinh; tòng nhị phẩm là phó thống chế, vệ úy thị trung, chưởng cơ; chánh tam phẩm là vệ úy thị nội, vệ úy quân Thần sách, phó vệ úy thị trung, cai cơ thị trung, cai cơ chánh quản Đồ gia, cai cơ chánh quản thị nội, cai cơ phó quản Đồ gia, cai cơ chánh quản thị nội, cai cơ phó quản Đồ gia, cai cơ phó quản thị nội, cai cơ chánh đồn, trấn thủ các trấn, lưu thủ công đường các dinh; tòng tam phẩm là phó vệ úy thị nội, phó vệ úy quân Thần sách, cai cơ phó Thủy dinh, cai cơ phó đồn, chánh Tuần hải đô dinh, vệ úy các dinh quân; chánh tứ phẩm là cai cơ chánh chi các dinh quân, phó vệ úy các dinh quân, chánh quản cơ các quân, cai cơ thị nội, cai cơ quân Thần sách, cai cơ cung Trường Thọ, phó Tuần hải đô dinh; tòng tứ phẩm là cai cơ phó chi các dinh quân, các phiên thần làm chánh trưởng chi tuyên úy đại sứ, phó quản cơ các quân, phiên thành làm chánh quản cơ tuyên úy sứ, cai cơ chánh phó quản tàu, cai cơ các dinh quân, cai đội thị trung, cai đội chánh phó quản Đồ gia, giám thành sứ, án phủ sứ; chánh ngũ phẩm là cai đội thị nội, cai đội quân Thần sách, cai đội cung Trường Thọ, cai đội cung Khôn Đức, cai đội thuộc vương tử vương tôn, phó đội thị trung, chánh hiệu úy các dinh quân, các phiên thần làm phó  trưởng chi, phó quản cơ, chiêu thảo sứ và phòng ngự sứ, phó sứ giám thành, cai cơ chánh chi các đạo, cai cơ các dinh trấn, cai cơ các đạo, cai cơ các thủ sở; tòng ngũ phẩm là phó đội thị nội, phó đội quân Thần sách, phó hiệu úy các dinh quân, các phiên thần làm chánh thủ hiệu, trưởng hiệu, tuyên úy đồng tri và tuyên úy thiêm sự, cai đội các dinh quân, cai đội Sơn lăng, Thái miếu và Tư thiện, phó chi các biệt đạo, chánh hiệu úy, tĩnh hải úy và phi kỵ úy các biệt đạo; tản giai tòng ngũ phẩm là chánh phó quản Trường đà; chánh lục phẩm là cai đội ngoại trù phòng các từ đường, phó đội các dinh quân, các phiên thần làm phó thủ hiệu, phó hiệu, phòng ngự đồng tri, phòng ngự thiêm sự, chiêu thảo đồng trị và chiêu thảo thiêm sự, phó hiệu úy, tĩnh hải phó úy, phó úy phi kỵ, phó úy các biệt đạo, cai đội, phó đội các cơ thuộc kiên, cai đội các dinh trấn, các đội các biệt đạo, cai đội thủ sở; tản giai chánh lục phẩm là cai đội Trường đà, cai đội đầu nguồn cửa biển, cai đội thủ ngự bả lệnh, cai đội tiểu hậu, cai đội các công khố, cục tượng và công xa, cai đội tòng quân, cai đội hàm; tòng lục phẩm là đội trưởng thị trung, đội trưởng thị nội, đội trưởng quân Thần sách, đội trưởng cung Trường Thọ, đội trưởng cung Khôn Đức, đội trưởng thuộc vương tử vương tôn, chánh đội trưởng các quân, đội trưởng các dinh quân, các phiên thần là chánh thuộc hiệu cai đội, phó đội biệt đạo, đội trưởng Sơn lăng, Thái miếu và Tư thiện, đội trưởng ngoại trù phòng các từ đường, đội trưởng các cơ thuộc kiên, đội trưởng các dinh trấn, các phiên thần làm cai đội tòng quân, đội trưởng các biệt đạo, đội trưởng thủ sở, các phiên thần làm phó thuộc hiệu và đội trưởng; tản giai tòng lục phẩm là phó đội bả lệnh, phó đội tiểu hầu; tản giai tòng thất phẩm là khám lý, khám lý hàm, đề đốc các phủ, đề lãnh hàm, đội trưởng tiểu hầu đề lãnh các khố, đề lãnh hàm, đội trưởng Trường đà, đội trưởng bả lệnh, đội trưởng công khố, đội trưởng tòng quân, đội trưởng hàm; tán giai tòng bát phẩm là chánh cai quan tiểu hầu, chánh cai quan các cục tượng, cai quản tiểu hầu, cai quản các cục tượng, thứ đội trưởng các thuyền đội, thứ đội trưởng bả lệnh, thứ đội trưởng công khố và công xa; tản giai tòng cửu phẩm là chánh ty quan tiểu hầu, chánh ty quan các cục tượng, ty quan tiểu hầu, ty quan các cục tượng, thứ đội trưởng hàm, cai huyện và cai thuộc vị nhập lưu, các phiên thần làm cai châu và cai tổng, cai tổng hàm, các phiên thần làm phó châu và phó tổng, phó tổng hàm, thủ hợp các cục tượng.

Phàm Văn giai từ chánh ngũ phẩm trở xuống là bá tước, chánh lục phẩm trở xuống là tử tước, chánh bát phẩm trở xuống là nam tước, vị nhập lưu lương y trở xuống không được dự tước. Võ giai thì tòng lục phẩm đội trưởng Sơn lăng, Thái miếu, Tư thiện trở xuống là bá tước, tản giai thì tòng cửu phẩm trở xuống là tử tước, vị nhập lưu trở xuống là nam tước. Văn giai thì tán lý, cai bạ Chính dinh, tham tán các quân, tham quân và tham mưu các dinh quân, tham luận thị trung, điển quân các dinh quân, cai bạ điển quân, tham luận thị nội, tham luận quân Thần sách, tham luận các dinh quân, phó đốc học các dinh trấn, cai bạ điển quân và tham luận các biệt đạo, Võ giai thì  chánh phó quản Trường đà, các chức ấy không có ngạch nhất định. Văn giai thì hiệp trấn, tham hiệp các trấn, đốc học và phó đốc học Quốc tử giám, tuyên phủ sứ, Võ giai thì phó tướng, lưu thủ, trấn thủ, án phủ sứ các dinh trấn, cai đội và đội trưởng thuộc vương tử vương tôn, cai đội và phó đội các cơ thuộc kiên, các chức ấy, như lấy chức quan khác mà kiêm lĩnh, cùng là thống chế Thủy dinh có đặc chỉ cho làm đô thống chế, đều chiếu theo phẩm cũ. Về văn giai thì tham luận Trường đà, cai án Tư thiện, cai án tri bạ thuộc Đồ gia, cai hợp và thủ hợp ty Chiêm hậu các dinh trấn, bình luận các cửa biển đầu nguồn, phủ ký lục các phủ, Võ giai thì cai đội và phó đội bả lệnh, cai đội, phó đội và đội trưởng tiểu hầu, cai đội công xa, phó đội và khám lý các biệt đạo, khám lý hàm, đề đốc và đề lĩnh các phủ, các chức ấy, trước đã đặt ra thì để, từ nay về sau thì bớt đi.

Định lệ quân cấp công điền công thổ. Vua cho rằng phép quân điền buổi quốc sơ đã có định chế, từ loạn Tây Sơn, đồ bản sổ sách đều mất bỏ, quan danh không chính, quân hiệu không minh, những bọn hào hữu tự ý lấn cướp, dân gian phần nhiều có cái nạn không đều. Bèn sai đình thần tham khảo phép cũ, bàn định việc chia cấp theo thứ bậc khác nhau.

1. Khẩu phần thì ở trên nhất phẩm được 18 phần, chánh nhất phẩm 15 phần, tòng nhất phẩm 14 phần rưỡi, chánh nhị phẩm 14 phần, tòng nhị phẩm 13 phần rưỡi, chánh tam phẩm 13 phần, tòng tam phẩm 12 phần rưỡi, chánh tứ phẩm 12 phần, tòng tứ phẩm 11 phần rưỡi, chánh ngũ phẩm 11 phần. Từ đấy trở xuống tản giai cũng thế. Tòng ngũ phẩm 10 phần rưỡi, chánh lục phẩm 10 phần, tòng lục phẩm 9 phần rưỡi, chánh tòng thất phẩm đều 9 phần, chánh tòng bát phẩm đều 8 phần rưỡi, chánh tòng cửu phẩm và vị nhập lưu đều 8 phần. Các vệ đội, thuyền thuộc cấm binh là Thị trung Trung hầu, Chấn uy, Nội trực, Tiểu sai, Thị trà, Bả cái, Tả vệ, Hữu vệ, Nội hoàng kiếm, Nội thủy, Phấn dực, Thị tượng, Nội mã, Tả mã, Hữu mã, đều 9 phần. Tòng cấm binh thì năm dinh quân Thần sách, tinh binh thì năm quân và các quân Thần uy, Chấn võ, Tượng quân, Tiểu hầu, Bả lệnh, cơ Quảng Ngãi, dinh Tiền phong, chi trưởng thượng đạo, các ty cung Trường Thọ và các vệ cơ đội thuyền Kiên thuận, Cửu dực, Kiên dũng, Thuộc kiên, Giám thành, Túc uy, Kiện uy, Minh uy, Hiến dũng, Toàn dũng, Kiên dũng, Nghiêm dũng, Nội trù, Tân nhất, Trung cần, Nội cần, đều 8 phần rưỡi. Tòng tinh binh thì  các cơ đội thuyền An công, Việt tường, Tràng xuân, Kiên châu, Thiện châu, Tàu thuế, Toàn súng, các kho, đều 8 phần. Con cháu tập ấm được 7 phần rưỡi. Binh lệ thuộc, những thợ ở Đồ gia, đều 7 phần. Các hạng dân thực nạp 6 phần rưỡi. Các hạng dân đinh và lão tật 5 phần rưỡi. Các hạng lão nhiêu, cố, cùng 4 phần rưỡi. Các hạng tiểu nhiêu, nhiêu tật, đốc phế, 4 phần. Con bồ côi, đàn bà góa, 3 phần; con cái bồ côi dẫu nhiều, chỉ cho một người trưởng; vợ góa lấy chồng lại mà lại góa thì không có phần ruộng.

2. Lão nhiêu và quả phụ, tuổi 70 trở lên, thì chiếu khẩu phần cấp thêm cho một phần. Con trai bồ côi đã thành đinh và con gái bồ côi đã lấy chồng thì ruộng trả về làng.

3. Từ trên nhất phẩm đến tòng tam phẩm mà hưu trí thì ngôi thứ và khẩu phần đều y theo nguyên phẩm. Quan từ tứ phẩm đến cửu phẩm về hưu thì ngôi thứ và khẩu phần cũng y theo nguyên phẩm, nhưng ở sau quan đương chức. Còn những hưu quan vị nhập lưu, thì ngôi thứ ở trên dân thực nạp và ở dưới học trò trúng khóa; khẩu phần cũng như thế.

4. Quan hay dân chết thì được để ruộng khẩu phần trong ba năm làm ruộng “tuất tang” (1. Nghĩa là ruộng để giúp đỡ nhà có tang.). Sau khi hết tang, quan từ ngũ phẩm trở lên thì vợ được chiếu nhận phần ruộng của chồng 5 phần 10; quan lục phẩm trở xuống

thì vợ được chiếu nhận ruộng của chồng 4 phần 10, làm ruộng “khuyến tiết” (1. Nghĩa là ruộng để khuyến khích người đàn bà thủ tiết.). Vợ con của hạng dân thì cấp theo lệ quả phụ cô nhi. Những người vợ ấy hoặc chết hoặc hết tang, hoặc cải giá, thì ruộng ấy trả lại dân để dùng vào việc công.

5. Số ruộng: Cứ hạn ba năm thì chia cấp ruộng một lần, chiếu theo bực ruộng xấu tốt chia cho đều. Khi đã quân cấp rồi mà có quan mới được thăng bổ hay dân hạng mới kén làm lính, và những dân đinh tục thêm thì cho xã dân trích lấy những ruộng của người chết đã mãn tang và đàn bà góa đi lấy chồng mà chia cấp. Nếu không có các thứ ruộng ấy thì đợi đến kỳ quân cấp sau, chiếu hạng cấp cho).

Tháng 5, dựng miếu Hội đồng ở xã Triều Sơn (thuộc huyện Hương Trà), cho 30 người dân làm miếu phu.

Sai Tham tri Hộ bộ là Nguyễn Hữu Đồng lãnh Cai bạ Phú Yên.

Lấy Lê Huy Du là tiến sĩ triều Lê trước làm Đốc học Sơn Tây và Tri phủ Lâm Thao là Nguyễn Thế Trung làm Đốc học Hải Dương.

Lấy Dương Vịnh làm trợ giáo Sơn Nam thượng, Nguyễn Khắc Tráng làm trợ giáo Sơn Nam hạ, Trần Danh Phác làm trợ giáo Hải Dương, Nguyễn Lý làm trợ giáo Sơn Tây, Võ Cơ làm trợ giáo Kinh Bắc. Trước các trấn đều đặt đốc học, đến nay quan Bắc Thành lại xin đặt thêm trợ giáo, bèn hạ lệnh thu dùng những hương cống triều Lê trước là bọn Dương Vịnh cho làm.

Bàn truy tôn huy hiệu các liệt thánh.

Chiếu nói: “Vương giả lấy đạo hiếu trị thiên hạ, mà đạo hiếu thì không gì lớn bằng tôn thân. Truy tôn tổ tông là để tỏ lòng kính mà đạt đạo hiếu. Các thánh vương trước xây dựng nghiệp vua, mở mang bờ cõi, trải đời nối nhau, một dòng nhân hậu, đạo công nghiệp đã thấm thía cả lòng người. Trẫm là người đức mỏng, gặp bước khó khăn mà có thể thu phục được ngôi cũ, mở mang được cõi mới, dựng thành nghiệp lớn ngày nay, cỗi sâu gốc bền là nhờ ở đời trước. Nhưng vừa mới đạt định, điển lễ chưa làm, nên tôn miếu vẫn theo hiệu cũ. Sâu nghĩ các bậc thánh vương trước, linh thiêng ở trời, ơn trạch ở người, các vương phi của liệt thánh cùng với liệt thánh sánh đôi, thêm dày Phước đức, đều nên tôn dâng huy hiệu để tỏ đức lớn. Vậy hạ lệnh cho các quan văn võ tra xét điển lễ, bàn định, thi hành”.

Cấp cho trưởng công chúa Ngọc Du mỗi năm tiền 1.000 quan, gạo 300 phương và con trai là Võ Khánh mỗi năm tiền 300 quan, gạo 120 phương, hai người con gái mỗi năm mỗi người tiền 200 quan, gạo 60 phương.

Dinh thần Quảng Bình tâu rằng: “Châu Bố Chính ngoại trước thuộc về Nghệ An, nay đổi lệ vào Quảng Bình, ngạch thuế có khác, xin đổi định lại cho thống nhất”. (Lệ cũ, ruộng một mẫu mỗi năm nộp thóc thuế 15 thăng, tiền thập vật 1 tiền, tiền tre 30 đồng, tráng hạng và biệt tính biệt nạp mỗi người mỗi năm nộp thuế thân 6 tiền, các hạng dân đinh lão, tật, nộp một nửa, tiền đầu quan đều 1 tiền).

Vua hạ lệnh thuế ruộng cứ theo cũ mà thu, còn thuế đinh thì đổi theo ngạch hộ ở Quảng Bình.

Dời trấn thành Thanh Hoa và Nghệ An đi nơi khác. Trước là khi vua Bắc tuần, xa giá đi qua lỵ sở hai trấn ấy. (Lỵ sở Thanh Hoa cũ ở xã Dương Xá huyện Đông Sơn, lỵ sở Nghệ An cũ ở xã Dũng Quyết huyện Chân Lộc), bàn muốn dời đi nơi khác, bèn trải xem địa thế, định lấy Thọ Hạc (tên xã, thuộc huyện Đông Sơn) làm trấn lỵ Thanh Hoa, An Trường (tên xã, thuộc huyện Chân Lộc) làm trấn lỵ Nghệ An, đến nay bắt dân xây đắp.

Sai Lê Văn Duyệt và Lê Quang Định biên binh và dân Quảng Ngãi làm mười kiên cơ. (Trung kiên nhất, Trung kiên nhị, Tiền kiên nhất, Tiền kiên nhị, Tả kiên nhất, Tả kiên nhị, Hữu kiên nhất, Hữu kiên nhị, Hậu kiên nhất, Hậu kiên nhị, cộng là 10 cơ). Chiếu rằng: “Bọn ác man gây họa, kể đã lâu rồi. Quân đến thì chúng nghe sợ trốn trước, quân về thì chúng lại thừa sơ hở trộm nổi lên. Nếu đem quân ở chỗ khác cho thay nhau đến thú ở đấy thì không quen thủy thổ, làm cũng không tiện. Vì vậy liệt thánh ta từng lấy người thổ trước chia làm sáu đạo, khiến họ tự giữ lấy, dân nhờ đó được yên. Nay ta có thể kính noi phép cũ để giữ yên ngoài biên, vậy bàn đặt mười kiên cơ. Phàm biền binh ở các dinh quân người nào quê ở Quảng Ngãi, từ phó đội trở xuống, đều cho về cùng với dân ở đấy biên thành cơ đội, chia phen đổi nhau đi thú, cho miễn thuế thân và dao dịch. Những chánh phó vệ úy, cai cơ, cai đội mà chưa cầm quân thì cũng cho về làm quản suất”.

Quan Bắc Thành tâu rằng: “Dân Lạng Sơn thưa thớt, sổ năm Giáp dần, giặc Tây Sơn phô trương quá số, năm Tân dậu cũng đã giảm bớt. Trước đây kén quân chỉ căn cứ vào sổ năm Giáp dần, dân chịu quá nặng. Nay xin theo sổ năm Tân dậu để bớt cho dân”. Vua y cho.

Đô thống chế Tiền dinh quân Thần sách là Phan Văn Triệu vì bệnh được về hưu trí; lấy Nguyễn Văn Trí thay.

Cho Phạm Văn Sơn là con Phạm Văn Sĩ Phó tướng Tiền quân và Nguyễn Văn An là con Nguyễn Văn Tánh án trấn Diên Khánh đều làm Cai đội tòng quân.

Tháng 6, truy tặng Chưởng dinh Tả thủy là Tôn Thất Cốc làm Chưởng dinh Khoáng quận công.

Nguyên Lễ bộ kiêm đốc học là Nguyễn Thái Nguyên chết. Thái Nguyên là người ngay thẳng, gặp việc dám nói. Vua dốc lòng nghe, từng nói với bầy tôi rằng: “Thái Nguyên có phong thế bề tôi can ngăn như người xưa”. Đến nay chết, tặng Thiếu phó và cho thụy là Trung Kính.

Lưu trấn Gia Định là Nguyễn Văn Nhơn tâu rằng: “Nay trong nước mới định mà công việc bắt dân làm luôn, sợ sinh ta thán, xin phát nhiều tiền bạc để thưởng cấp, khiến dân vui lòng mà quên mệt nhọc”. Chiếu báo rằng: “Khanh nói phải đó. Nhưng Kinh sư là đất căn bản, đặt hiểm để giữ nước, việc ấy không thể thiếu được. Nay chinh chiến mới yên, người ta còn quen sự khó nhọc, khó nhọc thì dễ khiến mà việc dễ nên. Nếu để vài năm sau thì dân quen yên rỗi, yên rỗi thì khó khiến mà oán thì dễ sinh. Trẫm nhân nhọc mà bắt nhọc luôn để xây dựng lấy chốn thần kinh, đó là kế nhọc một lần mà nghỉ mãi mãi. Quân dân đi làm việc, trẫm đã ưu cấp cho. Ngươi nói không giấu giếm, trẫm rất khen ngợi”. Lê Văn Duyệt từng lấy sự nhọc dân để can. Cũng lấy ý ấy mà hiểu dụ.

Cung thành và hoàng thành đã làm xong. Thả biền binh Bắc Thành ứng dịch về quê nghỉ ngơi, thưởng mỗi người một quan, từ đội trưởng trở lên thưởng thêm hai tháng tiền bổng.

Miễn thuế thân năm nay cho các thợ làm việc ở Kinh. Lại hạ lệnh cho hai bộ Công Hộ ghi tên vào sổ, để thưởng cấp cho tiền và quần áo theo thứ bực khác nhau.

Truy tặng cha Hoàng hậu là Ngoại tả chưởng dinh kiêm chưởng sứ Khuông quận công Tống Phước Khuông làm Suy trung dực vận công thần đặc tiến khai phủ phụ quốc thượng tướng quân thượng trụ quốc thái bảo Khuông quốc công, thụy là Cung ý; tổ là Nội hữu chưởng cơ kiêm Công bộ chưởng sứ sự Thành tín hầu Tống Phước Thành làm Tán trị công thần đặc tiến khai phủ phụ quốc thượng tướng quân thượng trụ quốc chưởng dinh Thành quận công, thụy là Đôn Chất; tằng tổ là Nội hữu cai cơ Dương trung hầu Tống Phước Dương làm Đồng đức công thần đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân thượng trụ quốc chưởng cơ Dương quận công, thụy là Chất Trực; cao tổ là Chính dinh cai cơ Đức nghĩa hầu Tống Phước Đức làm Dương võ công thần quang tiến trấn quốc đại tướng quân Cẩm y vệ chưởng vệ sự chưởng cơ, thụy là Uy Dũng. (Năm Minh Mệnh thứ 13, gia tặng Thái bảo Khuông quốc công làm Đặc tiến tráng võ đại tướng quân Tiền quân đô thống phủ chưởng phủ sự, phong Quy quốc công).

Dời mộ Thái bảo Khuông quốc công đến Long Hồ. Ngày táng, vua thân đến đưa.

Ban áo mãng bào [thêu rồng bốn móng] cho bọn Nguyễn Văn Trương, Phạm Văn Nhơn và Nguyễn Đức Xuyên.

Bắc Thành nước lớn, đê vỡ, thành thần đem thóc kho phát chẩn rồi đem việc tâu lên. Vua sai quan địa phương xét những người bị tai nạn nhiều quá thì cho vay tiền để đong thóc giống gieo mạ, không bỏ lỡ mùa màng.

Triệu Tham tri Binh bộ ở Gia Định là Lê Công Xuân, Tri Đồ gia là Đoàn Công Nghi và Nguyễn Hữu Thứ về Kinh, sai Thị học Huỳnh Công Xuân, Thư ký Trần Văn Lễ, Tri bạ Lê Văn Bích quyền lãnh các công việc ấy. Lê Công Xuân đáp theo thuyền bang, gặp bão đắm chìm ở ngoài biển Cần Giờ. Vua thương xót, truy tặng Lễ bộ.

Đóng 20 chiếc thuyền hải đạo. Sai Nghệ An chọn 200 người thợ đóng thuyền sung làm công việc ấy.

Thu thuế diêm tiêu ở Lạng Sơn, cho thổ mục Ôn Châu là Hoàng Đình Thích cai quản. Đó là theo lời xin của quan Bắc Thành.

Sai Tham tri Hộ bộ là Lê Viết Nghĩa tra xét tiền lương và thuế sản vật ở Gia Định.

Nước Hồng Mao sai sứ đến dâng phương vật, dâng biểu xin thông thương. Lại xin cho người nước ấy ở lại Đà Nẵng, đi lại buôn bán. Vua nói: “Tiên vương kinh dinh việc nước, không để người Hạ lẫn với người Di, đó thực là cái ý đề phòng từ lúc việc còn nhỏ. Người Hồng Mao gian giảo trí trá, không phải nòi giống ta, lòng họ hẳn khác, không cho ở lại, ban cho ưu hậu mà khiến về, khước từ những phương vật họ hiến”. Rồi sau bọn Hội Thương Trọng (tên quan Hồng Mao) hai ba lần dâng thư yêu cầu. Cuối cùng vua cũng không cho.

Yên phần mộ Thiệu Long giáo chủ Nguyễn thị ở An Cựu. Giáo chủ là vợ thứ hai của Thế tông Hiếu võ hoàng đế, gặp biến loạn năm Giáp ngọ, bà đi tu ở chùa Phước Thành, đến nay mất, sách tặng làm Tuệ Tĩnh thánh mẫu nguyên sư, hiệu là Thiệu Long giáo chủ. Sai Phó tướng quân Thần võ là Trần Quang Thái và Cai đội đội Thị trà là Trương Phước Thọ lo liệu việc tang. Ngày an táng, vua thân đến đưa.

Sai Tham tri Công bộ là Nguyễn Đức Huyên đi Nghệ An coi đóng 100 ô thuyền, chở 100.000 phương gạo ở Bắc Thành cấp cho lính và thợ ứng dịch.

Cấm dân gian không được lấy bán các thứ gỗ cấm (gỗ táu, gỗ lim, gỗ giáng hương), làm trái thì xử tội nặng. Thuyền buôn nước ngoài mua trộm các thứ ấy thì cũng bị tội như thế. Trước khi cấm mà đã lỡ bán thì phải nộp hết cho quan, trả tiền đúng giá.

Sai Lễ bộ bàn định nơi thờ các công thần ở đền Hiển trung Gia Định, cộng 1.015 người, gửi cho lưu trấn thần chế bài vị để thờ.

Thờ ở gian giữa là : Chưởng Hậu quân bình Tây tham thặng đại tướng quân tặng Thái úy quốc công Võ Tánh, Lễ bộ tặng Thái tử thái sư quận công Ngô Tùng Châu ; cho ứng nghĩa đạo thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Tấn Huyên phối hưởng.

Thờ ở gian tả nhất là : Ngoại tả chưởng dinh bình Tây đại đô đốc phủ chưởng phủ sự quận công Châu Văn Tiếp ; chưởng Tiền quân điều bát chư đạo bộ binh bình Tây đại tướng quân quận công Tôn Thất Hội, Thần sách quân Trung dinh đô thống chế tặng Thiếu bảo quận công Tống Viết Phước, Hậu dinh đô thống chế tặng Thiếu bảo quận công Mai Đức Nghị, Thuộc nội cai cơ quản ngũ thủy dinh tặng Thiếu bảo quận công Võ Di Nguy, Tiết chế Tả quân đô đốc tặng Đô đốc phủ chưởng phủ sự chưởng dinh quận công Nguyễn Cửu Dật, Phó tiết chế nội tả chưởng dinh tặng Đô đốc phủ chưởng phủ sự chưởng dinh quận công Nguyễn Cửu Tuấn, Ngoại hữu chưởng dinh lãnh đại tư nông tặng Hữu quân đô đốc phủ chưởng phủ sự quận công Tôn Thất Dụ, Nội tả chưởng dinh tặng Tả quân đô đốc phủ chưởng phủ sự quận công Nguyễn Văn Chính, Tổng nhung chiêu thảo sứ chưởng cơ tặng Chưởng dinh quận công Nguyễn Thành, cộng 10 người.

Thờ ở gian hữu nhất là : Trung dinh giám quân chưởng cơ tặng Hữu phủ chưởng dinh quận công Nguyễn Hữu Thoại, Ngoại tả chưởng dinh tặng Hữu quân đốc phủ chưởng phủ sự chưởng dinh quận công Nguyễn Đình Thuyên, Chưởng cơ tặng Chưởng dinh quận công Nguyễn Kim Phẩm, Chưởng cơ quản Phiên Trấn binh dân chư vụ tặng Chưởng dinh quận công Trần Xuân Trạch, Nội thủy chưởng cơ kiêm Công bộ cai Nội mã cai Tàu vụ tặng Chưởng dinh quận công Tôn Thất Cốc, Chưởng cơ tặng Chưởng dinh quận công Tống Phước Hòa ; Lễ bộ kiêm đốc học tặng Thiếu phó Nguyễn Thái Nguyên, Trấn thủ chưởng cơ tặng Chưởng dinh Bùi Kế ; Ngự lâm quân Tiền đồn Đô thống chế tặng Chưởng cơ Đoàn Văn Cát, Trung đồn Phó thống chế tặng Chưởng cơ Huỳnh Công Thành, cộng 10 người.

Thờ ở gian tả nhị là : Ngự lâm quân Tả đồn Phó thống chế tặng Chưởng cơ Võ Đinh Giai, Chấn võ quân phó tướng tặng Chưởng dinh Nguyễn Văn Lợi, Trung thủy dinh Thống chế tặng Chưởng dinh Tống Phước Châu, Chưởng cơ quản Nội trực vệ tặng Chưởng dinh Lê Văn Tín, Thần sách quân Trung võ vệ Vệ úy tặng Chưởng dinh Trần Văn Xung, Dũng võ vệ Vệ úy tặng Chưởng dinh Trương Văn Hoáng, Thượng đạo Chưởng cơ tặng Chưởng dinh Đặng Văn Lượng, Chưởng cơ quản Thần võ vệ tặng Chưởng dinh Nguyễn Văn Kỷ, Tiên phong dinh Cai cơ tặng Chưởng cơ Đào Văn Long, Cai cơ tặng Chưởng cơ Châu Văn Bích, Tổng nhung chưởng cơ Huỳnh Tấn Cảnh, Cai cơ quản Tả hầu đạo tặng Chưởng cơ Huỳnh Văn Duyệt, Tổng nhung cai cơ tặng Chưởng cơ Hà Văn Lộc, Thống binh Cai cơ tặng Chưởng cơ Phan Văn Nhị, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Hương và Châu Huề, Tả quân cai cơ tặng Chưởng cơ Lê Văn Mai, Hậu quân cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Thành, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Lượng, Phan Văn Tấn, Lê Sương, Nguyễn Quận, Phạm Văn Thịnh, Bùi Văn Nghị, Nguyễn Văn Phượng và Nguyễn Sương, Thống binh cai cơ quản chi đạo tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Luận, Thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Hoàng Quỳnh, Tổng nhung cai cơ tặng Chưởng cơ Đinh Văn Long, Tiền quân cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Lân, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Lượng, Ngô Cẩm, Tống Văn Trung, Nguyễn Văn Minh và Trần Văn Vạn, Cai cơ quản Hữu quân đạo tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Tài, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Bình, Thuộc nội cai cơ tặng Chưởng cơ Võ Văn Chính, Phiên Trấn cai cơ suất Tân nhung đội tặng Chưởng cơ Nguyễn Chương, Thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Vân, Cai cơ tặng Chưởng cơ Lê Văn Cẩn, Nguyễn Công Hổ và Hoàng Lịch ; Tổng nhung cai cơ tặng Chưởng cơ Hồ Văn Huê, Hậu quân cai cơ tặng Chưởng cơ Ngô Văn Lễ, Cai cơ tặng Chưởng cơ Lưu Văn Trí, Ngô Đằng và Nguyễn Quả, Tả quân cai cơ tặng Chưởng cơ Huỳnh Văn Nghiêm, Giám quân cai cơ tặng chưởng cơ Nguyễn Văn Thảo, Thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Hoàng Lộc, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Lý và Ngô Nghĩa, Hậu quân Trung kích vệ Cai đội tặng Chưởng cơ Trần Văn Liễu, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Đằng, Thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Trần Tú, Đốc chiến cai cơ tặng Chưởng cơ Phạm Văn An, Tổng binh cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Long, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Vạn, Nguyễn Văn Liêm và Dương Văn Hạnh, Trung quân võ giáp Cai cơ tặng Chưởng cơ Trương Phước Khoát, Cai cơ tặng Chưởng cơ Lê Phước Điến, Thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Đặng Văn Thúy, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Phú, Vĩnh Trấn Lưu thủ tặng Chưởng cơ Nguyễn Đăng Chiêu, Thuộc nội thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Triệu, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Tường, Thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Tống Văn Phước, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Lễ, Nguyễn Giám và Nguyễn Thái, Tổng nhung cai cơ hành Vĩnh Trấn Lưu thủ tặng Chưởng cơ Phan Văn Huyên, Tả quân Thần oai vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Dũng, Thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Hà Văn Lộc, Tổng nhung cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Loan, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Hoan, Lê Cẩm, Đỗ Điền, Trấn Định Lưu thủ cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Thuận, Cai cơ tặng Chưởng cơ Lưu Danh Trung,  và Nguyễn Văn Lễ, Thuộc nội cai cơ tặng Chưởng cơ Võ Văn Tụy, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Thiện và Lê Văn Lan, Tổng nhung cai cơ tặng Chưởng cơ Phạm Văn Thạc, Thuộc nội cai cơ tặng Chưởng cơ Bùi Liêm, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Kỷ, Nguyễn Mân, Nguyễn Công Thoại, Thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Phạm Văn Khánh, Chấn võ dinh Võ liệt đội Cai cơ tặng Chưởng cơ Trần Văn Thuận, Cai cơ tặng Chưởng cơ Trần Phước, Trấn Định Lưu thủ tặng Chưởng cơ Khương, Cai cơ tặng Chưởng cơ Lê Quản, Nguyễn Ngộ và Nguyễn Văn Châu, Hộ bộ Tả tham tri tặng Hộ bộ Nguyễn Văn Mỹ, Phiên Trấn Cai bạ tặng Hộ bộ Nguyễn Văn Thiệm, Bình Định Ký lục tặng Tham mưu Huỳnh Văn Tấn, Thần sách tham quân tặng Tham tán Nguyễn Duy Hàn, Tả thủy dinh tham luận tặng Tham mưu Ngô Văn Thành và Nguyễn Văn Hương, Hậu quân tri bạ tặng Cai bạ Võ Văn Điệu, Tri bạ tàu tặng Cai bạ tàu Lâm Tể, Hàn lâm viện chế cáo tặng Ký lục Phan Chính Trọng, Thống binh cai cơ Nguyễn Đoài, Lê Trung, Lê Sương, Nguyễn Bức, Nguyễn Thái, Tống Triêm, Nguyễn Toán và Nguyễn Anh, Tổng nhung cai cơ Đặng Nhĩ, Trương Lý và Phan Kính, Cai cơ Nguyễn Nghiêm, Cao Hóa, Nguyễn Châu, Nguyễn Minh, Nguyễn Hiền, Nguyễn Thọ, Võ Loan, Nguyễn Sĩ, Nguyễn Lân, Nguyễn Thịnh, Lương Nhị, Phạm Hưng, Lê Quỳnh, Lâm Phú, Đỗ Nghị, Nguyễn Quyền và Lê Hào, Cai cơ quản Trung khuông đội tặng Cẩm y vệ chưởng vệ sự người Phú Lãng Sa Màn Hòe, Chấn phong vệ Đội trưởng tặng Cai cơ Nguyễn Ký, Kiên uy chi Cai cơ Phạm Du, Tiền kích vệ Đốc chiến tặng Cai cơ Nguyễn Vinh Quý, Tuyển phong tiền vệ Vệ úy cai đội tặng Cai cơ Nguyên Khoa, Ban trực hữu vệ Vệ úy tặng Cai cơ Tôn Thất Nông, Túc võ vệ Phó vệ úy tặng Cai cơ Nguyễn Phong Lương, Võ vệ phó vệ úy tặng Cai cơ Trần Tại, Trung kích vệ Phó vệ úy tặng Cai cơ Trần Văn Tu, Ban Trực tuyển phong hậu vệ Phó vệ úy tặng Cai cơ Hoàng Tân, Uy võ vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Nguyễn Di, Tín uy vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Lê Mỹ, Cai đội tặng Cai cơ Nguyễn Hương, Tô Nghiêm, Bùi Huấn, Nguyễn Cẩm, Nguyễn Giáo, Đặng Trang, Tô Huấn, Phạm Khách, Nguyễn Uy Võ Hưng, Trần Huấn, Nguyễn Thiện, Võ Lương, Trần Thuận, Phạm Nghị, Nguyễn Tuấn, Đinh Phương, Hà Thống, Phạm Quế, Nguyễn Triệu, Nguyễn Liêm, Nguyễn Thúy, Nguyễn Đạo, Nguyễn Đặng, Lê Viết, Đặng Trung, Nguyễn Tự, Lê Hiền, Lê Long, Nguyễn Sĩ, Trần Diệu, Nguyễn Khoa, Hoàng Pháp, Châu Tứ, Nguyễn Diệu, Trần Mã, Hoàng Luyện, Hoàng Chấn, Nguyễn Ngộ, Nguyễn Điền, Trần Cẩm, Nguyễn Danh Huệ, Nguyễn Phân, Nguyễn Thống, Nguyễn Thuận Lượng, Thanh Lại Đào, Phạm Huề, Nguyễn Danh Thái, Nguyễn Đức, Đặng Lộc, Nguyễn Triều, Nguyễn Tiến, Nguyễn Nhạn, Nguyễn Chấn, Trương Lục, Trương Long, Trương Nhai, Nguyễn Hữu, Nguyễn án và Võ Thiêm, Hàn lâm viện tặng Tham luận Lê Minh, Chánh y viện tặng Thái y viện Trương Truân, Nội ý viện tặng Chánh ý viện Trần Tô, Tri huyện tặng Tri phủ Hoàng Khuê, cộng 221 người.

Thờ ở gian hữu nhị là : Trung quân Tiền chi Hiệu úy thuộc nội cai cơ tặng Chưởng dinh Nguyễn Văn Đắc. Lại bộ tặng Tham chính Nguyễn Bảo Trí, Hộ bộ tặng Tham chính Trương Đức Khoan và Trần Phước Nhai, Tuyên úy sứ thị giảng hành lễ bộ sự tặng Lễ bộ thượng thư Nguyễn Đô, Thuộc nội cai cơ quản Tiểu sai đội tặng Chưởng cơ Đỗ Văn Hữu, Thuộc nội cai cơ quản Tiền trực vệ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Mẫn, Cai cơ tặng Chưởng cơ Trần Văn Chấn, Hồ Văn Khách, Nguyễn Văn Đán và Phạm Văn Thịnh, Hậu quân Nghị võ vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Công Giao, Chiêu võ vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Phụng, Hữu quân Võ lương vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Phan Văn Thịnh, Tả quân Thần võ vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Sử, Thần dũng vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Thông, Thần lược vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Mai Văn Bảo, Thần sách quân Quảng võ vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Triệu, Hậu quân Hùng phong vệ Phó vệ úy tặng Chưởng cơ Trần Văn ất, Túc trực vệ Phó vệ úy tặng Chưởng cơ Lê Văn Ngoạn, Thần sách quân Uy võ vệ Phó vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Phương Hùng võ vệ Phó vệ úy tặng Chưởng cơ Trần Văn Huy, Hậu quân Hữu chi Phó chưởng chi cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Cẩn, Ngự lâm quân Trung chi Chánh trưởng chi tặng Chưởng cơ Phượng, Phó quản Tiền thủy dinh thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Huỳnh Văn Định, Thượng đạo Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Đình Lan, Tiền quân Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Toán, Võ Văn An, Hậu quân chánh quản Trung kích vệ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Tường, Hậu quân phó tướng Nguyễn Công Đề, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Uy và Nguyễn Công Thành, Hậu quân quản Tiền thủy dinh Thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Huấn, Tiền quân Phó tướng tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Thư, Thần sách quân Diệu võ vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Trương Văn Bỉnh, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Định, quản Đông Khẩu đạo Tổng nhung cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Nghiêm, Tả quân Tiền chi Chánh trưởng chi cai cơ tặng Chưởng cơ Võ Văn Cẩn, Trung thủy dinh Hậu chi Chánh trưởng chi cai cơ tặng Chưởng cơ Đặng Văn Đoài, Hữu quân Hữu chi Phó trưởng chi cai cơ tặng Chưởng cơ Dương Công Tú, Thượng đạo quản Tả chi Cai cơ tặng Chưởng cơ Quách Công Nghi, Trấn Biên Lưu thủ tặng Chưởng cơ Đoàn Văn Khoa, Thuộc nội cai cơ quản Long điện vệ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Liêm, Thuộc nội cai cơ chánh giám thành sứ tặng Chưởng cơ Tô Văn Đoài, Thuộc nội cai cơ quản Tiền chi tặng Chưởng cơ Mai Công Quý, Quản Tiểu sai đội Tống Phước Ngọc, Quản Tiểu sai đội tri Tượng chính cai Trường đà sự tặng Chưởng cơ Trương Phước Luật, Thần sách quân Hậu dinh phó đô thống chế tặng Chưởng cơ Tôn Thọ Vinh, Phiên Trấn lưu thủ cai cơ tặng Chưởng cơ Trương Văn Giao, Đốc chiến cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Thuận, Tiền quân Phó tướng chưởng cơ Phạm Văn Sĩ, Bình Khang Lưu thủ tặng Chưởng cơ Nguyễn Thuyên, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Đăng Vân, Thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Thành, Hậu thủy dinh Thống nhung cai cơ bảo hộ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Nhơn, Nội dực vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Hiên, Tả thủy dinh chánh dinh Thuộc nội cai cơ tặng Chưởng dinh Nguyễn Hữu Nghị, Cai cơ suất Tả binh đội tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Định, Thần sách quân Tuyển phong hậu vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Đoàn Cảnh Cư, Ban trực tuyển phong tiền vệ Vệ úy tặng Chưởng dinh Nguyễn Văn Hữu, Ban trực tả vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Võ Văn Đổ, Dương võ vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Lê Văn Thuận, Cung võ vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Huỳnh Văn Tứ, Ban trực hữu vệ Phó vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Đăng, Chánh sứ cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Đăng, Chánh sứ cai cơ tặng Chưởng cơ Mai Văn Tĩnh, Tiền thủy dinh Tiền chi Chánh trưởng chi cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Thái, Tiền thủy dinh Thống binh cai cơ Nguyễn Văn Cẩm, Hậu quân Hùng phong vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Phạm Văn Trường, Uy võ vệ Vệ úy tặng Chưởng dinh Huỳnh Phước Bảo, Dương võ vệ Phó vệ úy tặng Chưởng dinh Nguyễn Vĩnh Hữu, Tuyển phong hậu vệ Phó vệ úy tặng Chưởng cơ Đoàn Phước Tân, Trấn Biên Lưu thủ tặng Chưởng cơ Võ Tiến Đẩu, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Loan, Thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Dụ Kỷ, Tổng nhung cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Dực, Thuộc nội cai cơ quản Tiểu sai đội tặng Chưởng cơ Bùi Văn Khoan, Cai cơ tặng Chưởng cơ Bùi Văn Điển, Quản Trung thủy dinh cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Uy, Thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Phan Văn Viện, Tiền quân Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Dao, Thượng đạo An võ chi Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Tuy, Chấn võ dinh Tả chấn chi Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Quận, Thanh Châu đạo Cai cơ tặng Chưởng cơ Đoàn Công Duệ, Hữu quân Hữu chi Chánh trưởng chi cai cơ tặng Chưởng cơ Dương Công Bảo, Thuộc nội cai cơ quản Tuyển phong tả vệ tặng Chưởng cơ Lê Thành Lý, Tả quân Tả chi Phó trưởng chi cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Đình Phong, Cai cơ tặng Chưởng cơ Hoàng Bản, Nguyễn Chân, Cai cơ suất Tả bộ cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Nghi, Tiền quân Trung chi Trưởng hiệu cai cơ tặng Chưởng cơ Phạm Công Trung, Lương võ vệ Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Võ, Tiên phong dinh Cai cơ tặng Chưởng cơ Lê Văn An, Hậu quân Cai cơ tặng Chưởng cơ Võ Văn Nhật, Trung quân Kiến võ chi Cai cơ tặng Chưởng cơ Lê Văn Doãn, Thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Huỳnh Công Tín, Binh bộ Tả tham tri tặng Binh bộ Trần Phước Truy, Tham tán tặng Tham khám Trần Văn Thức, Hồ Công Siêu và Nguyễn Văn Tuân, Tán lý tặng Tham khám Đỗ Văn Hoáng, Tham mưu tặng Tham nghị Huề, Trấn Định Cai bạ tặng Hộ bộ Tôn, Thượng đạo Tham mưu tặng Tham nghị Lê Văn Xuân, Tham mưu tặng Tham nghị Nguyễn Công Hoáng, Nguyễn Hoài Châu, Nguyễn Nhơn và Nguyễn Tri, Tham mưu Võ Danh Sở, Bình Định Cai ba tặng Tham mưu Nguyễn Văn Tường, Thuộc nội cai đội quân Tiểu sai đội kiêm suất trung hầu các thuyền tặng Cai cơ Nguyễn Kỷ, Thần lược vệ Phó vệ úy tặng Cai cơ Phan Đăng Hào, Túc võ vệ Phó vệ úy tặng Cai cơ Nguyễn Tiến Quỳnh, Trung dinh giám quân Cai đội tặng Cai cơ Tống Phước Đạm, Tổng nhung cai cơ Nguyễn Công Huệ, Hồ Vân, Nguyễn Sâm, Nguyễn Giáo, Nguyễn Thanh, Nguyễn Khương, Thống binh cai cơ Phan Dụ, Nguyễn Phong, Bùi Vãng, Nguyễn Chiêu, Dương Đông, Nguyễn Kính, Nguyễn Chính, Cao Thanh, Đặng Cẩm, Nguyễn Hảo, Phạm Trị, Lê Lễ, Lê Bình, Cai cơ Nguyễn Thịnh, Nguyễn Trung, Phan Thiện, Trần Nghiêm, Võ Anh, Nguyễn Trị, Nguyễn Lộc, Nguyễn Điền, Hồ Tuấn, Võ Loan, Hồ Thuận, Hoàng Sĩ, Nguyễn Trại, Đặng Hương, Nguyễn Duyên, Hà Nhạn, Nguyễn Càn, Nguyễn Thọ, Hoàng Trung, Lê Diên, Hoàng Nguyệt, Hoàng Nhan, Nguyễn Châu, Nguyễn Lộc, Hà An, Võ Dực, Nguyễn Thanh, Nguyễn Giáo, Đặng Triệu, Trần Diệu, Nguyễn Văn, Nguyễn Thoại, Nguyễn Hùng, Trần Quyên, Trần Nhị, Phạm Giảng, Nguyễn Long, Đoàn Sở, Nguyễn Quả, Trần Sách, Trà Diệu, Bùi Gia, Nguyễn Danh Huệ, Hoàng Tuyên, Dương Diệu, Nguyễn Tiến, Bạch Chấp, Kiên uy vệ Phó vệ úy tặng Cai cơ Dương Thi, Ban trực Tuyển phong hậu vệ Phó vệ úy tặng Cai cơ Dương Bá Quy, Đội trưởng tặng Cai cơ Lâm Phú, Cai đội tặng Cai cơ Nguyễn Đức Huân, Hồ Huệ, Hồ Tĩnh, Trần Điểu, Trần Viễn, Nguyễn Yến, Nguyễn Lương, Mai Tường, Lê Trí, Hồ Thủ, Hồ Hóa, Dương Quế, Phan Dĩnh, Lê Thao, Nguyễn Long, Nguyễn Triêm, Nguyễn Thoại, Nguyễn Định, Lê Cẩn, Võ Định, Trần Thục, Nguyễn Toán, Tăng Viết, Nguyễn Hiếu, Hồ Siêu, Mai Duật, cộng 221 người.

Thờ ở gian chái bên tả là : Cai đội tặng Cai cơ Nguyễn Văn Hòa, Lưu Đức Hiến, Lưu Văn Trung, Mai Đức Luật, Trần Văn Toán, Lê Văn Hậu, Nguyễn Văn Thạch, Nguyễn Khương, Đinh Văn Tam, Tống Văn Đồng, Ngô Văn Lễ, Nguyễn Văn Sơn, Nguyễn Văn Ân, Nguyễn Văn Luật, Phan Văn Hiến, Nguyễn Đình Thạch, Nguyễn ý, Nguyễn Cảnh, Lê Phước, Nguyễn Huề, Võ Linh, Nguyễn Thái, Nguyễn Duy, Nguyễn Tứ, Đặng Dực, Võ Thành, Nguyễn Trường, Nguyễn Chất, Đỗ Tuy, Nguyễn Ngoạn, Tống Tường, Nguyễn Trận, Nguyễn Khang, Phạm Hóa, Lê Búa, Võ Hiếu, Trần Tứ, Nguyễn Doãn, Nguyễn Toản, Nguyễn Nguyên, Nguyễn Huyên, Phan Chử, Phan Khương, Nguyễn An, Nguyễn Quý, Cao Lục, Đặng Lương, Cao Trí, Nguyễn Toán, Nguyễn Bình, Nguyễn Cung, Nguyễn Liễn, Nguyễn Vân, Lê Lạng, Nguyễn Trì, Ngô Hiến, Phan Hổ, Biện Vĩnh, Lê Nho, Nguyễn Vệ, Nguyễn Lưu, Bùi Triêm, Nguyễn Bức, Nguyễn Thận, Nguyễn Khoa, Tống Viết Khánh, Nguyễn Thuyên, Lê Lực, Nguyễn Hòa, Nguyễn Lượng, Cai đội tặng Khâm sai cai đội Nguyễn Khúc, Nguyễn Nhẫn, Nguyễn Nho, Nguyễn Nguyên, Trần Toán, Tống Lộc, Trần Nghĩa, Đỗ Huề, Lê Khoan, Nguyễn Huyên, Nguyễn Tường, Lê Lý, Lê Cảnh, Nguyễn Danh Khanh, Trương Bảo, Nguyễn Thanh, Nguyễn Hiền, Nguyễn Thoại, Đặng Hóa, Hoàng Trung, Hoàng Đông, Nguyễn Xuân, Nguyễn Danh Châu, Nguyễn Trúc, Nguyễn Minh, Nguyễn Tại, Phạm Xiêm, Phạm Cao, Lâm Nhiễm, Nguyễn Thành, Hoàng Quý, Trần Phượng, Nguyễn Tính, Nguyễn Sạ, Nguyễn Vãng, Trần Dụng, Lê Ân, Lê Thỏa, Nguyễn Hưng, Lê Long, Nguyễn Viên, Trần Thành, Nguyễn Sương, Hoàng Lễ, Lê Túc, Nguyễn Bang, Nguyễn Đào, Lê Tuyên, Trần Chấn, Nguyễn Càn, Võ Linh, Nguyễn Tam, Nguyễn Điều, Nguyễn Huấn, Hồ Tĩnh, Dương Thiêm, Trần Kỷ, Nguyễn Thái, Nguyễn Nhiên, Hoàng Chân, Võ Thịnh, Nguyễn Quỳnh, Trần Thường, Nguyễn Xung, Nguyễn Phú, Nguyễn Tự, Nguyễn Dự, Trần Cần, Trần Tuyết, Nguyễn Thịnh, Nguyễn Trung, Nguyễn Viết, Trương Tĩnh, Nguyễn Thảo, Đặng Đức, Ô tàu thuyền trưởng tặng Khâm sai cai đội Nguyễn á Trượng, Phó đội tặng Cai đội Võ Thành, Nguyễn Chính, Hồ Tuân, Nguyễn Hiền, Hoàng Cần, Lê Nghĩa, Nguyễn Ngữ, Đội trưởng tặng Cai đội Trần Mẫn, Phạm An, Trương Tính, Nguyễn Phong, Trương Nguyệt, Nguyễn Thanh, Đặng Xuân, Nguyễn Vũ Hòa, Phạm Vọng, Nguyễn Biện, Trần Tân, cộng 275 người.

Thờ ở gian chái bên hữu là : Cai đội tặng Cai cơ Nguyễn Hòa, Nguyễn Nguyên, Lê Giang, Bạch Chiếm, Nguyễn Tính, Đinh Thùy, Đặng Nghị, Võ Thận, Võ Trung, Mai Liên, Lê Đạm, Nguyễn Lễ, Đặng Trí, Nguyễn Hiền, Nguyễn Tĩnh, Lê Lộc, Nguyễn Trí, Trần Thịnh, Nguyễn Thảo, Bùi Ngữ, Trần Chân, Nguyễn Chử, Trần Tuấn, Trần An, Nguyễn Thông, Lê Tòng, Phan Minh, Nguyễn Tiến, Nguyễn Thanh, Nguyễn Danh Hòa, Nguyễn Phượng, Đào Tĩnh, Nguyễn Danh Minh, Đinh Tiềm, Bùi Thái, Trần Khách, Trần Lượng, Cao Nhẫm, Nguyễn Loan, Phan Ân, Nguyễn Trì, Nguyễn Tâm, Võ Thương, Nguyễn Nhơn, Nguyễn Công, Hoàng Thao, Nguyễn Lưỡng, Hồ Thái, Võ Hương, Trần Bản, Nguyễn Hùng, Phan Thanh, Lê Trinh, Lê Khả, Võ Lan, Nguyễn Khang, Lê Duệ, Nguyễn Huy, Nguyễn Thuận, Nguyễn Phượng, Phan My, Lại Mân, Hoàng Thọ, Nguyễn Thịnh, Trần ất, Nguyễn Hổ, Nguyễn Văn Ngân, Nguyễn Thuận, Nguyễn Danh Tính, Tham luận tặng Tham mưu Đặng Huy Chiêu, Võ Công Tường, Cống sĩ viện tặng Tham luận Nguyễn Ngoạn, Nguyễn Vũ, Trần Hữu án, Lê Tước, Phạm Doãn, Nguyễn Bản, Lê Huệ, Lê Nhiễm, Dương ý, Cai đội Đặng Thường, Trần Trí, Trần Yến, Nguyễn Đức, Nguyễn Thụ, Nguyễn Liêu, Nguyễn Giảng, Hồ Ngạn, Nguyễn Dũng, Nguyễn Mỹ, Võ Tự, Nguyễn Cù, Nguyễn Sĩ, Hồ Tống, Hoàng Thản, Đội trưởng tặng Cai đội Nguyễn Văn, Đoàn Thuận, Nguyễn Nghĩa, Trần Duyên, Lê Định, Võ Soạn, Nguyễn Điệu, Nguyễn Tần, Hồ Đàm, Đoàn Triệu, Đội trưởng tặng Phó đội Đỗ Quỳnh, Dương Mỹ, Lê Tham, Nguyễn Bảo, Đỗ Mỹ, Hồ Đức, Nguyễn Lệ, Bùi Thị, Trịnh Đông, Lê Cúc, Huấn đạo tặng Tri huyện Ngô Khuông, Cai hạp tặng Câu kê Ngô Nghĩa, Nguyễn Tú, Trần Ân, Cai hợp Phạm Ô, Đội trưởng Nguyễn Định, Trương Sách, Đội trưởng Nguyễn Thảo, Nguyễn Trương, cộng 275 người.

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển XXV – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Giáp tý, Gia Long năm thứ 3 [1804], mùa thu, tháng 7, ngày mồng 1, tế thu hưởng.

Định hạn ngày đệ trạm. Phàm phái người chuyển đệ công văn theo trạm, từ Gia Định đến Kinh là 13 ngày, từ Bắc Thành đến Kinh là 5 ngày, đúng hạn thì được thưởng tiền theo thứ bực khác nhau. (Gia Định thưởng 5 quan, Bắc Thành thưởng 3 quan). Chậm 1, 2 ngày không thưởng, chậm 3, 4 ngày phạt 30 roi. Chuyển đệ vật công thì không bắt theo hạn ấy. Nếu người phái giữa đường bị ốm thì cho dịch mục sở tại lĩnh lấy đệ đi.

Bình Định có bệnh dịch, sai dinh thần bãi công tác không cần gấp.

Thanh Hoa bị gió bão và nước lụt, trấn thần xin bãi việc quân dân lấy đá. Vua y cho.

Đông Trì bị cháy, cháy lan tới hơn 100 nhà. Vua thấy nơi ấy nhà cửa chật hẹp, bèn sai Giám thành sứ Nguyễn Văn Yên chia vạch xóm làng, đề phòng nạn cháy.

Lấy dân Quảng Đức sửa đắp đường quan ở ngoại thành.

Sai hai trấn Thanh Hoa, Nghệ An hợp tính số gạo lương chứa trong kho, làm sổ tâu lên.

Định nghi thức cho các địa phương mừng lễ khánh tiết hằng năm. Tiết Vạn thọ (1. Sinh nhật của vua.), các thành và dinh trấn sai quan đem biểu và lễ mừng đến Kinh dâng tiến. Tới ngày các quan địa phương đều đem liêu thuộc đến Hành cung bái vọng. Hai tiết Thánh thọ (1. Sinh nhật của cha mẹ vua.) và Thiên thu (2. Sinh nhật của hoàng hậu.  ), chỉ dâng biểu và lễ mừng, miễn bái vọng.

Triệu Hình bộ Gia Định là Nguyễn Cử Châu về Kinh cho lĩnh việc Hình bộ. Dụ rằng : “Người nên làm sáng tỏ hình pháp, giúp đỡ giáo hóa xét rõ oan uổng, sao cho hợp với đạo trung”.

Định lệ thuế cho người Man nộp thuế ở đạo Cam Lộ. Buổi quốc sơ, thuế người Man đều có định ngạch. Giặc Tây Sơn đòi thu quá lệ, làm dân Man khổ sở. Đến nay dinh thần Quảng Trị đem việc tâu lên. Vua sai xét rõ ngạch cũ, châm chước thi hành. (Sách Làng Tổng gạo nếp 10 sọt, vỏ gai 30 bó, bí xanh 300 quả, trâu một con, sáp ong 7 cân 8 lạng, thóc đen 5 sọt ; sách Làng Sen gạo nếp 10 sọt, sáp ong 15 cân, thóc đen 5 sọt, bí xanh 100 quả, mật ong 2 hũ ; hai sách Làng Tán, La Miết, gạo nếp 2 sọt ; sách Tầm Linh tiền 64 quan 2 tiền ; nguồn Viên Kiệu và hai sách Xà Đoan và Tiết Đường tiền 105 quan, hương vị 3 sọt, nhựa trám 3 sọt, song 12 sợi, mây đá 240 sợi, mây nước 11.000 sợi, mây sắt 31.000 sợi, chiếu mây 3 tấm, gạo nếp 32 sọt).

Lấy Bùi  Phụ Đạo làm Hàn lâm viện thị thư.

Lục bổ con Tham tán Nguyễn Đăng Trường là Nguyễn Nguyên Minh sung Hàn làm viện.

Sai quan Bắc Thành lấy dân sửa đắp đường đê ; sau sai Vũ Trinh đến trông coi. Dụ rằng : “Việc phòng lụt rất quan hệ lợi hại đến đời sống của dân, Trẫm rất chú ý. Ngươi phải cẩn thận”.

Thuộc hiệu Yên Quảng là Đoàn Bá Giai đi tuần biển, bắt được ba tên giặc đảng Tề Ngôi và thuyền ghe khí giới. Thành thần đem việc tâu lên, Thưởng cho 50 quan tiền.

Quan Bắc Thành tâu rằng : “Châu Vị Xuyên ở Tuyên Quang là đất trọng yếu ở biên cương, xin cho Nguyễn Hựu Trân làm cai đội, Trần Đăng Viên làm bình luận, đều đem thủ hạ lập làm hai đội Am Sơn để đóng giữ đất ấy”. Vua y cho.

Châu Trình Cụ ở Thanh Hoa cùng với Mộc Châu ở Hưng Hóa tranh nhau động Hàm Man. Vua sai các quan thành và trấn đến hội xét. Mộc Châu lời lẽ lúng túng, bèn lấy động ấy trả cho Trình Cụ.

Tháng 8, tế thu ở Văn miếu. Vua thân đến làm lễ.

Định lệ trạm mục và trạm phu các trạm. (Quảng Đức 6 trạm, Quảng Nam 7, Quảng Ngãi 5, Bình Định 7, Phú Yên 6, Bình Hòa 4, Bình Thuận 12, Quảng Trị 4, Quảng Bình 6, Nghệ An 11, Thanh Hoa 5, Thanh Hoa ngoại 2, Sơn Nam thượng 6, Kinh Bắc 2, Phiên Trấn, Vĩnh Trấn, Trấn Định Trấn Biên đều ). Mỗi trạm đặt một cai đội, một phó đội. Từ Quảng Nam đến Gia Định mỗi trạm đều 50 người phu, từ Quảng Đức đến Quảng Bình mỗi trạm đều 80 người, từ Nghệ An đến Bắc Thành, mỗi trạm đều 100 người. Thuế thân, tạp dịch đều miễn.

Truy tặng Phó đô thống chế Tôn Thọ Vinh làm Chưởng dinh.

Chánh trấn Thuận Thành Nguyễn Văn Chấn đến Kinh dâng tiến sản vật địa phương (ngà voi, sừng tê, lộc nhung). Thưởng tiền 300 quan, gạo 100 phương. Thăng chức Chưởng cơ, rồi cho về  trấn.

Cho Lưu trấn Gia Định là Nguyễn Văn Nhơn một cái gươm đeo.

Làm đồ tế ở các miếu.

Lấy Hiệp trấn Quy Nhơn là Nguyễn Hoài Quỳnh làm Hiệp trấn Nghệ An, Cai bạ Quảng Trị là Trần Văn Tuân làm Ký lục Bình Định, Cai bạ Quảng Nghĩa là Trần Tấn Bửu làm Cai bạ Bình Định, Ký lục Quảng Nam là Ngô Đình Siêu làm Cai bạ Quảng Ngãi, Ký lục Quảng Đức là Lê Văn Hậu làm Ký lục Quảng Nam, Hàn lâm thị thư Trần Viết Bình làm Cai bạ Quảng Trị.

Làm kho diêm tiêu.

Định lệ bù hao cho các thuyền vận tải. (Từ Gia Định đến Kinh 100 phương gạo được gạo bù hao 2 phương ; từ Bình Thuận 1 phương 25 bát, từ Bình Hòa 1 phương 20 bát, từ Phú Yên 1 phương 15 bát, từ Bình Định 1 phương 10 bát, từ Quảng Ngãi 1 phương 5 bát, từ Quảng Nam 1 phương…).

Định cách thưởng bắt hổ. Vua thấy dân ở ven núi nhiều nơi bị nạn hổ, bèn dụ rằng có ai làm máy móc, đặt hầm bẫy để bắt hổ, cứ bắt được một con hổ thì thưởng 30 quan tiền.

Quan tài vua Lê là Lê Duy Kỳ được đưa từ nước Thanh về. Vua Lê chạy sang Thanh, muốn xin cứu viện lần nữa, vua Thanh giận vì bị thua, không cho quân, bắt lệ thuộc dưới cờ, biên làm tá lãnh. Gặp khi giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ sai sứ sang cầu phong, vua Thanh đòi Huệ sang chầu, Huệ ngờ vua Thanh có ý giữ nhà Lê nên thác cớ không đi, vua Thanh muốn Huệ khỏi ngờ, càng làm khổ nhục [vua Lê] để khiến giặc tin. Người tòng vong là Lê Quýnh, Lê Trị, Trịnh Hiến, Lý Bỉnh Đạo, bốn người, không chịu róc tóc, người Thanh bắt bỏ tù, còn bọn Nguyễn Hữu Cung hơn trăm người thì chia cho ở các địa phương Giang Nam, Nhiệt Hà hơn mười năm. Khi vua Lê chết rồi, vua Thanh sai họ đều đưa [quan tài] về nước. Quan Bắc Thành đem việc tâu lên. Vua hạ chiếu cho Lê Duy Hoán đợi ở Nam Quan. Lại sai bầy tôi bàn việc ấy. Các quan nói : “Hoàng thượng ta ra ơn với triều trước, kẻ còn người mất đều được nhờ, rất là nhân vậy. Nay quan tài vua Lê đã đưa về, nhờ lượng thánh đoái thương, nhưng nên cấp cho tiền gạo để tỏ hậu đạo, chứ nếu lấy lễ khách mà đãi, sai quan đến viếng thì về nghĩa e chưa được ổn. Lại nếu họ Lê có xin đặt thụy, bọn thần thấy đã không đúng nghĩa thì không nói được, vậy không nên cho hiệu là phải”.

Vua cho là phải, sai thành thần trị quan tài, cho 700 quan tiền, 500 phương gạo, dùng binh thuyền hộ tống về táng ở Thanh Hoa. Hài cốt bọn bầy tôi tòng vong nhà Lê đều cho tiểu gỗ đưa về, cấp tuất tiền vải cho gia đình họ.

Nêu khen cung nhân nhà Lê là Nguyễn Thị Kim. Thị là người huyện Lang Tài trấn Kinh Bắc. Cuộc loạn năm Kỷ dậu, vua Lê chạy sang nước Thanh, thị theo không kịp, ẩn nấp trong thôn ấp, không ai biết. Đến nay đến chịu tang, thương khóc, rồi uống thuốc độc chết. Quan Bắc Thành cấp cho 100 quan tiền và một tấm gấm để chôn, đem việc tâu lên, xin nêu danh tiết. Vua sai bộ Lễ bàn. Đặng Đức Siêu cho rằng : “Nêu khen những người tiết nghĩa là cốt để khuyên người, nhà Châu thì nêu danh cả xóm và đắp mộ, nhà Hán thì nêu danh và tha thuế cả nhà, đời Minh dân gian có người trinh tiết thì nêu họ tên, khắc vào bia đá, đều chưa bao giờ phong tên thụy cả. Nay Nguyễn Thị Kim tuy không ví như dân thường nhà quê, mà hay giữ vẹn được mình, tiết nghĩa khá khen, xin cho biển ngạch để nêu khen”. Vua liền sai quan Bắc Thành dựng bia đá ở làng, khắc chữ : “Khâm tứ an trinh tuẫn tiết Nguyễn Thị Kim chi môn” (1. Kính ban cho cửa nhà Nguyễn Thị Kim là người an trinh chết theo tiết.), cấp cho 2 người mộ phu, 20 mẫu ruộng, giao cho họ Lê giữ việc thờ cúng.

Giặc Kinh Bắc tụ họp ở Lạng Giang. Trấn thủ Phạm Tiến Tuấn đem quân đánh chạy.

Quan Bắc Thành tâu rằng : “Liền năm đê vỡ, các trấn tai hại rất nhiều. Xin phàm việc không cần kíp và kiện vặt ở các nha đều cho hoãn cả. Thuế mùa hạ và thuế trốn thiếu năm trước cũng xin đều thu vào mùa đông, để dân đỡ cấp bách”.

Vua nhận lời tâu. Lại sai tha tô ruộng vụ đông này cho các trấn theo bực khác nhau. Binh đinh trốn chết thì hoãn một năm không đòi.

Gia Định gạo kém, sai trấn thần phát 20.000 phương gạo kho giảm giá để bán cho dân, ai xin vay cũng cho.

 Vua thấy chức huyện lệnh rất là gần dân, muốn xét kẻ giỏi người không để xem thành tích, bèn triệu tri huyện các huyện ở Quảng Đức, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định là bọn Hoàng Kim Xán, Nguyễn Ngọc Nhơn, Lê Đại Cương hơn 20 người về Kinh, sai quan ba bộ Lại, Lễ, Hình họp xét, rồi chia làm ba hạng giáp ất bính tiến lên. Vua đều cho trúng cách, ban cho y phục rồi cho về. Dụ rằng : “Vâng theo chính lệnh mà tuyên truyền đức hóa, đó là công việc của các ngươi, đều nên cố gắng”.

Tháng 9, Phú Yên gạo kém, sai trấn thần đình các công dịch, phát gạo kho cho vay.

Đóng thuyền Tây dương hạng nhỏ và thuyền hải đạo hạng nhỏ.

Thái miếu, miếu Triệu tổ, miếu Hoàng khảo làm xong. (Thái miếu, nhà chính và nhà trước đều 13 gian 2 chái, hai nhà vuông, hai sở tế tả hữu ; giữa sân có gác Mục Thanh ba tầng, bên tả là cửa Diên Hy, trên là gác chuông, bên hữu là cửa Quang Hy, trên là gác trống ; phía trước đặt tả vu, hữu vu để thờ các vị tòng tự ; tường chung quanh có năm cửa, phía trước là cửa Thái miếu, bên tả là cửa Hiển Thừa, bên hữu là cửa Túc Tướng, phía tả đằng sau là cửa Nguyên Chỉ, phía hữu đằng sau là cửa Trường Hựu. Trên phía bắc là miếu Triệu tổ, nhà chính và nhà trước đều 3 gian 2 chái, đằng sau bên tả là cửa Tập Khánh, bên hữu là cửa Diễn Khánh. Nhà vuông bên tả nay là điện Long Đức, tế sở bên tả nay là điện Chiêu Kính, tế sở bên hữu nay là điện Mục Tư, gác Mục Thanh nay là gác Tuy Thành). Thưởng tiền cho các quân làm việc [xây miếu] theo thứ bậc khác nhau. Những vật liệu cần dùng, nếu quân dân lấy được chở đến thì đều phát tiền kho trả hậu. Lấy Tôn Thất Thái làm cai đội, Tôn Thất Điêu làm đội trưởng, suất quân Lão thuyền coi giữ.

Làm biển ngạch các cung điện.

Triệu bọn án trấn Quy Nhơn là Nguyễn Huỳnh Đức, án trấn Diên Khánh là Nguyễn Văn Tánh và Lưu thủ Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam về Kinh.

Lấy Nguyễn Văn Lễ làm Thị thư Hàn lâm viện.

Tha thuế thân cho lính coi kho từ Quảng Bình vào Nam đến Gia Định. (Kho ở Kinh 150 người, hai kho Thăng Hoa và Điện Bàn ở Quảng Nam đều 40 người, kho ái Tử ở Quảng Trị 50 người, kho Đông Hải ở Quảng Bình 25 người, kho Thanh Hà 15 người, kho Phú Đăng ở Quảng Ngãi 50 người, kho Cự Tích ở Bình Định 40 người, hai kho An Du và Đạm Thủy đều 30 người, hai kho An Hòa và Xuân Đài ở Phú Yên đều 25 người, hai kho Hội An và Phước An ở Bình Hòa đều 30 người, kho Thuận Thành ở Bình Thuận 30 người, kho thuế ruộng ở Phiên Trấn và Trấn Biên đều 50 người, kho Kiến An ở Trấn Định và kho Tân Định ở Vĩnh Trấn đều 50 người, kho Long Xuyên 20 người).

Đặt hai ty Tả thừa và Hữu thừa ở Gia Định, mỗi ty 100 người, chia làm bốn phòng Hộ, Binh, Hình, Công. Sai lưu trấn thần chọn các ty của Chính dinh thuộc trấn mà sung bổ.

Bọn giặc Thiều Châu nước Thanh là Mã Sĩ Anh lấn quấy địa phương Hưng Hóa, tràn đến châu Văn Bàn, châu trưởng là Đèo Quốc Uy đánh phá được, bắt được Sĩ Anh và đồ đảng 20 người. Thưởng cho Quốc Uy một cặp áo và 300 quan tiền.

Quan Bắc Thành tâu rằng : “Hai huyện Mỹ Lương và Thạch Thất trấn Sơn Tây, hai huyện Phượng Nhãn và Lục Ngạn trấn Kinh Bắc và bảo Bảo Thắng trấn Hưng Hóa là những nơi yếu hại, xin chia quân phòng thủ để giữ yên”. Vua y cho.

Lấy Tham hiệp Thái Nguyên là Nguyễn Thế Trung làm Hiệp trấn Tuyên Quang, tham hiệp Tuyên Quang là Nguyễn Văn Triển làm Tham hiệp Thái Nguyên.

Mùa đông, tháng 10, ngày mồng 1, tế đông hưởng.

Biên số biền binh lẻ ở Gia Định, bổ làm quân Chấn võ.

Ngày Tân dậu, vua thân đem bầy tôi làm lễ đặt bài vị các vua và hoàng hậu ở các miếu. Ngày Nhâm tuất, vua thân đến làm lễ. Lễ xong, vua ngự điện nhận lễ chầu mừng, cho bầy tôi ăn yến. Rồi sai dựng hành lang hai bên tả hữu miếu Triệu tổ để chứa đồ tế.

Ngày Giáp tuất, rước thái hậu đến ở cung Trường thọ. Vua thân đến chầu mừng. Các quan và các mệnh phụ đều làm giấy mừng và sắm lễ phẩm để dâng. (Các quan dâng 20 lạng vàng, 100 lạng bạc, các mệnh phụ dâng 10 lạng vàng, 50 lạng bạc). Từ đó hoặc 3 ngày, hoặc 5 ngày, vua thân đến thăm sức khỏe, giữ lễ quạt nồng ấp lạnh, chưa từng bỏ thiếu.

Hạ lệnh cho các địa phương phàm vật quý ở rừng biển mà không thuộc lệ thuế thì hằng năm chọn đem tiến. (Bình Định thì cá thiết lình và vây cá, Gia Định thì da tê và gân hươu v.v…)

Đặt binh thuộc kiên ở ba tào (1. Ba tào : Tào Binh, tào Hình, tào Hộ. Tào là tổ chức tương đương với bộ đặt ở Gia Định và Bắc Thành.) Bắc Thành, mỗi tào đều hai đội.

Nghệ An chuyển tiền theo đường bộ hơn 400 quan về Kinh. Vua nói : “Đường sá xa xôi, làm thế chẳng mệt dân sao ?”. Nhân thế sắc cho các địa phương, từ nay kho nhà nước có cần dùng thì có chỉ mới được chuyển theo đường bộ.

Quan Bắc Thành tâu nói : “Hai châu Đại Man và Bảo Lạc trấn Tuyên Quang dân Man còn ẩn lậu nhiều xin sai thổ mục sở tại ghi hết số để theo lệ đánh thuế”. Vua y cho.

Đắp thành đất ở trấn Sơn Nam hạ. Sai Giám thành sứ Trần Văn Học đến coi công việc.

Trấn Sơn Nam thượng mưa lụt hại lúa. Sai quan Bắc Thành phát tiền kho cho vay.

Lấy Văn giáp cai hợp Trung quân là Võ Văn Chiêu làm Tham hiệp Cao Bằng.

Phi Nhã Cô Ba người Xiêm cùng với 13 người đi theo đáp thuyền buôn đi Xa Gia (tên đất Xiêm) buôn bán. Chủ thuyền tham của giết hết người, thuyền bị gió đậu ở Kiên Giang (1. Nay là Rạch Giá.), Lưu trấn thần Gia Định dò biết tình hình bắt đưa sang nước Xiêm.

Tháng 11, sai Hàn lâm viện Tô Văn Trương và Tô Văn Doanh sung chức giảng tập, dạy các hoàng tôn.

Sai các tấn cửa biển ở các địa phương kiểm xét thuyền buôn người Thanh ra vào để phòng gian trá.

Thủy binh kiện tranh ruộng lương điền, vua giao xuống đình thần bàn, lấy ngày đầu quân trước hay sau mà định khác nhau, tùy hạng chia cấp, chép để làm lệ. (Đầu quân từ năm Canh thân về trước thì ở trên, từ năm Tân dậu về sau thì ở dưới).

Sai dịch nhà Thanh là bọn Lâm Quý, Lâm Bảo đáp thuyền buôn qua Bành Hồ (2. Quần đảo Bành Hồ.  ) (thuộc tỉnh Phước Kiến), gặp gió phải đậu vào [cửa] Đại Chiêm. Dinh thần Quảng Nam đem việc tâu lên. Vua sai cấp cho bọn Quý mỗi ngày 3 quan tiền, cho thuyền hộ là Trần Thăng Thái và những thủy thủ 100 quan tiền, 100 phương gạo. Sau lại cho bọn Quý mỗi người 10 lạng bạc, sai đưa theo đường bộ về nước.

Người Lạc Hoàn là Pha Na Khi đến hiến sản vật địa phương (3 thớt voi đực, 2 cặp ngà voi, 2 tòa sừng tê, 25 cân sáp ong).

Pha Na Khi, ông là ất Nha Lũng, cha là ất Thăng, nối đời làm tù trưởng Lạc Hoàn. Khi ất Thăng chết, con rể là Xí Xương Mã đuổi Pha Na Khi mà tự lập. Pha Na Khi trốn ở rừng rú, nhờ điển quân thượng đạo Lưu Phước Tường dẫn cho quy phụ triều đình. Khi vua đã lấy lại được kinh thành, dụ cho trở về, đến nay đem lễ vật do đạo Cam Lộ vào hiến. Vua vời vào chầu, hỏi thăm yên ủi, trả lại lễ vật. Sai dinh thần Quảng Đức hậu đãi rồi cho về.

Cần chánh điện học sĩ Nguyễn Viên chết ; cho 2 cây gấm Tống và 100 quan tiền.

Nghệ An bị hạn, hạ lệnh cho sở tại, phàm việc kiện vặt không bắt hỏi, binh lính trốn hay chết thì hoãn việc bắt điền.

Quan Bắc Thành tâu rằng : “Dân các trấn nhiều người xiêu tán, xin sai các quan trấn phủ huyện lần lượt đi xét, do thành chuyển tâu. Kẻ nào giả dối thì trị tội”. Vua theo lời.

Vua thấy Gia Định là khu trọng yếu ở miền Nam, sau khi chinh chiến, kho tàng còn rỗng, hạ lệnh phàm thóc tô nộp vào đều lưu trữ ở kho trấn để chứa được nhiều, chỉ hàng năm chọn 1.000 phương thóc ngự chở về tiến.

Quan Bắc Thành tâu xin dựng nhà coi việc ở cửa nam thành, cứ năm ngày một lần họp quan lại để bàn việc. Ai có tình trạng uất ức, đã qua ba nha trấn phủ huyện mà chưa được phục tình, thì cho đầu đơn để xét cho rõ lý. Vua y theo lời tâu.

Quan Bắc Thành tâu rằng : “Các huyện Kim Hoa, Yên Thế, Hiệp Hòa trấn Kinh Bắc, Thủy Đường, Đông Triều, Giáp Sơn trấn Hải Dương, đều là nơi quan yếu, bọn côn đồ thường ẩn nấp ra vào ở đó, xin lượng đem biền binh và thổ hào đóng thú, cho nghiêm việc phòng bị”. Vua y cho.

Tháng 12, lục dụng con Tham chính Nguyễn Khoa Thuyên là Nguyễn Khoa Thoại và Nguyễn Khoa Minh làm Hàn lâm viện thị thư.

Trấn thần Nghệ An tâu rằng : “Bốn phủ trấn Nghệ An ở thời Lê trước đều có văn miếu cả. Giặc Tây Sơn vẫn để dùng. Nay các dinh trấn chỉ đặt một miếu ở sở tại, xin chọn ở hai xã An Trường và Mai Am (thuộc huyện Chân Lộc) gần trấn thành mà làm”. Vua y lời tâu.

Đặt đốc học ở trấn Quy Nhơn. Vua cùng bầy tôi bàn đến việc giáo hóa. Dụ rằng : “Các dinh trấn đều có học quan, duy còn Quy Nhơn chưa đặt. Nay nên chọn người sung bổ để rèn luyện học trò, chấn hưng văn hóa”. Bèn lấy Đặng Đức Huy làm Đốc học trấn Quy Nhơn, kiêm việc khảo khóa sát hạch học trò ở hai trấn Quảng Ngãi và Phú Yên.

Đổi thụy hiệu Hiếu tuyên vương làm Tuyên vương, Hiếu huệ vương làm Mục vương, dựng từ đường ở Long Hồ, lấy Tôn Thất Diệu làm cai đội chủ việc thờ cúng.

Ngày Đinh mão, vua yết các lăng liệt thánh.

Ngày Mậu thìn, tế Chạp.

Định lệ tế ở các miếu và các từ đường. (ở Thái miếu, các lễ Trừ tịch, Nguyên đán, Đoan dương, hưởng tế, kỵ lạp, sóc vọng, mỗi năm chi tiền 4.600 quan ; miếu Triệu tổ mỗi năm chi hơn 370 quan ; miếu Hoàng khảo mỗi năm chi hơn 370 quan. Hữu vu Thái miếu thờ Đông cung nguyên soái quận công Cảnh và hoàng nhị tử là Thiếu úy Hy, mỗi năm chi tiền 300 quan. Từ đường Long Hồ mỗi năm chi tiền hơn 260 quan). Hằng năm dùng sinh phẩm (1. Sinh phẩm : Vật hy sinh để tế, như trâu bò lợn dê.) do Hộ bộ xét số bao nhiêu, gửi giao cho dinh thần Quảng Đức và Quảng Trị mua nuôi.

Cấp tự dân và tự điền cho Lễ bộ Ngô Tùng Châu, sai con nuôi là Tùng Hoảng giữ việc thờ cúng. Chiếu dụ Tùng Hoảng rằng : “Nêu thưởng người trung tiết là phép thường của nhà nước. Cha ngươi là Ngô Tùng Châu dự mang trách nhiệm ở ngoài, hết trung vẹn tiết, sáng tỏ như mặt trời. Nay nghĩ lại công cũ, đặc biệt cấp cho tự dân 50 người, tự điền 75 mẫu, cho ngươi nối giữ đời đời, coi việc thờ cúng”.

Quảng Bình có nạn cướp biển, sai dinh thần phát binh thuyền dò bắt.

Quản tàu Long phi là Nguyễn Văn Thắng dâng sách Thái tây toán pháp (2. Thái tây toán pháp : Sách toán của Tây phương.) và sách Thiên chỉ minh yếu luận (3. Thiên chỉ minh yếu luận : Sách thiên văn học.), mỗi thứ một quyển.

Người Chà Và gặp bão, chạy vào Gia Định. Sai cấp tiền gạo và đưa về.

Tham tri Hình bộ Bắc Thành là Nguyễn Duy Hòa đi thăm ruộng lúa ở Sơn Nam thượng, nghe tin huyện Thiên Thi có bọn thiếu niên hung ác họp nhau mưu trộm cướp, đem quân chụp bắt, được đồ đảng 17 người. Thành thần đem việc tâu lên. Vua cho rằng Duy Hòa đã phát giác bắt được kẻ gian, thưởng cho 300 quan tiền.

Giặc biển Tề Ngôi là tên Trạc ngụy xưng là Ninh Hải đại tướng quân, họp hơn 60 chiếc thuyền, lại quấy rối châu Vạn Ninh trấn Yên Quảng. Trấn thủ Lê Văn Vịnh suất binh dân đánh dẹp. Cai châu Phan Phương Khách, phó châu Phan Đình Trung, tiền tri châu Vi Quảng Vỹ tiến đánh, chém được Trạc và đồ đảng 4 người, giặc vỡ chạy. Thành thần đem việc tâu lên. Sai cho Phương Khách làm phòng ngự sứ, kiêm cai việc châu, cho Đình Trung làm phòng ngự đồng tri, kiêm việc phó châu và Quang Vỹ làm phòng ngự thiêm sự, thưởng cho tiền 500 quan, thưởng khắp cho binh dân 1.000 quan.

Ở Kinh Bắc giặc nổi, tràn cướp bảo Đèo Vang trấn Thái Nguyên. Cai đội thủ bảo là Nguyễn Hữu Thành chống đánh bị chết. Thành thần nghe báo, đem quân đánh bắt. Phó thống Tiền đồn Tiền quân là Nguyễn Xuân, Phó quản thập cơ Tả quân là Ngô Văn Tham tiến đến Phượng Nhãn, Trấn thủ Kinh Bắc là Phạm Tiến Tuấn đem quân hợp đánh, bắt được tướng giặc là Lương Văn Truyền và hơn 30 đồ đảng, thu được khí giới rất nhiều. Thành thần đem việc tâu lên. Hạ lệnh thưởng khắp cho quan binh và dân phu hơn 2.000 quan tiền. Người bắt được tướng giặc thì thưởng thêm 300 quan, quan binh thì gia chức một cấp, dân phu thì cho chức hàm cai tổng. Truy tặng Thành làm cai cơ, cho một người con tập ấm làm đội trưởng. Con Thành và thủ hạ bị chết trận 8 người, mỗi người đều được một người con miễn binh dao. Quân giặc đã tan, thành thần xin rút quân, đừng sai đi tra bắt để dân khỏi sợ, ai nhầm đường theo giặc, đều khiến ra thú thì tha tội, ai có thể báo bắt được đồng đảng thì cho mang tội lập công. Vua khen phải.

Gia Định có người đem đá lạ đến dâng, vua sai từ chối.

Sai cấp cho mẹ công thần Nguyễn Kim Phẩm là Nguyễn Thị Đoài 30 mẫu ruộng ngụ lộc.

Quan Bắc Thành tâu rằng : “Các nha hỏi việc hình còn nhiều án tích lại, làm lụy cho dân. Xin cứ đến cuối năm kiểm soát, trước sai ba nha trấn phủ huyện đều ghi sổ những án xét để làm bằng mà kê cứu”. Vua y lời tâu.

Binh bộ Phạm Ngọc Uẩn chết ; tặng Tham chính, cho 2 cây gấm, 200 quan tiền.

Lấy Cai cơ Cao Văn Cửu coi giữ đạo Đồng Môn.

Cấp cho Chiêu thảo sứ Thanh Hoa là Đinh Đạt Biểu 20 mẫu ruộng tự điền, Chiêu thảo sứ Nghệ An là Võ Nguyên Lượng 19 mẫu tự điền, Cai đội Thiều Đình Tấn 20 mẫu tự điền. Bọn Đạt Biểu vì ứng nghĩa đánh giặc chết, vua nhớ đến, đặc biệt gia ơn. Vợ Nguyên Lượng là Hoàng Thị Hân cũng được cấp riêng 10 mẫu tự điền.

Vua thân đem bầy tôi đến cung Trường Thọ dâng phẩm vật mừng năm mới.

Ngày Canh thìn, tiết Thiên thu (ngày 25 tháng này là ngày sinh hoàng hậu). Các quan đều mặc triều phục, đến hậu điện chúc mừng. Từ đó hằng năm lấy làm lệ thường.

Sai Lễ bộ soạn bài ca chúc thọ. Ba tiết lớn Vạn thọ, Thánh thọ, Thiên thu đều làm bài ca khác nhau, cho hợp ý nghĩa.

Ngày Tân tỵ, vua đến Thái miếu dâng lịch vạn toàn năm ất sửu. Lễ  xong, ngự điện ban lịch mới cho trong ngoài.

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển XXVI – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Ất sửu, Gia Long năm thứ 4 [1805] (Thanh Gia Khánh năm thứ 10), mùa xuân, tháng giêng, sai thủy quân diễn tập bơi thuyền. Thưởng cho Tống Phước Lương một cái áo mở bụng bằng đoạn mãng và cho biền binh 300 quan tiền.

Thống lĩnh thượng đạo Thanh Hoa là Hà Công Thái vào chầu. Vua cho một bộ mũ áo, 100 quan tiền. Khi về lại ban áo quần cho bộ thuộc theo thứ bậc khác nhau.

Ngày Quý tỵ, tế xuân hưởng.

Cho Tôn Thất Thăng một áo bào đỏ.

Định lệ chính hộ khách hộ từ Quảng Bình đến Phú Yên. Chiếu rằng : “Những địa phương các ngươi, từ loạn lạc tới nay, nhân dân tản mát bốn phương, hoặc có người phụ vào sổ để chịu thuế cũng như chính hộ mà xã dân sở tại thường lại ruồng bỏ cho là khách hộ, thực không phải là nghĩa đất của vua dân của vua. Nay trong nước đã định, sổ dân cần nên chỉnh đốn. Đặc biệt chuẩn cho người có nhà ở hay ở ngụ đã ghi tên vào sổ tuyển năm Quý hợi thì cho làm chính hộ, khẩu phần ruộng đất và ngạch thuế thân dung đều theo lệ chính hộ ; từ năm Giáp tí về sau mới đến ngụ thì vẫn là khách hộ, không dự khẩu phần. Những xã thôn không có ruộng đất công thì dân ngoại phụ không kể mới hay cũ đều là khách hộ, theo lệ nộp thuế”.

Cho Mai Tiến Huệ làm Khâm sai chưởng cơ, vẫn hành Lưu thủ Bình Định.

Lại lấy Nguyễn Huệ làm Tham luận đạo Đông Khẩu, Võ Văn Sĩ làm Tham luận đạo Hưng Phước.

Sai Phạm Đăng Hưng kiêm giữ việc Trường đà.

Nguyễn Văn Thành dâng hai quyển Thiên nam dư hạ. (Lê Hồng Đức soạn).

Lại sai các dinh ở Gia Định khuyên dạy việc làm ruộng trồng dâu.

Cho lương tháng các thiêm sự sáu bộ. (Mỗi tháng tiền 4 quan, gạo 3 phương).

Định lệ khám báo ruộng lúa bị tổn hại. Chiếu rằng : “Việc làm ruộng là gốc lớn của thiên hạ, trẫm rất lo nghĩ làm sao cho dân nhờ. Nếu không may có phương nào lỡ gặp hạn lụt sâu bọ làm tổn hại lúa má thì quan phủ huyện phải đến khám xét ngay lúc lúa chưa gặt, rồi quan trấn ủy người đi khám lại, nếu hại quá thì tự mình phải đi khám, đều hạn trong 10 ngày phải làm sách tâu lên cho đúng phân số, sẽ lượng xét tha bớt [thuế má]. Vậy thượng ty địa phương các ngươi cho đến các phủ huyện phải thể theo đức ý bề trên để cho dân cùng thiếu đều được nhờ ơn. Nếu báo không đúng sự thực và giấu giếm tai nạn thì cũng phải tội như nhau”.

Cấp lương tháng cho đốc học và trợ giáo các trấn Bắc Thành. Đốc học cũng như tri phủ, trợ giáo cũng như tri huyện.

Quản Đồ gia [Nhà đồ] là Huỳnh Văn Cẩn xin cho những tượng mục các cục là bọn Lê Ngọc Phước, Lê Văn Trữ hơn 100 người bổ chức cai đội và cai ty. Vua nói rằng : “Làm thợ là nghề thấp kém, cho làm cai đội có nên không ?” Sai chọn những người giỏi bổ chức chánh cai quan, cai quan, chánh ty quan, ty quan, còn người kém thì bổ thủ hợp.

Sai Cai cơ Trung quân Nguyễn Công Ân quản hộ biệt nạp gỗ lim ở Nghệ An.

Lập đội Yến sào (tức là hộ Yến sào ngày nay). Sai Cai đội đội Hổ dực Trần Văn Giai mộ dân ngoại tịch sung vào, mỗi năm mỗi người nộp thuế 8 lạng yến sào.

Tướng giặc Thanh Hoa là tên Chấn tự xưng quận công, ngầm đặt quan chức cho bè đảng, có các cơ hiệu Ngũ Ninh, Ngũ Thắng, Ngũ Dũng. Trấn thần phát quân đánh bắt, bắt được bè đảng là bọn Võ Trí Nguyệt ở Ngọ Xá (tên xã, thuộc huyện Vĩnh Lộc). Chấn nghe tin trốn mất. Việc tâu lên. Vua dụ rằng : “Bọn giặc nhỏ mọn, bắt được thì giết, đừng để liên can đến bình dân. Dân ai hay tố giác ra thì thưởng, chứa chấp thì có tội”. Sau thổ tù Nguyễn Đình Giá bắt được Chấn ở Phố Cát, sai giết đi, cho Đình Giá làm Phòng ngự sứ.

Quan Bắc Thành tâu rằng : “Giặc biển Tề Ngôi là bọn Trịnh Năng Phát, Hoàng Long, Sĩ Tiến nhiều lần bị quan quân đuổi bắt, trốn vào động La Phù ở Long Môn nước Thanh. Đã bao lần tư cho Long Môn mà quan ở đấy cứ che chở. Xin gửi công văn cho Tổng đốc Lưỡng Quảng để dẹp bắt”.

Xuống chiếu trả lời rằng : “Người Thanh dung túng giặc cướp là lỗi ở họ, không nên tư báo làm chi. Duy nếu bọn giặc tụ họp thì dân ta không khỏi sợ hãi ly tán. Vậy sai trấn thần Yên Quảng đặt đồn bảo nghiêm việc phòng bị cho dân yên ổn”.

Tuyên úy đại sứ châu Bạch Thông trấn Thái Nguyên là Ma Thế Cố cùng em là Thế Nhi cưỡng lấy của cải của thổ dân. Quan Bắc Thành đem việc tâu lên. Vua nói : “Anh em Thế Cố tội đáng giết cả. Nhưng nghĩ nơi biên cương xa xôi mới theo, chưa hiểu luật lệ, tạm tha cho. Hạ chiếu cho thành thần đòi lại tang vật trả dân, cất chức Thế Cố, sai theo thành thần sai phái, mà chọn người khác quản lĩnh việc châu”.

Triệu biền binh vệ Trung uy ở Gia Định về Kinh. Vua nghĩ có công theo đi đánh trận đã lâu, thưởng cho từ phó tướng trở xuống lương tiền theo thứ bực khác nhau.

Quan tàu vụ là Nguyễn Đức Xuyên tâu dâng sổ thuế thuyền buôn hai năm Quý hợi và Giáp tý. Vua sai lấy hơn 9.000 quan tiền thưởng cấp cho các quan trong ngoài.

Chở 100 vạn quan tiền kho Bắc Thành đến Nghệ An để chuyển nộp vào Kinh sư.

Ngày Đinh mùi, dựng điện Thái Hòa. Thưởng cho lính và thợ hơn 1.400 quan tiền.

Gia Định mất mùa, lại cấm dân nấu rượu.

Sai Gia Định lượng cấp binh thuyền hộ tống quan tài của Thiếu phó Tôn Thất Mân về Kinh.

Sai Phó vệ úy vệ Hữu dực là Lê Xuân Quang đem lính và thợ đi lấy gỗ ở nguồn Cam Lộ ; sai dinh thần Quảng Trị phát thêm binh và dân chở giúp, mỗi tháng cấp cho mỗi người 1 quan tiền, 1 phương gạo.

Thêm số phu trạm cho các trạm ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, vì đường đi qua nhiều núi, leo trèo lặn lội khó nhọc.

Tháng 2, tế xuân ở Văn miếu. Vua thân đến làm lễ.

Sai Hộ hộ tra xét tiền lương các trấn Bắc Thành. Các trấn nhiều nơi nhân việc  xây dựng, chi tiêu quá lệ, bộ thần hạch tâu. Vua cho rằng buổi nước mới yên, mọi việc còn nhiều kinh phí, chưa có định lệ, miễn đòi lại. Nhân có sắc rằng từ nay có xây dựng gì mà động đến của công thì trước phải do thành phần xét định, không được tự chuyên. Làm trái, dẫu số chi có thực, cũng bắt bồi thường.

Tham tri Lễ bộ là Trần Hưng Đạt tâu xin chọn quan to nhiều tuổi có đức, gia cho hàm thiếu sư, thiếu phó, để sung việc giảng tập cho hoàng tử, hoàng tôn. Vua dụ rằng : “Trẫm ở gia đình được dạy dỗ rất nghiêm, thực do công thánh dạy dỗ không hề nhờn vậy. Nhưng dạy quý ở lúc còn sớm, mà học thành công là nhờ ở thầy. Nên được người chính trực đem lời ngay đạo ngay mà dẫn bảo thì mới được”.

Hoàng tử thứ tư 15 tuổi, sẵn tính thông minh, vua thường khuyên học. Một hôm cưỡi thuyền thủ quyển (1. Thủ quyền : Nghĩa đen là thuyền mũi cuốn. ở Huế có thứ tròng ngao, người ta dùng để đi chơi trên sông Hương, ở phía mũi căng một cái bong để che nắng, khi trời mát thì cuốn lại, phải chăng đó là thuyền thủ quyển ? ) của vua đi chơi xem sông Hương. Vua nghe tin giận. Hoàng tử thứ tư sợ hãi, kíp xin chịu tội. Vua gọi đến trước mặt, đánh mắng. Nguyễn Huỳnh Đức và Lê Văn Duyệt cố sức xin không được. Sau đó triệu thị học trách về tội không hay can ngăn. Rồi sai Lễ bộ Đặng Đức Siêu kiêm sung phụ đạo. Lại sai Hàn lâm thị thư và thị trung cai đội đều hai người, ngày ngày vào phủ để xem siêng năng hay trễ nải. Từ đó hoàng tử thứ tư học ngày càng tiến.

Sai hai đội Tả mã và Hữu mã diễn tập phép xe ngựa.

Điện Cần Chánh làm xong. Bầy tôi dâng biểu mừng. Vua ban yến theo thứ bực. Thưởng cho lính và thợ 6.000 quan tiền.

Tha giảm tô thuế năm nay cho các địa phương. Chiếu rằng : “Chăm lo và thương xót ân tình của dân là việc đầu tiên trong vương chính. Nay nước mới định, kẻ cùng thiếu còn chưa đầy đủ. Trẫm muốn gia ý vỗ về để dân đỡ khổ. Lại nghĩ thiên thời địa lợi nhiều chỗ không đều, mà dao dịch thuế má cũng có xa gần nặng nhẹ không như nhau. Vậy hạ lệnh tha và giảm tô thuế theo thứ bậc khác nhau. (Quảng Đức, Quảng Trị, thuế ruộng thuế thân và tiền đầu quan đều giảm 5 phần 10 ; Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Nghệ An thuế ruộng giảm 4 phần 10, Phú Yên, Bình Hòa, Bình Thuận, thuế ruộng giảm 5 phần 10, Thanh Hoa nội, ngoại, thuế ruộng giảm 3 phần 10, các trấn Bắc Thành, thuế ruộng giảm 2 phần 10. Các dinh đạo ở Gia Định, thuế ruộng đã cho giảm 2 phần 10, nay cứ chỗ phải thu 8 phần chiết làm 10 mà giảm ).

Bầy tôi dâng biểu xin vua tiến xưng tôn hiệu, đại lược rằng : “Trộm nghĩ “Hoàng” là bao trùm thiên hạ, “đế” là chủ tể thiên hạ. Cho nên đứng ngôi chính trong thiên hạ, thì tất nhận tên lớn của thiên hạ, đó là để nối chính thống, truyền đời sau. Thánh thượng được trời cho trí dũng, đứng đầu nhân dân, ở nước cũ, chịu mệnh mới, công đức cao dày, đời trước ít sánh kịp, thực nên chính xưng đế hiệu, để yên lòng mong của thần dân trong thiên hạ. Năm trước bọn thần dâng biểu khuyến tiến nhiều lần, nhưng thánh thượng nhún nhường không y lời tâu. Nay bọn thần trải tham việc trước, hợp với lòng dân, lại dâng lời cúi xin thánh thượng sớm nhận tôn hiệu hoàng đế, để tỏ rõ thống kỷ, cho sáng cơ đồ tổ tôn truyền lại, giữ bền sự nghiệp ức muôn năm không cùng”. Vua dụ rằng : “Lúc mới sửa sang, việc khác chưa rỗi, đợi sau sẽ bàn cũng chưa muộn”.

Bọn Man miền núi Quảng Ngãi cướp phá nhân dân. Lại sai Lê Văn Duyệt đem quân tiến đánh, lấy Đô thống chế Phan Tấn Huỳnh lĩnh chức Phó tướng Tả quân để theo việc binh. Khi quân Lê Văn Duyệt đến thì giặc man trốn xa. Sai Tiến Huỳnh đóng binh giữ đất, triệu Văn Duyệt trở về.

Triệu Lưu trấn Gia Định là Nguyễn Văn Nhơn về Kinh. Lấy Chưởng Trung quân Nguyễn Văn Trương làm Lưu trấn Gia Định, Thượng thư Hộ bộ Trịnh Hoài Đức làm Hiệp lưu trấn.

Dựng công thự cho các quan văn, võ. (Theo lệ cũ các quan trong triều, võ bên tả, văn bên hữu. Công thự võ tức nay là viện Đãi lậu (1. Viện Đãi lậu : Chỗ các quan chờ đến giờ (lậu) để vào chầu.) tả, công thự văn tức nay là viện Đãi lậu hữu).

Đổi định lệ triều đình hội nghị. Quan võ từ phó tướng, phó đô thống chế, thống chế trở lên, quan văn từ tham tri trở lên, hằng tháng bốn ngày 2, 9, 16, 24, họp bàn ở công thự võ. Phàm việc quan trọng của các nha mà các quan phụ trách không giải quyết được, các án kiện tụng ở các địa phương, xử chưa rõ lẽ, cùng quân dân có oan khuất kêu lên thì hội đồng xử đoán, rồi sau tâu lên để xin quyết định. Ngày hội khi giọt đồng hồ xuống 12 khắc thì lui. Người nào vắng mặt mà không cáo thì cho hặc.

Triệu quan nhà Lê cũ là Lê Duy An, Trịnh Hiến, Lý Bỉnh Đạo, Nguyễn Hữu Cung về Kinh. Bọn An theo vua Lê xuất vong trong 16 năm, đủ mọi gian khổ. Vua khen là tiết nghĩa, vời vào yết kiến, cho ngồi yên ủi hỏi han giờ lâu, cấp cho quần áo tiền gạo. Sai dinh thần Quảng Đức hậu đãi. Sau bổ Hiến và Bỉnh Đạo làm Thị trung học sĩ, Cung làm Cai cơ.

Hỏi tìm sự tích công thần buổi quốc sơ. Chiếu rằng : “Từ các đấng thánh vương trước mở mang bờ cõi, trong khoảng đó những bề tôi thân huân hết sức hiến mưu, cùng nhau giúp đỡ, đều chung một lòng để vững cơ nghiệp nhà vua. Thế cho nên sống được tiếng vẻ vang, chết được hiệu rạng rỡ, thờ cúng tôn sùng, ấm đến con cháu, cùng nước vui buồn, truyền đi mãi mãi. Nhưng gặp lúc loạn lạc, việc thờ cúng bỏ mất cả. Nay nước nhà dựng lại, bốn biển lặng trong, theo phép thường báo đền, nên tra xét lễ lớn. Vậy sai quan Lễ bộ khảo rõ các công thần khai quốc mà từ trước đã dựng đền thờ và ban cấp tự dân tự điền, có ấn tích bằng cứ thì bàn việc khen thưởng, Trẫm sẽ quyết định”.

Lấy Chánh thống Hữu đồn Tả quân là Nguyễn Văn Xuân làm Chánh quản mười cơ Ngũ kiên và Ngũ nhuệ.

Tham tri Công bộ là Nguyễn Đức Huyên tự trình bày rằng cha là Tham tri Nguyễn Đức Chí năm trước theo đi đánh giặc chết ở nước ngoài, và bác là Hộ bộ Nguyễn Đức Tu chết ở Gia Định, xin phép nghỉ để về sửa sang mồ mả. Vua thương tình cho nghỉ một năm.

Tháng 3, dựng nhà Thanh phong cùng trường lang tả hữu, các sở nhà vuông [phương gia], hành lang bên, [dực lang], kho nội [nội tàng]. Thưởng cho các quân ứng dịch 2.000 quan tiền.

Quan Bắc Thành tâu nói : “Dòng nước sông Nguyệt Đức (1. Tức sông Cầu.) ở Kinh Bắc bị bồi lấp, xin tùy nghi khơi đào để thông dòng nước”. Vua y lời tâu.

Lấy bọn Hoàng Đình Hòa, Hoàng Kiêm Điển, Nguyễn Bá Uông, Lê Viết Thuyên, Lê Hữu Khám làm Thiêm sự Công bộ. Công bộ từ trước tới nay chưa đặt thiêm sự. Đến nay Trần Văn Thái cho rằng công việc bề bộn, tâu xin đặt, bèn lấy bọn Đình Hòa cho làm.

Đóng thuyền hải đạo. Sai các đội thợ rừng Quảng Trị đi lấy gỗ để nộp, thưởng 1.000 quan tiền, 1.000 phương gạo.

Hạ lệnh cho các quan văn võ hàng ngày cứ giờ mão phải vào điện Cần Chánh tâu việc.

Quan Bắc Thành tâu nói : “ở các phủ huyện, công việc, tiền lương, kiện tụng bề bộn. Trước nay tri phủ, tri huyện chỉ đặt một người, thực sợ làm việc không xuể, hoặc đến bỏ dồn. Vậy xin mỗi phủ đặt thêm một tri phủ, huyện to, huyện vừa mỗi huyện đặt thêm một tri huyện”. Vua y cho. Sai các đình thần cử người làm tri phủ, thành thần cử người làm tri huyện, kê tên tâu lên.

Bọn giặc ở Thái Nguyên tụ hợp ở Vũ Nhai. Thành thần hịch cho Trấn thủ Kinh Bắc Phạm Tiến Tuấn cùng Trấn thủ Thái Nguyên Nguyễn Đình Tuyển họp quân để đánh, bắt được bảo giá (2. Bảo giá là một chức quan, hộ vệ xa giá.) ngụy là Triều Đông (tên người, thiếu họ) và bè đảng rất nhiều. Việc tâu lên, vua thưởng tiền hơn 1.000 quan.

Lấy Phó quản cơ Tứ dực là Đặng Phước Trung làm Trấn thủ Tuyên Quang.

Miễn thuế thân cho hơn 70 người lính ở các bảo Hiếu Giang và Ngưu Cước thuộc Ai Lao.

Chở 20.000 phương gạo ở Gia Định về chứa ở thành Diên Khánh.

Định lệ túc trực cho quân cấm vệ. Quân 500 người, ngày đêm túc trực ở tả vu hữu vu điện Cần Chánh. Khi kiệu vua đi ra, 200 người theo hầu, 300 người ở lại trực. Đến đêm lại đủ số ấy.

 Người Man bảy sách ở Cam Lộ vào cống.

Mùa hạ, tháng 4, mồng 1, tế hạ hưởng.

Vua xem hồ ở trước sân điện Thái Hòa (nay là hồ Thái Dịch), có con cá ở trong bụi hoa sen nhảy ra. Vua ngoảnh bảo tả hữu rằng : “Ao rộng thì cá nhảy, nước trong nên mọc sen” ( Chữ Hán là : Chiểu khoát tòng ngư dục, Thủy thanh nghi hà sinh.).

Sai Phó vệ úy vệ Tả dực Nguyễn Văn Hạnh, Phó vệ úy vệ Tín uy Nguyễn Văn Cẩn quản binh thuyền chở gỗ cây từ Quảng Nam về Kinh. Vua răn bảo rằng : “Cẩn thận đấy, chớ vội mà hại quân lính ta”.

Đào sông Xuân Hòa (tên xã). Vua ra Xuân Hòa, xem khắp địa thế cao thấp, muốn khơi dòng sông để tiện việc làm ruộng, vời các cụ già sở tại đến hỏi. Mọi người nói : “Thiên tử giữ vận mệnh của dân, cứ xin bề trên quyết định”. Vua liền sai Giám thành sứ Nguyễn Văn Yên phát dân để đào.

Hai huyện Chân Định và Vũ Tiên trấn Sơn Nam hạ có dịch. Sai quan sở tại phát thuốc công cứu chữa.

Bọn Lê Duy An, Trịnh Hiến, Lý Bỉnh Đạo, Nguyễn Hữu Cung xin nghỉ về quê. Vua cho 200 quan tiền, mỗi người một cặp áo, cho thêm An 150 lạng bạc.

Cho Võ Văn Lân làm Khâm sai thuộc nội chưởng cơ, vẫn hành Lưu thủ Bình Thuận.

Đổi Phó vệ úy Thị nội tả thuộc viên là Tôn Thất Lợi làm Cai cơ.

Cho Cai cơ vệ Giám thành là Nguyễn Văn Đạo làm Khâm sai cai cơ.

Lấy Đỗ Văn Mãi làm quản cơ cơ Hữu dực.

Biếm Tham tri Hình bộ là Lê Bá Phẩm làm Thiêm sự. Bá Phẩm trước làm Cai bạ Quảng Nam, tự tiện tha hơn 20 người tù tội đồ, đến nay việc phát giác, triều đình bàn tội đáng cách chức. Vua cho rằng Bá Phẩm đi sứ Thanh có công, nên đặc biệt cho giáng chức.

Lấy Nguyễn Bá Uông làm Thiêm sự Công bộ.

Ngày Quý mùi, xây đắp Kinh thành. (Suốt bốn mặt thành dài 2.487 trượng 4 thước 7 tấc, suốt bốn mặt hào dài 2.503 trượng, 4 thước 7 tấc ; có 10 cửa, mặt trước là cửa Thể Nguyên, cửa Quảng Đức, cửa Chính Nam, cửa Đông Nam, bên tả là cửa Chính Đông, cửa Đông Bắc, bên hữu là cửa Chính Tây, cửa Tây Nam, phía sau là cửa Chính Bắc, cửa Tây Bắc ; ở góc đông bắc đắp đài Thái Bình, thành [của đài] mở một cửa gọi là cửa Thái Bình, cửa đài gọi là cửa Trường Định ; thân thành đài dài suốt 246 trượng 7 thước 4 tấc. Kỳ đài cao 4 trượng, 4 thước. Cửa Thể Nguyên sau đổi làm cửa Thể Nhơn, cửa Thái Bình sau đổi làm cửa Trấn Bình). Lấy biền binh ở Kinh và ở Thanh Nghệ, Bắc Thành, quân và dân Quảng Đức, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định sung làm việc. Ưu cấp tiền gạo (mỗi người mỗi tháng cấp tiền 1 quan 5, gạo 1 phương 15 bát).

Vua thấy công việc nặng nhọc, nghĩ giữ cho dân đỡ mệt, hạ lệnh mỗi ngày buổi sáng làm đến giờ ngọ thì nghỉ, buổi chiều làm đến giờ dậu thì thôi, ai đau ốm thì cấp thuốc thang điều trị.

Định hạn ngày thu tô thuế : từ Quảng Bình đến Bình Thuận mỗi năm thu một lần, tháng 4 bắt đầu, tháng 7 xong. Từ Nghệ An đến Thanh Hoa ngoại mỗi năm thu hai lần, vụ hạ tháng 4 bắt đầu, tháng 6 xong, vụ đông tháng 10 bắt đầu, tháng 11 xong. Lại răn bọn đốc thu không được đòi tiền ngoại ngạch, làm trái thì có tội.

Bắc Thành xét những lái buôn người Thanh về đường bộ, có mua các của quý như sừng tê, ngà voi thì lấy thuế 1 phần 40 giá tiền, định làm lệ vĩnh viễn.

Các quan Bắc Thành tâu nói : “Hai trấn Sơn Nam hạ và Hải Dương cùng hai phủ Kinh Môn, Nam Sách và hai huyện Thanh Hà, Tiên Minh thuộc Hải Dương công việc nhiều ít không giống nhau, mà tài làm việc của các quan đương chức cũng có kẻ cao người thấp khác nhau, vậy nên tùy tài đổi bổ, cho đều được xứng chức : xin đổi Hiệp trấn Hải Dương Nguyễn Văn Quý làm Hiệp trấn Sơn Nam hạ, Hiệp trấn Sơn Nam hạ Nguyễn Trí Hòa làm Hiệp trấn Hải Dương, Tri phủ Nam Sách Mai Huy Cận làm Tri phủ Kinh Môn, Tri phủ Kinh Môn Nguyễn Trứ làm Tri phủ Nam Sách, Tri huyện Tiên Minh Lý Trần Tăng làm Tri huyện Thanh Hà, Tri huyện Thanh Hà Võ Đình Ôn làm Tri huyện Tiên Minh”. Vua y cho.

Lấy Tham tri Hình bộ là Nguyễn Duy Hòa lĩnh Hiệp trấn Sơn Nam thượng, Tri phủ Hà Hoa là Trần Văn Tánh làm Ký lục Quảng Đức.

Miễn thuế thân năm nay cho thợ thuyền làm việc công ở các địa phương.

Sai Đô thống chế Tiền dinh quân Thần sách là Nguyễn Văn Trí đem quân lấy đá núi để xây đắp bờ sông mặt trước Kinh thành, dọc tới sông Kim Long.

Hạ lệnh các dinh trấn hằng năm chở tiền thóc và sản vật về Kinh, từ Quảng Nam đến Bình Thuận mỗi dinh đều một người dinh thần, bốn dinh thuộc Gia Định chia làm hai lần, mỗi lần đều hai người, thân tự đôn đốc vận tải, không được ủy cho nha lại.

Trấn thần Nghệ An tâu xin phát dân sửa đắp trấn thành. Vua dụ rằng : “Gần đây công việc nhiều và khó nhọc, đều bất đắc dĩ mới phải dùng dân. Việc này không cần gấp nên hoãn lại”.

Quảng Bình và Quảng Trị cho dân đi lấy gỗ ở rừng. Vua thấy nắng quá, nên bãi đi.

Dinh thần Quảng Đức dâng sớ xin cử học trò làm Tri huyện huyện Phú Vang và huyện Quảng Điền. Vua sai hai bộ Lại Lễ hội đồng xét hạch, người nào trúng cách thì bổ quan.

Viên Quản tri liêm hộ (tức là kim hộ, hộ lấy vàng) ở Quảng Nam là Nguyễn Đức Tuy lạm thu thuế vàng. Dinh thần theo sự trạng tâu lên. Vua sai giết đi và thu tang vật trả lại dân. Rồi sai dinh thần coi việc thuế.

Lấp sông cũ ở phía tây Kinh thành.

Tháng 5, định lệ lãng trưng ruộng đất cho những dân lưu lạc từ Nghệ An trở ra Bắc. Chiếu rằng : “Dân các địa phương khổ vì Tây Sơn bạo ngược. Nay can qua mới yên, chưa rỗi để vỗ về. Những người lưu tán chưa trở về hết, tình thật đáng thương. Vậy đặc biệt ra lệnh rằng ruộng đất của lưu dân từ năm Nhâm tuất về trước đã cho quan quân cày cấy rồi thì nay đình bãi để đợi lưu dân trở về lại cho quản nhận để làm ăn, tha thuế tha lính 3 năm. Từ năm nay đến năm Đinh mão mà chưa về thì cho nhân dân xã khác ai trưng trước thì được, năm nay làm sổ, năm sau nộp thuế kén lính. Từ năm Quý hợi về sau mà có người lưu tán thì ruộng đất vẫn cho quan quân cày cấy, đợi khi nào về sẽ cấp trả, việc tô thuế binh đinh cũng đến năm sau bắt đầu chịu, không theo lệ tha miễn 3 năm”.

Kén Hàn lâm viện và Cống sĩ viện người nào thông chính sự thì bổ tri phủ các phủ.

Cho tiền gạo lương tháng những biền binh các đội thuyền Tiểu sai, Trung hầu, Nội hầu, Thị trà cũng như các vệ Thị trung.

Giảm 5 phần 10 tiền thuế thân và tiền đầu quan năm nay cho Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Thuế ruộng các dinh thì đã tha giảm hồi đầu xuân. Vua thấy việc sửa đắp kinh thành nhân dân đến làm như con đến làm cho cha, nên lại gia ơn ấy.

Chuyển vận 33 vạn quan tiền ở kho Thanh Nghệ về Kinh.

Đặng Trần Thường dâng sớ cử Tiến sĩ triều Lê cũ là Nguyễn Du, hương cống là bọn Nguyễn Trọng Chiểu 14 người, hạ lệnh vời về kinh để xét dùng.

Sai hỏi thăm nghĩa dân Long Xuyên. Vua dụ bầy tôi rằng : “Trước đây nhà nước gặp bước khó khăn, ta phải lánh ra Long Xuyên, nhân dân nhiều người bỏ của nhà để  giúp quân, hăm hở việc công, thích làm điều nghĩa, ta rất khen. Vậy hạ lệnh cho lưu trấn Gia Định hỏi khắp những người ấy để tâu lên, lượng gia ban thưởng.

Cấm dân Gia Định không được đóng riêng thuyền sai.

Nguyễn Văn Nhơn từ Gia Định trở về. Vua triệu vào yết kiến, hỏi tình hình ngoài biên và ẩn tình của dân. Văn Nhơn thưa rất kĩ càng. Cho 500 quan tiền.

Chở hơn 10.000 phương thóc Gia Định chứa ở thành Diên Khánh.

Cho Hồ Văn Lân 500  quan tiền.

Trích lấy lính kho ở các thành và dinh trấn (lính kho các trấn Bắc Thành, cứ 38 người, các dinh trấn khác, cứ 15 người thì kén lấy 1 người), bổ vào hai đội Tín nhất và Tín nhị ở kho Kinh, lấy Đội trưởng giám thành Lê Vĩnh Niên làm Cai đội để đốc suất. Phàm tiền thuế các địa phương nộp về Kinh thì lấy ngay lính kho thuộc địa phương ấy đến nhận đem chứa cho khỏi sinh tệ.

Tháng 6, giảm thuế biệt nạp sản vật cho Quảng Đức, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Chiếu rằng : “Ngày nay sửa đắp Kinh thành, động tới sức dân, những dân biệt nạp thuế sản vật cũng phải làm việc, vậy ngạch thuế năm nay giảm cho 5 phần 10 để đều hưởng ơn, không có người riêng thiệt.

Lấy Cai cơ Võ Minh Thùy làm Quản cơ cơ Trung võ, Trần Văn Hổ làm Phó quản cơ cơ Tả võ, Lê Phước Thanh làm Phó quản cơ cơ Hậu võ.

Lấy Nguyễn Văn Hiến làm Khâm sai cai đội, quản năm thuyền Tiền bính, Tả bính, Trung bính, Hậu bính, Hữu bính ở Gia Định.

Sai xây các cửa thành Thăng Long (cửa Đông Nam, cửa Tây Nam, cửa Đông, cửa Tây và cửa Bắc), mỗi cửa đều dựng bia để ghi.

Dựng xưởng đúc súng, thưởng tiền cho các quân.

Lại cấm nấu rượu ở Gia Định. Có người nào nấu riêng thì tịch thu gia sản. Địa phương bắt mà tố cáo thì thưởng tiền 30 quan, biết mà không cáo thì cùng tội với kẻ phạm.

Cho Khâm sai thuộc nội cai cơ Mai Văn Kiêm một đạo châu sắc [đóng dấu son]. Kiêm có công theo đi Vọng Các, sau có bệnh xin về, con là Phó vệ úy Mai Văn Châu xin, nên đặc ân cho sắc này.

Lưu trấn thần Gia Định tâu rằng tướng sĩ bị bệnh về nghỉ ở trong hạt, có công theo đi Vọng Các là hơn 150 người, Kiêm có dự số ấy. Vua sai quan sở tại thường đến thăm hỏi, hằng năm ghi danh sách tâu lên. (Khâm sai thuộc nội cai cơ Mai Văn Kiêm, Trương Phước Dĩnh ; Khâm sai thống binh cai cơ Trần Văn Lưu ; Khâm sai  cai cơ Phạm Văn Quế, Trương Văn Khánh, Lê Văn Khâm, Nguyễn Văn Duệ, Trần Văn Khả, Huỳnh Văn Lý, Nguyễn Văn Thủ, Nguyễn Văn Quận, Đinh Văn Thái, Hứa Bảo Nương, Nguyễn Văn Chữ, Nguyễn Văn Trinh, Lê Văn Lượng, Hoàng Hữu Thiện, Trương Văn Quận, Nguyễn Văn Thảo, Trần Quang Nhi, Nguyễn Công Định, Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Văn Biện, Lê Văn Nguyên, Nguyễn Văn Thịnh, Phan Văn Minh, Phan Tiến Lượng, Võ Văn Điện, Hồ Văn Cảnh, Nguyễn Văn Châu, Mai Văn Đắc, Nguyễn Đức Lân ; Chánh sứ cai cơ Trung quân Nguyễn Tiến Lượng ; Cai cơ Nguyễn Thanh ; Khâm sai cai đội Phạm Văn Thoại, Lê Văn Thứ, Lê Văn Huyền, Đinh Văn Thịnh, Lê Văn Đức, Lâm Văn Sinh, Ngô Văn Vân, Đỗ Văn Thông, Trần Công Hiếu, Nguyễn Văn Tấn, Nguyễn Thị, Đỗ Công Giảng, Nguyễn Văn Phong, Thái Văn Phước, Nguyễn Kim, Lê Văn Minh, Trương Văn Tuyết, Nguyễn Văn Phấn, Võ Văn Việt, Nguyễn Văn Cúc, Nguyễn Văn Thoại, Nguyễn Văn Khách, Trần Văn Thị, Nguyễn Văn Lý, Cai đội Phan Văn Khách, Nguyễn Văn Trường, Võ Văn Chiêm, Võ Công Tính, Nguyễn Văn Huế, Nguyễn Văn Hòa, Nguyễn Văn Súng, Mai Nhật Lân, Phan Công Nhâm, Huỳnh Văn Thư, Nguyễn Văn Mã, Trần Văn Quang, Nguyễn Văn Khanh, Dương Văn Thuận, Trần Văn Lại, Trần Văn Toán, Hồ Văn Nộn, Nguyễn Văn Hưng, Nguyễn Văn Nghĩa, Trà Văn Bình, Lê Văn Tường, Võ Văn An, Nguyễn Văn Quý, Trần Văn Minh, Bùi Văn Xuy, Đỗ Văn Thắng, Nguyễn Văn Sa, Nguyễn Cửu, Trần Văn Hòa, Trần Văn Bình, Nguyễn Văn Chất, Ngô Văn Lựu, Võ Văn Tuyết, Lê Văn Khương, Cao Văn Trí, Nguyễn Văn Cửu, Lê Văn Sơn, Nguyễn Văn Niên, Nguyễn Văn Đạt, Nguyễn Văn Tĩnh, Cao Văn Phân, Nguyễn Văn Thông, Lê Văn Liễu, Võ Văn Thủ, Đặng Văn Thủ, Nguyễn Thuần, Nguyễn Văn Hóa, Lê Văn Nghĩa, Nguyễn Văn Trị, Nguyễn Văn Lựu, Lê Văn Tâm, Phạm Văn Sự, Nguyễn Văn Bình ; Cai đội nội phủ coi đội Thường ban Lê Văn ứng ; Tham mưu Hồ Xuân Quang, Trần Đăng Doanh, Hoàng Nhơn Cơ ; Phó đội Ngô Văn Mân, Nguyễn Văn Đắc, Nguyễn Văn Ngũ ; Đội trưởng Lê Văn Phụng, Nguyễn Văn Châu, Châu Ngọc Phong, Nguyễn Văn Tự, Nguyễn Văn Thái, Bùi Văn Lược, Trần Văn Chi, Nguyễn Văn Đắc, Trần Văn Định, Phan Văn Lộc, Phan Văn Cát, Nguyễn Văn Đệ, Nguyễn Văn Lựu, Nguyễn Văn Minh, Nguyễn Văn Phong, Phạm Văn Sơn, Trần Văn Tự, Nguyễn Văn An, Huỳnh Văn Hạnh, Đặng Văn Qua, Nguyễn Văn Cảo, Nguyễn Văn Hề, Võ Văn Nhuận, Trương Văn Dụng, Nguyễn Hiên, Đinh Văn Lợi, Nguyễn Văn Đắc, Thứ đội trưởng Trương Văn Đắc, Nguyễn Văn Lánh, Huỳnh Văn Chức, Tô Văn Hạnh, Nguyễn Văn Thậm, Lê Văn Chấp).

Những quan ở Kinh quê quán ở Gia Định, nhiều người xin về trấn làm việc để được gần gũi nuôi nấng cha mẹ. Vua nói : “Vì việc công phải quên việc riêng, đó là chức phận bầy tôi. Ta nghĩ tình các ngươi mong nhớ cha mẹ, nên đã cho một người trong con cháu anh em được miễn thuế thân và dao dịch để ở nhà nuôi thay. Các ngươi mình mang quan chức, sao còn xin nữa”. Không cho.

Quan Bắc Thành tâu nói : “Gần đến mưa lụt, sợ đê điều thẩm lậu, xin lấy dân sửa đắp và dự trữ đống đất và tre gỗ ở trên mặt đê để phòng bị”. Vua y theo lời.

Hạ lệnh cho từ Quảng Bình vào Nam đến Bình Thuận đều ghi số thuyền số người các đội Trường đà để tâu lên. (Quân Trường đà trước có các đội công sai là Kỵ Hải, Mã Hải, Sa Huỳnh, Bắc Hải, Long Yên, Trường Thọ, Đại Lê, lấy dân ở ven biển sung vào, Quảng Bình 10 xã thôn phường Cừ Hà, Lý Hòa, Thuận Cô, Cảnh Dương, Lộc Điền, Chỉ Giáp, An Náu nam biên và An Náu bắc biên, Nội Hà, Để Võng, có 183 chiếc thuyền, 1.427 người, từ Quảng Trị vào Nam đến Bình Thuận, có 327 chiếc thuyền, 1.604 người). Đổi đội Trường thọ làm đội Trường thuận.

Giặc biển Chà Và cướp bóc ở ngoài biển, dân Côn Lôn bị hại. Thủ thần xin hạ lệnh cho các thuyền công và thuyền tư đều được sửa sang khí giới để phòng bị. Vua y cho.

Phát quần áo cho biền binh quân Túc trực và quân Thần sách.

Hạ lệnh cho Gia Định thông sức cho người Hán cùng với dân Man họp chợ, chỉ được ở đầu địa giới để trao đổi, không được tự tiện vào sách Man. Có kẻ nào không theo lệnh thì trị tội. Thủ thần mà dung túng thì xử biếm hay bãi.

Vua đi chơi đồng Vân Trận (thuộc xã Văn Xã, huyện Hương Trà). Xã dân dâng lễ mừng, đều trả lại cả. Ba ngày rồi trở về.

Cho thuế sản vật nón dứa và cỏ gai ở Bình Định được nộp thay bằng vải, mỗi người 2 tấm.

Hạ lệnh lấy gỗ táu ở Bình Thuận nộp vào Kinh.

Trước đây Chiêu Nội về Trấn Ninh, trấn thần Nghệ An là Huỳnh Viết Toản sai cai đội Trần Văn Long đem quân tiễn đưa. Khi về, quốc trưởng Vạn Tượng gửi kèm thư cho Nghệ An và tặng 3 chiếc trống đồng cùng 144 cân quế. Văn Long nhận lấy về. Trấn thần cho rằng theo nghĩa thì kẻ làm tôi không được giao thiệp riêng với nước ngoài, Vạn Tượng không nên biếu riêng, Văn Long không nên nhận lễ dễ dàng, làm sớ tâu lên.

Vua dụ rằng : “Trung Quốc đối với người Di ở ngoài, không trị mà ra trị. Người ta lấy lòng thực đối với mình, cứ nhận lấy. Trẫm không vì thế mà bắt tội các ngươi. Văn Long là quan võ, không đọc sách, không đáng trách”. Hạ lệnh lấy một tấm gấm đỏ và một tấm gấm xanh gửi về Nghệ An, sai trấn thần làm thư gửi biếu.

Định lệ ruộng lương điền cho các quân. Vua thấy ruộng công quân cấp đã thành lệ rồi mà ruộng lương điền còn theo phép cũ, nhân viên tạp hạng nhiều người ăn lạm, bèn chuẩn định phàm xã dân nào có lệ ruộng lương điền thì cho cấp đều cho binh lính các dinh vệ hiệu thuyền đội các quân, quan có chức và nhân viên tản tạp không được dự. (Các dinh vệ đội thuyền quân Thần sách, năm dinh Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu quân Túc trực, các vệ Nghiêm dũng, Hiến dũng, Toàn dũng, Kiên dũng dinh Phấn dực, các đội Nội trực, Chấn uy, Thị trà, Tiểu sai, Loan nghi, Bả lệnh, Tiểu hầu, các thuyền Trung hầu, Tả hầu, Hữu hầu, Trung bính, Tả bính, Tân hầu, các đội thuyền Nội mã, Tả mã, Hữu mã, các vệ Kiên uy, Túc uy, Minh uy đồn Tiền du, các đồn vệ cơ chi hiệu thuộc năm quân Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu và quân Thần võ các dinh, vệ, cơ thuộc Tượng quân, các vệ chi dinh Tiên phong, mười một cơ dinh Quảng Ngãi, các chi Thượng đạo, các tàu hiệu thuộc năm thủy dinh Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu, các đội Thủ kiệu, Tả nghi ở Hậu điện, các tinh binh Tân nhất, Tân nhị, Nội trù, Thị hành thuộc nội).

Định lệ cầu gió đầu mùa xuân cho các cửa biển các địa phương.

Bộ Lễ tâu nói : “Bờ biển nước ta dài suốt, vận chở đường thủy rất tiện : cửa Eo ở Quảng Đức, cửa An Việt ở Quảng Trị, cửa Nhật Lệ ở Quảng Bình, cửa Đại Chiêm ở Quảng Nam, cửa Cổ Lũy ở Quảng Ngãi, cửa Thị Nại ở Bình Định, cửa Đà Diễn ở Phú Yên, cửa Cù Huân ở Bình Hòa, cửa Phan Rí ở Bình Thuận, cửa Cần Giờ ở Gia Định, cửa Hội Thống ở Nghệ An, cửa Thu Vi (tức cửa Trào) ở Thanh Hoa, cửa Hải Liêu ở Sơn Nam hạ, cửa Nam Triệu ở Hải Dương, cửa Hoa Phong ở Yên Quảng, đều là những cửa biển lớn, thuyền ghe công tư đi lại đều phải qua đó. Xin từ nay các quan địa phương mỗi năm cứ đến tháng mạnh xuân [tháng giêng] đều bày đàn tế ở các nơi ấy để cầu gió thuận”. Vua y lời tâu.

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển XXVII – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Ất sửu, Gia Long năm thứ 4 [1805], mùa thu tháng 7, ngày mồng 1, tế thu hưởng.

Lấy các xã Phú Xuân, Vạn Xuân, Diễn Phái, Thế Lại, An Vân, An Hòa, An Bảo, An Mĩ lệ vào Kinh thành, theo giám thành sai phái. Những nhà ở trong thành thì được miễn thuế thân và dao dịch trọn đời, ở ngoại thành được miễn 3 năm.

Sắc từ nay ở Kinh và ở ngoài, chi phát gạo lương cứ một phương gạo là 13 thăng (bằng 30 bát) làm mức.

Đào vét con sông ở sau Kinh thành. Ruộng đất của dân ở bờ sông đào phải, thì phát tiền cấp cho.

Đặt kho trữ ở ba dinh Trấn Biên, Trấn Định và Vĩnh Trấn. Theo lệ trước, tô thuế ở các dinh đều nộp vào kho trấn Gia Định. Mỗi khi có phát chẩn, thì do kho trấn chuyển phát. Vua cho rằng đường xa không tiện nên hạ lệnh cho ba dinh đều phải dựng kho riêng để trữ thóc tô : Trấn Biên 6.000 phương, Trấn Định và Vĩnh Trấn đều 10.000 phương, phòng sẵn để dùng.

Hạ lệnh cho các địa phương hằng năm cứ đến tháng 4 thì làm sổ chấp bằng quan lại binh đinh, cuối năm thì sửa sổ tiêu tống đinh điền, đều làm hai bản Giáp và ất, tới kỳ gởi lên bộ xét duyệt. (Sổ chấp bằng thuộc bộ Binh, sổ tiêu tống thuộc bộ Hộ).

Vua thấy dân gian Gia Định thóc gạo chứa chan mà kho trữ thì ít, sắc cho bốn dinh rằng lương gạo của biền binh thì chiết cấp bằng tiền (một phương gạo hơn giá chợ một tiền), năm nào mất mùa kém cỏi mới cấp bằng thóc gạo.

Bọn án thủ châu Vạn Ninh là Phạm Hữu Bân và Tri châu là Phan Chính Thể bị tội tham tang, trói giải về Kinh, lấy Phòng ngự sứ Phan Phương Khách và Thư kí Hoàng Phàn thay lãnh việc châu.

Sai Vệ úy dinh Túc trực là Phan Văn Mân quản giữ nguồn Thu Bồn (thuộc tỉnh Quảng Nam), Cai cơ Nguyễn Văn Nguyện quản giữ nguồn Thạch Thành (thuộc tỉnh Phú Yên), hằng năm thu các sản vật để nộp.

Lấy Khâm sai thuộc nội cai đội Nguyễn Văn Phấn làm Khâm sai cai cơ.

Sai biền binh Gia Định vận chở đồ vật của công về Kinh, mỗi người được cấp 3 tháng lương.

Thuyền buôn của người Chà Và bị nạn đậu ở phần biển Quảng Đức. Sai cấp quần áo tiền gạo rồi cho đi.

Bỏ ngạch thuế trầm hương cho 2 thôn Thuận An, Phú An ở Bình Hòa (mỗi năm mỗi người nộp 1 cân trầm hương), cho nộp thuế thân như lệ.

Miễn thuế thân cho các thợ lái và thủy thủ các thuyền vận tải.

Cấp gạo thuê cho các thuyền chở ở phía nam, từ Gia Định đến Quảng Nam, đều lấy xa gần mà tính mức. (Phàm cấp gạo thuê mượn thì lấy 75 thăng làm một suất, từ Quảng Nam thì cấp 2 thăng, Quảng Ngãi 4 thăng, Bình Định 6 thăng, Phú Yên 8 thăng, Bình Hòa 10 thăng, Bình Thuận 12 thăng, Gia Định 14 thăng).

Vua từng cùng bầy tôi bàn về việc dân ở Gia Định, nhân xuống chiếu dụ lưu trấn rằng : “Có năm đói năm no, là vận trời như thế. Nhà nước nuôi dân, không  gì cần bằng cứu đói. Gia Định đường sá xa xôi, như gặp tai thương phải đợi tâu rồi sau mới điều chữa thì đã muộn. Từ nay các dinh nếu chợt gặp đói kém thì do lưu trấn thần phát trước thóc kho cho dân vay rồi sau sẽ tâu”.

Bỏ ngạch thuế mây cho ba nguồn An Đại, An Náu, Cẩm Lý thuộc Quảng Bình. Ba nguồn này trước không có thuế mây. Đến ngụy triều Tây Sơn mới bắt đầu nộp, dân rất khổ, đến đây bỏ đi.

Chánh thống đồn Hữu quân là Nguyễn Văn An yêu sách tiền của ở quân lính, tang vật đến 3.000 quan, việc phát bị giết.

Tháng 8, định lệ các lễ cả năm cho các thành dinh trấn. (Miếu cũ Gia Định hai lễ Nguyên đán và Đoan dương mỗi năm chi tiền hơn 48 quan.

Gia Định và Bắc Thành, lễ duyệt binh đầu năm đều được chi tiền 100 quan ; ở Hành cung ba lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Đoan dương, mỗi lễ mỗi thành đều chi tiền hơn 125 quan, các dinh trấn thì đều chi tiền hơn 71 quan. Lễ khai trường thuế mỗi kỳ thuế mỗi dinh trấn đều chi tiền hơn 26 quan ; duy 6 ngoại trấn ở Bắc Thành thì đều chi tiền 20 quan ; lễ tạ trường thì đều

chi tiền hơn 12 quan. Các cửa biển lễ cầu gió đầu xuân đều chi tiền hơn

38 quan. Lễ đảo vũ mỗi lần 3 ngày đêm đều chi tiền hơn 6 quan. Lễ tạ thần đều chi 38 quan).

Lấy Thuộc nội cai đội Phạm Văn Dật làm Phó vệ úy vệ Nội trực.

Truy tặng thụy hiệu cho Đông cung nguyên soái quận công Cảnh làm Anh duệ hoàng thái tử, dựng nhà ở xã Vĩ Dã (thuộc huyện Phú Vang).

Lấy Trần Minh Nghĩa làm Cai bạ Trấn Biên, Nguyễn Văn Giảng làm Hàn lâm thừa chỉ, Ngô Quang Nhơn sung Hàn lâm viện.

Lấy Phạm Khắc Minh và Huỳnh Văn Nhuận làm ngự y chánh ở Thái y viện, Nguyễn Đăng Sĩ làm phó.

Vua yêu nuôi sức dân, từng dụ bầy tôi rằng : “Từ nhà Thương nhà Châu về sau, nhà Hán nhà Đường về trước, số hộ khẩu nhiều hay ít, các đời không giống nhau. Không vì lẽ gì khác, yêu nuôi dân thì dân sinh sản nhiều, bắt làm nhọc mệt thì hao mòn thôi”.

Lấy bọn Phan Văn Thể, Phạm Văn Thừ 64 người, sung bổ cai đội phó đội quân Thần sách ở Nghệ An.

Ban tiền gạo cho các lính ốm ở Hậu quân và quân Thần võ (mỗi người được cấp gạo 1 phương 15 bát, tiền 1 quan 5 tiền), cho về nghỉ ngơi.

Điện Thái Hòa làm xong. Thưởng cho lính và thợ làm việc 1.000 quan tiền.

Tha các thuế thân và tiền đầu quan cùng thuế sản vật cho các dinh Quảng Đức, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Trước đây, dân các dinh ấy ứng việc xây đắp Kinh thành, những thuế thân, thuế đầu quan, thuế sản vật đã được tha một nửa. Nay vua thấy công việc nhiều nặng, lại tha hết cho.

Ban cấp mộ phu và tự điền cho công thần thời quốc sơ. Trước đây vua sai Lễ bộ Đặng Đức Siêu khảo xét công trạng công thần, làm sách tâu lên. Dụ rằng : “Ta nhớ buổi quốc sơ đời nào cũng có những người công lao đạo đức giúp liệt thánh ta. Nay muốn đem thước đất để đền chút công ngày xưa, việc quan hệ đến điển lễ, cần phải rõ ràng cẩn thận”. Rồi cho Tổng trấn Tôn Thất Khê, Thiếu úy Tôn Thất Hiệp, Nội tán Đào Duy Từ, Tiết chế Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật, Chưởng cơ Nguyễn Hữu Kính làm công thần bậc trên ; Khám lí Trần Đức Hòa làm công thần bậc nhất ; Chưởng cơ Nguyễn Hữu Hào, Trấn phủ Tống Phước Trị, Chưởng dinh Tống Hữu Thanh, Thái giám Nguyễn Đình Quý, Trà quận công phu nhân Trần thị làm công thần bậc hai ; Thiếu sư Tôn Thất Diễn, Chưởng dinh Tôn Thất Tráng, Chưởng cơ Tống Phước Đào làm công thần bậc ba. Cho mỗi người một người con cháu tập ấm làm đội trưởng hay thứ đội trưởng. Ban cấp cho mộ phu coi và tự điền theo thứ bậc khác nhau. (Công thần bậc trên được ấm thụ đội trưởng 1 người, mộ phu 6 người, tự điền 15 mẫu ; công thần bậc nhất được ấm thụ đội trưởng 1 người, mộ phu 4 người, tự điền 9 mẫu ; công thần bậc hai được ấm thụ thứ đội trưởng 1 người, mộ phu 3 người, tự điền 6 mẫu ; công thần bậc ba được ấm thụ thứ đội trưởng 1 người, mộ phu 2 người, tự điền 3 mẫu).

Kinh thành làm xong, cho binh đinh làm việc về quê nghỉ ngơi, cấp cho lương đi đường hàng ngày. Khi đi đường có ai đau ốm thì cứ theo số ngày mà kế lãnh, không kể hạn đường. Lại thấy từ Nghệ An về Bắc đường sá xa cách, thưởng thêm cho binh đinh mỗi người 1 quan 5 tiền và từ đội trưởng trở lên 3 tháng lương tiền.

Hạ lệnh từ Kinh trở vào Nam đến Gia Định bỏ hết lệ cấm nấu rượu.

Hạ lệnh cho Bắc Thành tìm mua nhân sâm.

Bắc Thành dâng đá hoa Vân Nam.

Ngày Bính dần, vua rước Thái hậu đi thăm mộ Thái bảo Miên quốc công, nhân đó đến chùa Thiên Thai.

Dựng kho ở trấn Thanh Hoa, sai trấn thần thuê dân lấy gỗ về làm.

Hạ lệnh cho các địa phương đo đạc đường quan và các đường thủy bộ thường đi lại ; phàm thôn xóm xa gần, quán xá dầy thưa, cho đến sông bến cầu đò, núi khe rừng rú, cùng những nơi danh thắng cổ tích, có bằng chứng ghi chép thì đều biên lấy làm bản tâu lên.

Hạ lệnh cho Nghệ An thu 1, 2 phần 3 số thuế gỗ lim còn thiếu, lấy gỗ hồng sắc để thay ; lại tha 4 phần 10 thuế mái chèo.

Cho Phan Văn Đức làm Đô thống chế lãnh phó trưởng Tả quân.

Dân Man [Mọi] nguồn Phù Âu thuộc Quảng Đức cướp phá miền Tả Trạch. Sai Đô thống chế Phan Văn Đức và Lưu thủ Nguyễn Công Hòa đem quân đánh bắt, bắt được bọn man ác hơn 60 người. Vua chỉ cho giết thủ phạm, còn bao nhiêu cho đày đi Quảng Trị phục dịch.

Giặc biển Tề Ngôi họp hơn 50 chiếc thuyền lén lút ở phía ngoài biển cửa Liêu, cửa Lác và Biện Sơn. Quan Bắc Thành phái quân đi bắt. Sắc cho các dinh trấn tuần xét phần biển và phòng bị nghiêm nhặt.

Đổi thành Thăng Long 昇龍 [rồng bay lên] làm thành Thăng Long 昇隆 [thịnh vượng], phủ Phụng Thiên làm phủ Hoài Đức, huyện Quảng Đức làm huyện Vĩnh Thuận.

Cấp thêm gạo lương tháng cho lính thú ở hai cơ Hữu kích, Hậu kích thuộc Tượng quân, mỗi người 1 phương.

Tháng 8 nhuận, lấy Cai bạ Nguyễn Thành Chẩn làm Hữu tham tri Hộ bộ.

Triệu bọn Hiệp trấn Thanh Hoa là Nguyễn Tăng Địch, Cai bạ Phiên Trấn là Trần Quang Tĩnh, Ký lục Vĩnh Trấn là Nguyễn Đức Hội về Kinh. Lấy Lê Bá Phẩm làm Hình bộ Tham tri lãnh Hiệp trấn Thanh Hoa, Nguyễn Công Hạc làm Cai bạ Phiên Trấn, Trần Công Đàn làm Ký lục Vĩnh Trấn.

Lưu thủ Quảng Bình là Lê Văn Chử có tội, bị cách. Chử làm quan nhũng lạm, việc phát, triều đình nghị tội đáng chết. Vua nói : “Tội Chử đành thế rồi, duy pháp luật trị kẻ gian, nên lấy công bù lỗi, Chử theo hàng trận lâu ngày cũng có chút công, nay lấy pháp luật mà giết, lòng ta có chỗ không nỡ. Bèn cất chức Chử, lấy Chưởng cơ Lưu Phước Tường lãnh Lưu thủ Quảng Bình.

Lấy Hàn lâm viện Lê Văn Kim làm Tham hiệp Sơn Nam hạ, Nguyễn Dũng làm Tham hiệp Tuyên Quang.

Lấy Hồ Công Diệu làm Chánh đốc học Quốc tử giám, Nguyễn Thế Trực lãnh ất Phó đốc học, Trương Chi Lý làm Đốc học Gia Định, Võ Xuân Biều và Huỳnh Công Xuân làm Giáp ất Phó đốc học, Nguyễn Đăng Ngạn làm Hàn lâm viện chế cáo, lãnh Đốc học Quảng Nam, Nguyễn Duy Hợp làm Phó đốc học, Bùi Dương Lịch làm Đốc học Nghệ An, Phan Bảo Đĩnh làm Đốc học Thanh Hoa.

Năm ngoái Hải Dương và Sơn Nam thượng nước lớn, dân bị đắm đuối và xiêu tán nhiều. Đến nay dân lưu lạc dần dần trở về, thành thần đem việc tâu lên. Vua hạ lệnh phàm người chết đuối, kê cho đúng số, cứ 6,7 người chết thì miễn kén lính một người, người xiêu tán mới về thì hoãn bắt lính ; còn ruộng đất công tư thì cứ số thực cày cấy và bỏ hoang làm sổ tâu lên để lượng miễn giảm.

Người Man sách Viên Kiều thuộc Cam Lộ đến hiến phẩm vật địa phương và nói lệ cũ thuế của người Man vẫn nộp ở trường chợ Sái, giặc Tây Sơn mới đổi nộp về Cam Lộ, chuyên chở rất khó khăn, nay xin theo như cũ cho tiện. Vua y cho mà trả lại lễ vật, và cho về.

Sai Gia Định hàng năm mua 100 cân hải sâm ở sở Phú Quốc để nộp.

Vua thấy Ký lục Trần Đình Đàm đi theo lâu ngày, cho 2 người con được miễn thuế thân và dao dịch.

Dựng nhà công quán làm nơi khoản tiếp sứ giả phương xa. Thưởng cho lính và thợ làm việc 600 quan tiền.

Định lệ tuyển bổ quan viên khuyết ngạch ở các địa phương và các dinh quân.) Chánh phó vệ úy các vệ Thị trung, Thị nội, Thần sách có khuyết thì cho quan quản lãnh tâu xin chọn bổ ; cai đội, phó đội có khuyết thì quan quản lãnh tâu xin sung bổ.) Quân cấm vệ đóng thú ở các trấn có khuyết vệ úy, cai đội, cho trấn thần quyền cấp văn bằng khiến phó viên tạm quản, có khuyết phó vệ úy, phó đội thì cho chánh viên kiêm quản mà tâu lên đợi chỉ.) Các dinh quân có khuyết chánh phó thống đồn, quan chưởng lãnh tâu xin chọn bổ ; chánh phó vệ úy, chánh phó quản cơ, chánh phó trưởng chi, chánh phó trưởng hiệu, cai đội, phó đội, đội trưởng có khuyết thì cho chọn người giỏi trong dinh quân, đã thực thụ mà chưa cầm quân, tâu xin quyền cấp văn bằng khiến lấy bản chức mà tạm quản, đợi 3 năm không có lỗi mới cho bổ thụ. Các dinh quân theo quan quản lãnh đi trấn, có gặp khuyết mà cất bổ, cũng theo lệ ấy.) Phàm gặp khuyết mà không có người để bổ thì cho quan quản lãnh tâu xin chọn bổ. Như số quân các vệ chi cơ hiệu đội thuyền của dinh quân không đủ mà viên chức có khuyết, như chánh viên khuyết thì cho phó viên tạm quản, phó viên khuyết thì lấy chánh viên kiêm quản, không được vin lệ, tâu xin sung bổ.) Bốn dinh Gia Định và mười một trấn Bắc Thành, như chức lưu thủ, trấn thủ có khuyết thì cho lưu trấn thần và tổng trấn thần chọn người tạm quản và tâu lên đợi chỉ ; cai bạ, ký lục, hiệp trấn, tham hiệp có khuyết thì xin chọn bổ ngay ; án phủ, quản phủ, tuyên phủ, tri phủ có khuyết thì cho chọn người tạm quản ; tri huyện có khuyết thì chọn người bảo cử, vẫn dâng sớ tâu xin bổ thụ.)  Các quan dinh trấn, từ Quảng Bình đến Bình Thuận cùng Nghệ An, Thanh Hoa có khuyết thì cho các quan đồng liêu tâu xin chọn bổ ; phủ huyện có khuyết cũng theo lệ ấy.) Những quan văn võ ở ngoài già ốm về hưu hoặc có tình nguyện về Kinh hay về quán hoặc xin ở lại theo trấn thì quan sở tại đều cứ tình thực đề đạt và chờ chỉ.

Sai Hình bộ thanh lý những án đọng lại.

Sai bầy tôi bàn định luật lệnh.

Lấy Giám thành cai cơ Phan Mạnh Chánh làm Vệ úy vệ Cường uy, Cai cơ Thị nội tả thuộc viên Phạm Ngọc Tưu làm Phó vệ úy vệ Tuyển phong hậu, Tôn Thất Lợi làm Phó vệ úy vệ Dương võ, Cai cơ hữu thuộc viên Trương Phước Cận làm Phó vệ úy vệ Trung tín, Cai cơ Thị trung Võ Văn Trí làm Phó vệ úy vệ Kiên uy, Phó vệ úy Thị trung Hồ Văn Quế làm Phó vệ úy vệ Minh võ, Ngô Khánh Thái làm Phó vệ úy vệ Toàn võ.

Chưởng dinh Hồ Văn Lân vì tuổi già nghỉ việc, cho mộ dân ngoại tịch 50 người làm thuộc binh.

Trước kia quân đội mới dựng, các nha quyền thự sở thuộc của mình nhân lấy tước mà xưng. Vua ghét là lạm quyền, dụ bầy tôi rằng : “Quyên sai [sai tạm] và chỉ sai [có chỉ vua sai] khác nhau, sao được lẫn lộn như thế? Sắc từ nay các quan văn võ trong ngoài, phàm có tạm đặt liêu thuộc (ví như quận công, Thị trung đô thống chế, chưởng dinh, làm văn bằng sai người sở thuộc làm tiện nghi cai đội, đội trưởng, thứ đội trưởng, thủ hợp ; đô thống chế, Thị trung phó đô thống chế, phó tướng, phó đô thống chế, thống chế, chánh khanh sáu bộ, làm văn bằng sai người sở thuộc làm tiện nghi đội trưởng, thứ đội trưởng, thủ hợp ; các quan dinh trấn làm văn bằng sai người sở thuộc làm tiện nghi đội trưởng, thứ đội trưởng, đề lãnh, cai huyện, ký huyện, cai thuộc, ký thuộc, cai tổng, phó tổng) thì văn bằng chỉ ghi họ tên, không được xưng tước, cũng không được đem làm hạng chức sắc ngoại tiêu sai.

Sửa hành cung Nghệ An, trấn thần nhân đó xin sửa các nhà trạm. Vua cho rằng hai việc đều làm thì quá mệt sức dân, không cho.

Tháng 9, Nguyễn Văn Khiêm tâu xin chia quân thị vệ làm hai ban ứng trực. Vua y cho.

Bầy tôi xin lập thái tử. Vua dụ rằng : “Ta từ thuở nhỏ, gặp vận nhà không may, từng trải mọi gian hiểm mới có ngày nay, khó nhọc mà được, mới phải nghĩ truyền để lâu dài. Thái tử là ngôi vua sau này của nước, chính thống là ở đó. Nay hoàng tử hoàng tôn hãy còn nhỏ, trẫm đương ủy cho thầy dạy, rèn đúc thành tài đức rồi sau chọn kẻ nào hiền mới lập, thế cũng chưa muộn”.

Sắc định sắc phục của hoàng hậu và phi tần.

Định số nhân viên thuộc ty các nha ở Kinh : Ty Lệnh sử bộ Hộ 80 người, bộ Lại, bộ Binh đều 70 người, ba bộ Lễ, Hình, Công, Đồ gia, Ngoại đồ gia, đều 50 người, ty Chiêm hậu lại 30 người.

ấm thụ cho con Cai cơ Tiên phong Võ Văn Chính là Văn Tẩu chức hàm đội trưởng (Văn Chính có công theo đi Vọng Các).

Bỏ thuế mây nước và than gỗ cho đội Đồng Sách Tử (thuộc nguồn An Náu) ở Quảng Bình. Dân trong đội 50 người, mỗi năm phải nộp 100.000 sợi mây và 500 cân than gỗ. Dân ấy gần đây sung vào các dinh quân và trốn đi gần hết, thủ thần xin bỏ thuế ấy. Vua y cho.

Tha thuế thân và dao dịch cho bọn Lương Văn Quyền, Phạm Văn Huyền 15 người ở Bình Định. Bọn Quyền tự trình bày ông cha trước từng xướng nghĩa, bị giặc Tây Sơn giết chết, dinh thần đem việc tâu lên bèn tha cho.

Địa giới các sóc Cần Đăng và Mỹ Tho thuộc Chân Lạp, bị dân Hán tranh chiếm. Chiêu chùy là Tham Đích đem việc kêu với Gia Định. Lưu trấn Nguyễn Văn Trương hạ lệnh cho dinh thần Vĩnh Trấn tới nơi để chia vạch lại. Tham Đích lại xin ba khoảng ruộng núi thôn Thái Hòa trung. Lưu trấn thần tâu lên. Vua cho rằng ruộng đã có sổ ngạch rồi, không y lời xin. Sắc từ nay phàm ruộng đất đã có sổ ngạch thì không cho người Chân Lạp xin nữa. Nhưng cấm dân Hán không được chiếm địa giới của họ, để dứt mối tranh nhau.

Biên biền binh tàu Long phi làm biền binh tàu Thoại phượng, sai Chưởng cơ Nguyễn Văn Thắng quản.

Hạ lệnh cho trấn Gia Định và ba dinh Trấn Biên, Trấn Định, Vĩnh Trấn đều dựng hành cung (dinh lị Phiên Trấn ở trấn thành Gia Định được miễn).

Lại thấy các dinh chưa đặt công sảnh, sai dinh thần chi xuất tiền kho để làm. (Tiền làm công sảnh lưu thủ 800 quan, công sảnh cai bạ, ký lục đều 600 quan).

Lấy Phan Kế Điều làm Cai bạ Quảng Bình.

Mùa đông, tháng 10, ngày mồng 1, tế đông hưởng.

Bàn kén binh lính các dinh từ Quảng Bình về Nam đến Bình Thuận. Quảng Đức, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam thì chọn điểm trong tháng này, Bình Định, Phú Yên, Bình Hòa, Bình Thuận thì đến tháng giêng năm sau mới chọn điểm. Những binh lính các dinh vệ cơ các quân quê thuộc các dinh thì bãi hết cho về, hợp với dân ở sổ, cứ 3 người lấy 1 bổ vào các dinh vệ cơ các quân. Sai bọn Nguyễn Văn Nhơn, Lê Văn Duyệt, Lê Quang Định, Nguyễn Quang Diệu chia nhau đi kén lính ở các dinh Quảng Đức, Quảng Trị, Quảng Bình và Quảng Nam.

Lấy Mai Văn Hiến Quản đạo Phố Hài, Đỗ Văn Minh Quản đạo Phan Rang. Dụ rằng : “Bọn ngươi đi theo đã lâu, nay ủy cho trách nhiệm quản đạo, cẩn thận đừng nên sinh việc nhiễu dân mà phạm phép nước”.

Chọn 42 người tôn thất bổ vào đội Nội hầu.

Chuẩn định tự Quảng Bình về Nam đến Phú Yên phàm dân sở tại có ruộng tam bảo (1. Ruộng tam bảo : Tức ruộng chùa.) thì nhà nước thu thuế, thuế xem như ruộng công tư có ba bậc nhất nhì ba.

Ban nghi tiết tế tự ở Văn miếu.

Đổi định lại danh hiệu các vệ trong bốn dinh Trung Tiền Tả Hữu thuộc quân Thần sách ở Thanh Nghệ. (4 vệ Uy võ, Dương võ, Toàn võ, Minh võ thuộc Trung dinh ; 4 vệ Ban trực tuyển phong tiền, Phấn võ, Trung võ, Kiên uy thuộc Tiền dinh ; 4 vệ Ban trực tuyển phong tả, Diệu võ, Định võ, Tín uy thuộc Tả dinh ; 4 vệ Ban trực tuyển phong hữu, Túc võ, Cung võ, Hổ uy thuộc Hữu dinh. Duy vệ hiệu thuộc Hậu dinh vẫn như cũ).

Nhơn dân Gia Định nhiều người đòi hỏi nợ riêng lâu năm. Vua nghe tin, sai lưu trấn thần thống sức cho dân gian rằng tiền nợ chỉ lấy một vốn một lãi làm hạn. (Như tiền vốn 100 quan thì lấy lãi 50 quan là một lãi, tiền vốn 10 quan thì lấy lãi 5 quan là một lãi). Trái lệnh cấm và vỗ nợ đều có tội.

Nhà vua, trong khi muôn việc rảnh rang, có lúc gần âm nhạc, bọn Nguyễn Văn Nhơn, Phạm Văn Nhơn, Nguyễn Đức Xuyên dâng sớ can. Vua khen là nói phải, dụ rằng : “Trẫm không vì đó mà trễ triều chính. Bọn khanh sao lo xa thế ?”.

Hạ lệnh cho các quan văn võ chia ban trực ở công thự. Võ thì chưởng quân, quận công, Thị trung đô thống chế, chia làm ba ban, mỗi ban 2 người, ngày đêm trực ở công thự võ ; văn thì chính khanh sáu bộ, tham tri, thiêm sự, chia làm ba ban, mỗi ban có 2 chính khanh, tham tri hay thiêm sự thì mỗi bộ đều 1 người, ngày đêm trực ở công thự văn. Nếu ai có việc cáo [thiếu] đến hai lần thì cứ thực tâu lên.

Hữu Tham tri Lễ bộ là Trần Hưng Đạt vì tuổi già xin nghỉ việc. Vua y cho.

Lấy Nguyễn Gia Cát làm Tả tham tri Lễ bộ, Lê Chính Lộ làm Hữu tham tri.

Hình bộ Nguyễn Tử Châu dâng hình luật. Vua triệu các văn võ đại thần tuyên đọc và thân tự xét định. Từ đó ngày thường tiến đọc, buổi sáng đến khi giọt đồng hồ chuyển 10 khắc mới thôi.

Sai Lệnh sử ty sáu bộ tra xét tiền thóc sản vật ở các dinh.

Đô thống chế lãnh phó tướng Tả quân là Phan Văn Đức chết ; tặng Chưởng dinh, cho 2 cây gấm Tống và 100 quan tiền.

Ban sắc thị cho bọn nguyên Hộ bộ Phan Thiên Phước 29 người.

Sắc rằng dinh vệ các quân thủy bộ, phàm ở Kinh và đóng thú ở Bình Định, Diên Khánh, Nghệ An, Bắc Thành, có lệ được áo mùa xuân, thì quan quản lãnh và quan địa phương, đều đến cuối mùa đông làm danh sách gửi bộ, mỗi năm cứ tháng giêng tháng hai là kỳ chia cấp.

Đóng tàu Thanh tước ở Gia Định. Lưu trấn thần xin phát binh dân các dinh chia nhau đi tìm lấy ván, mà bắt dân biệt nạp đồn điền phải xuất tiền thuê.

Chiếu trả lời rằng : “Việc công tác mà động tí lại phiền đến tài lực của quân dân, đó không phải là ý trẫm muốn dân được yên nuôi nghỉ ngơi. Làm một chiếc thuyền Thanh tước thì đội Mộc đĩnh kiếm gỗ cũng đủ, hà tất phải bắt nhiều binh dân”.

Cho Mạc Tử Thiêm làm Khâm sai chưởng cơ, vẫn lãnh Trấn thủ Hà Tiên.

Lấy Huỳnh Tấn Thuận sung Hàn lâm viện.

Vận chở gỗ lim ở Nghệ An về Kinh.

Đặt thêm phu trạm ở ba trạm Thạch Bàn, Du Lai và Phù My. (Ngạch cũ có 50 người, đến nay đặt thêm cho Thạch Bàn 25 người, Du Lai 20 người, Phù My 30 người. Thạch Bàn thuộc tỉnh Phú Yên, Du Lai và Phù My thuộc tỉnh Bình Thuận).

Lưu trấn thần Gia Định tâu nói : “Gần đây giặc biển Chà Và không làm lo cho dân ở Côn Lôn nữa, cho nên ngựa công chăn nuôi ở đấy sinh sản ngày nhiều”. Vua sai chọn ngựa đã rèn tập đưa về Kinh.

Hạ lệnh cho Quảng Nam hằng năm đến tháng 9 thì tiến quả nam trân [loòng boong].

Hạ lệnh cho Nghệ An biên thuyền của dân có thể đi biển được (thuyền gỗ bề ngang rộng 6 thước trở lên, thuyền tre rộng 7 thước trở lên), làm sổ tâu lên.

Tháng 11, vua triệu Phạm Đăng Hưng đến bàn về đạo trị của đế vương đời xưa, nhân hỏi rằng : “Nghiêu Thuấn vô vi nhi trị là nghĩa thế nào ?” Đăng Hưng thưa rằng : “Câu này ở trong sách Đại học diễn nghĩa, Chân Đức Tú bàn đã rõ ràng”. Vua bèn sai đem sách ấy tiến lên để xem.

Lấy Cai cơ Huỳnh Văn Viễn làm Phó vệ úy vệ Ban trực tiền quân Thần sách.

Sai Công bộ Trần Văn Thái kiêm quản dinh Phấn Dực và dinh Ngũ Thủy.

Lấy Vệ úy vệ Kiên dũng là Trương Phước Đăng làm Vệ úy vệ Thị trung tiền nhị, Phó vệ úy vệ Chấn võ là Tống Văn Hóa làm phó.

Vệ úy vệ Cường uy quân Thần võ là Phan Mạnh Chính chết ; tặng Chưởng cơ.

Lấy Cống sĩ viện là Trần Lợi Trinh và Lê Văn Phong sung Hàn lâm viện.

Nguyên Hộ bộ Phan Thiên Phước chết ; tặng Tham chính, cho gấm Tống 2 cây, vải lụa đều 2 tấm, tiền 300 quan.

Miễn dao dịch cho thợ rừng Quảng Đức và Quảng Trị mỗi năm nộp thuế bằng gỗ, hạng tráng nộp 2 cây (mỗi cây trường 10 thước dầy 8 tấc làm mức), hạng lão tật nộp một nửa.

Vua rất lưu ý đến việc văn trị, từng hỏi Đốc học Quốc tử giám là Hồ Công Diệu rằng : “Gần đây học trò học tập ra sao ?” Công Diệu thưa : “Từ thuở Tây Sơn nổi loạn, phú dịch nặng nề, học trò phải bỏ học lâu ngày, nay mới chấn hưng, người đi học hãy còn ít”. Vua dụ rằng : “Khanh giữ chức đào luyện, nên vì nhà nước bồi dưỡng nhân tài, phàm mỗi năm khảo hạch học trò nên lấy rộng thêm, chước miễn binh dịch dao dịch cho họ để cho người học có thể chuyên nghiệp thì nhân tài sẽ ngày một thịnh”.

Vua xem đánh cá ở sông Hương.

Dân Chân Lạp có 47 người gặp bão dạt đậu vào Khâm Châu nước Thanh, tự xưng là dân của nước ta. Người Thanh đưa trở về. Quan Bắc Thành đem việc tâu lên. Sai các trấn dọc đường tiếp tế lương thực cho về.

Nguyễn Văn Khiêm tâu cử cai đội, phó đội là bọn Trần Văn Giảng, Mai Văn Thuận 46 người suất lãnh các dực binh lệ theo hoàng tử hoàng tôn; bọn Nguyễn Văn Thuận. Nguyễn Văn Tư 24 người suất lãnh binh thuộc kiên lệ theo đường quan sáu bộ. Vua y cho.

Thuyền vận tải của Bắc Thành gặp gió, hại mất 1.600 phương gạo. Hữu ty xin bắt thợ lái bồi thường đủ số. Vua nói : “Cái ấy sức người không chống nổi, miễn cho”.

Cấp tiền gạo cho lính mới kén ở các dinh quân. Nhân đó, răn các quản quân rằng : “Lính mới lệ theo đội ngũ, bọn ngươi có trách nhiệm quản suất, nên vỗ về yêu thương, không được sai làm việc riêng để đến nỗi họ trốn mất”.

Nguyễn Văn Nhơn và Nguyễn Quang Diệu tự Quảng Nam về, tâu nói : “Trong tuyển trường có một người đã điểm làm lính mà tự chặt ngón tay đi để cầu khỏi. Bọn thần cho rằng nó không có nhân tâm, chém ngay để làm gương”. Vua nói : “Pháp luật vẫn nên như thế”. Nhân sắc cho các dinh trấn rằng : “Phàm hạng có tàn tật ở sổ, nên xét rõ duyên do, kẻ nào giả dối không thực thì trị tội nặng”.

Sai Bắc Thành chọn cử những người có thể làm chánh phó vệ úy, cai đội, phó đội, lấy 69 người, ghi tên tâu lên.

Tháng 12, lấy Chưởng cơ Vương Văn Học làm Vệ úy vệ Ban trực hữu quân Thần sách, cai cơ Nguyễn Văn Cận làm Phó vệ úy vệ Long võ.

Cai bạ Quảng Bình là Phan Kế Điều có tội bị cách chức. Đình thần xin lấy tri phủ Hà Hoa là Phạm Văn Dưỡng thăng bổ. Vua nói rằng : “Dưỡng ở quan chưa bao lâu, sao đã vội thăng ?”. Bầy tôi đều sợ cúi đầu tạ tội. Vua bèn mở sổ quan xem, lấy Tham hiệp Thanh Hoa là Lê Đắc Tần thay.

Lấy Tham hiệp Nghệ An là Nguyễn Xuân Thục làm Ký lục Trấn Biên, Tri phủ Tĩnh Gia là Đinh Văn Nhã làm Tham hiệp Thanh Hoa, Tri phủ Đức Quang là Thái Văn Nguyên làm Tham hiệp Nghệ An.

Từ Kinh sư vào Nam đến Bình Hòa, ra Bắc đến Thanh Hoa, lâu không mưa. Vua lấy làm lo, hạ lệnh cho các quan dinh trấn đặt đàn cầu đảo bảy ngày đêm, có mưa hay không, đều làm sớ tâu lên.

Ngày Canh dần, vua yết lăng Hoàng khảo.

Ngày Tân mão, tế Chạp.

Gia tặng Tôn Thất Hạo làm Dực vận đồng đức tôn thần đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân thái phó quốc công, thụy là Trung nghĩa ; Tôn Thất Đồng làm Dực vận minh nghĩa tôn thần đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân thái sư quốc công, thụy là Trung tiết ; Tôn Thất Mân làm Dực vận tuyên lực tôn thần khai phủ phụ quốc nguyên soái thiếu phó quận công, thụy là Trung liệt, Tôn Thất Điến làm Dực vận tĩnh nạn tôn thần đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân thái bảo quốc công, thụy là Trung mẫn. (Bốn người đều là con Hưng tổ, ra trận tử tiết).

Cấp ruộng tự điền cho các vị tôn thân. Tuyên vương mục vương tự điền đều 100 mẫu (ở xã Hà Trung huyện Phú Lộc), Thái phó Tôn Thất Huy 80 mẫu, Cai đội Tôn Thất Chương, Cai cơ Tôn Thất Bảo và Thiện Long giáo chủ Tống Sơn quận quân Ngọc Dao đều 15 mẫu (đều ở hai xã Kế Môn và Đại Lộc huyện Phong Điền). Sai bọn Tôn Thất Diệu, Tôn Thất Quân, Tôn Thất Sài, mỗi năm thu tiền thóc để thờ cúng. (Tôn Thất Chương, Tôn Thất Bảo và Ngọc Dao là do Hiếu võ hoàng hậu sinh ra).

Cho bầy tôi tôn thất là Tôn Thất Khê, Tôn Thất Hiệp, Tôn Thất Hạo, Tôn Thất Đồng, Tôn Thất Mân, Tôn Thất Điến, Tôn Thất Huy 7 người và công thần là Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Kính, Võ Tánh, Ngô Tùng Châu 6 người, được tòng tự ở Thái miếu. (Tả vu có bảy án : án tả nhất thờ Tá lý tôn thần đặc tiến thượng trụ quốc bình chương quân quốc đại sự tổng trấn Tường quận công, thụy Trung Nghị, Tôn Thất Khê ; án tả nhị thờ Minh nghĩa tuyên lực tôn thần khai phủ phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ Tả quân đô đốc phủ chưởng phủ sự thiếu úy quận công, thụy Toàn Tiết, Tôn Thất Hiệp ; án tả tam thờ Dực vận đồng đức tôn thần đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân thái phó quốc công, thụy Trung Nghĩa, Tôn Thất Hạo ; án tả tứ thờ Dực vận minh nghĩa tôn thần đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân thái sư quốc công, thụy Trung Tiết, Tôn Thất Đồng ; án tả ngũ thờ Dực vận tuyên lực tôn thần khai phủ phụ quốc nguyên soái thiếu phó quận công, thụy Trung Liệt, Tôn Thất Mân ; án tả lục thờ Dực vận tĩnh nạn tôn thần đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân thái bảo quốc công, thụy Trung Mẫn, Tôn Thất Điến ; án tả  thất thờ Dực vận tá mệnh tôn thần chưởng Tả quân dinh thiếu phó đặc tiến thượng trụ quốc Tả quân đô đốc phủ chưởng phủ sự thái phó chưởng dinh quận công, thụy Trung Tĩnh, Tôn Thất Huy. Hữu vu có sáu án : án hữu nhất thờ Hiệp mưu đồng đức công thần đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu nội tán Lộc Khê hầu, thụy Trung Lương, Đào Duy Từ ; án hữu nhị thờ Hiệp mưu tán lý công thần đặc tiến Tả quân đô đốc phủ chưởng phủ sự tiết chế Thuận quận công, thụy Chính Cần, Nguyễn Hữu Tiến ; án hữu tam thờ Tán trị tĩnh nạn công thần đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ Tả quân đô đốc phủ tả đô đốc chưởng phủ sự Lưu Đồn đạo đốc suất chưởng dinh Chiêu quận công, thụy Càn Tiết, Nguyễn Hữu Dật ; án hữu tứ thờ Tuyên lực công thần đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ đô chỉ huy sứ Ty đô chỉ huy sứ đô đốc phủ chưởng phủ sự phó tướng chưởng cơ Lễ Tài hầu, thụy Tuyên Vũ, Nguyễn Hữu Kính ; án hữu ngũ thờ Khâm sai chưởng Hậu quân bình Tây tham thặng đại tướng quân tặng Dực vận công thần đặc tiến phụ quốc đại tướng quân thái úy quốc công, thụy Trung Liệt, Võ Tánh ; án hữu lục thờ Khâm sai Lễ bộ tặng Tán trị công thần đặc tiến trụ quốc kim tử vinh lộc đại phu Đại lý tự khanh thái tử thái sư quận công, thụy Trung ý, Ngô Tùng Châu).

Quan Bắc Thành tâu rằng : “Gần đây các trấn phủ huyện xét hỏi kiện tụng, phần nhiều chưa đúng, dân thường kiện ở thành. Xin theo nhẹ nặng mà nghị phạt, đến cuối năm làm sách tâu lên để phân biệt kẻ hay người dở”. Vua y lời tâu.

Dựng nhà học ở Thanh Hoa.

Hộ bộ Nguyễn Kỳ Kế dâng sổ thuế biệt nạp của các dinh ở Gia Định và các trấn Thanh Nghệ, các trấn ở Bắc Thành. Vua dụ rằng : “Quản lý sản vật của dân, cốt yếu là ở ăn mặc và đồ dùng. Nay nên xem những vật thiết dụng thì giữ, không thì bãi đi, để tiện cho dân.”

Thống lãnh thượng đạo Thanh Hoa là Hà Công Thái tâu rằng : “Năm Giáp dần bắt đầu vâng mệnh về tập họp thổ binh và hào mục các huyện ở Thanh Hoa, Nghệ An, tổ chức thành năm chi, thường chống đánh giặc Tây Sơn để đợi quân nhà vua. Mùa xuân năm Nhâm tuất hợp với quân nước Vạn Tượng để chẹn đường chạy của giặc. Nay số quân hiện có ở năm chi là 581 người, xin đặt thêm làm bảy chi, ghi họ tên, hằng năm đem ngạch dâng tâu. (Khâm sai cai cơ chánh quản các đội 1 người, cai bạ điển quân 1 người, chánh quản chi 7 người, phó quản chi 7 người, trưởng hiệu cai đội 35 người, phòng ngự sứ chia quản các động sách 11 người, thủ ngự sứ 28 người, còn dư từ đội trưởng đến quân là 491 người). Lại trước đặt ba hiệu quế hộ giáp, ất, bính, nay lại mộ thêm dân ngoại tịch đặt một hiệu đinh, cộng 178 người, xin đều miễn thuế thân, tiền đầu quan và dao dịch”. Vua y cho.

Quốc trưởng nước Vạn Tượng là Chiêu A Nỗ sai sứ đến cống. (Voi đực 2 con, sừng tê 2 tòa, nhục quế 800 cân). Sứ giả đến Cam Lộ, dinh thần Quảng Trị dịch thư nói : Xưa ở đời liệt thánh, nước họ 3 năm một lần cống, đời đời xưng phiên thần. Từ khi giặc Tây Sơn tàn ngược, dân không sống nổi, mới phải theo nước Xiêm, lại bị người Xiêm làm khổ. Nay uy vũ nhà vua nổi dấy, Man Di đều quy phục cả, xin theo lệ cũ, tiến cống như xưa. Dinh thần đem việc tâu lên. Vua sai thiêm sự Lễ bộ và cai đội Tiểu sai đều một người đi tiếp sứ giả. Khi sứ giả đến, cho yết kiến, hỏi về chính sự phong tục nước họ, rồi khoản đãi rất hậu, hơn một tháng, sứ giả xin về nước.

Vua bảo Đặng Đức Siêu rằng : “Đi thì hậu, lại thì bạc, đó là đạo mềm mỏng với người xa. Nước Vạn Tượng không bỏ lễ thờ nước lớn, kính thuận đáng khen, nên ban tứ hậu mà bảo về”. (Cho quốc trưởng đoạn hồng vũ 5 tấm, trừu trắng 20 tấm, the mầu, lụa trắng, vải nhỏ trắng, vải nhỏ thâm, đều 50 tấm ; sứ bộ 43 người đều cho bạc tiền theo thứ bậc khác nhau). Lại cho chiếu dụ rằng : “Quốc trưởng Chiêu Ấn trước nước ngươi là bề tôi cũ của trẫm vậy. Trẫm đối với nước ngươi, chỉ nghĩ đến vỗ về yêu mến. Ngươi nên kính giữ chức phận, giữ yên lấy dân, cho xứng ý trẫm”. Sai Lễ bộ bàn định lệ cống, bắt đầu từ năm nay. (Ba năm một lần cống, lấy các năm sửu, thìn, mùi, tuất làm kỳ cống, tháng 12 thì đến Kinh cho kịp ngày chầu mừng tiết Chính đán. Đồ cống là : voi đực 2 con, sừng tê 2 tòa, ngà voi 2 chiếc, vỏ quế 5 cân. Sứ bộ thì chánh sứ phó sứ đều 1 người, tù trưởng 3 người, thông ngôn 2 người, người đi theo 30 người. Đường sứ do trạm Nghệ An dẫn đi, không được theo đường Cam Lộ Ai Lao.

Giặc nổi ở Sơn Tây và Hải Dương, họp đảng ở khoảng Tiên Phong, Thanh Hà. Quan Bắc Thành sai thám tử là Trương Nghiễm và Nguyễn Văn Đặng dẫn quân chộp bắt, bắt được đầu đảng là Cao Văn Dụng (ngụy xưng niên hiệu Cảnh Nguyên), Nguyễn Tình (ngụy xưng Chính Thuận thái tử) giết đi. Việc tâu lên. Cho bọn Nghiễm làm cai đội, thưởng tiền 600 quan.

Giặc biển cướp ở ngoài biển Nghệ An, lính tuần dương đánh đuổi chạy, bắt được 18 người. Trấn thần tâu lên. Thưởng tiền 200 quan.

Ngày ất tỵ, vua ngự ở điện Thái Hòa, ban lịch cho trong ngoài.

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển XXVIII – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Bính dần, Gia Long năm thứ 5 [1806] (Thanh Gia Khánh năm thứ 1), mùa xuân, tháng giêng, ngày Bính thìn, tế xuân hưởng.

Bầy tôi lại dâng biểu khuyến tiến xưng đế hiệu. Vua theo lời xin. Sai Lễ bộ chọn ngày lành đúc sách vàng.

Lấy Nguyễn Du làm Đông các học sĩ, Lê Lương Thận làm Hàn lâm viện chế cáo, Nguyễn Hữu Kiều sung Cống sĩ viện.

Lấy Nguyễn Danh Dương làm Đốc học Nghệ An.

Sai bọn Chưởng quân Nguyễn Văn Nhơn, Nguyễn Huỳnh Đức, Tham tri Nguyễn Quang Diệu, Thiêm sự Trần Văn Tánh, chia đi các dinh Bình Định, Phú Yên, Bình Hòa, Bình Thuận, để kén lính.

Cho Đinh Văn Dụ làm Khâm sai chưởng cơ, vẫn hành chức Lưu thủ Quảng Trị.

Thống chế Nguyễn Công Nga và Phó tướng Nguyễn Công Thái vì tuổi già xin về hưu. Vua nghĩ hai người có công theo đánh giặc, đều thưởng cho mỗi người một năm bổng. Lại cho Công Nga 30 người thuộc binh, Công Thái 25 người, sai mộ dân ngoại tịch sung vào.

Tôn Thất Thăng tâu xin bổ cho bọn Nguyễn Hữu Hựu 14 người trong cơ Kiên thuận sở thuộc làm quản cơ, cai đội, đội trưởng, khác nhau. Vua y cho.

Chưởng cơ phó thống Tả quân là Nguyễn Văn Thiêm chết ; tặng Chưởng dinh.

Định số tùy binh cho thống quản các dinh quân ở Kinh theo thứ bậc khác nhau. (Đô thống chế các dinh Thần sách, phó đô thống chế Trung dinh, đều 20 người ; thống chế Thị trung, phó đô thống chế các dinh Thần sách, đều 10 người ; vệ úy Thị trung, chánh quản Trung hầu, đều 7 người ; phó vệ úy Thị trung, phó quản Trung hầu, vệ úy Nội trực, Thần sách đều 4 người ; cai đội Thị trung, phó vệ úy Nội trực, Thần sách, đều 2 người ; cai đội Trung hầu, Nội trực, Thần sách, đều 1 người).

Định 9 điều binh chính cho từ Quảng Bình vào Nam đến Bình Thuận. Chiếu rằng : “Giữ nước giữ dân không thể không có quân lính. Trị binh có chế độ thì dân mới thường yên, nước mới thường trị. Trước đây giặc Tây Sơn bạo ngược, bắt hết dân làm binh, mà quản quân thì không thương yêu binh lính chút nào, tha hồ đào khoét, đến nỗi quân không vui làm, dân không thể sống. Trẫm kính thi hành hình phạt của trời, cả định võ công, rất để ý đến binh chính. Các dinh từ Quảng Bình đến Bình Thuận đều chiếu theo số đinh, cứ 3 đinh lấy 1 bổ vào các quân thủy bộ trong ngoài. Còn lại thì vẫn để ở dân hạng mà chịu dao dịch. Binh và dân đều có định phận. Gần đây nghe binh lính có người đòi cấp dưỡng ở dân, sợ hoặc sinh nhiều mối tệ, dân không chịu nổi. Vậy định rõ thêm điều cấm để mọi người vâng theo, không được trái vượt.

1. Những quân mới kén đã có lương tháng, không được yêu sách xã dân phụ dưỡng. Nếu có yêu sách mà lý dịch lấy tình riêng tự tiện cấp cho, thì đều trị tội cả. Quan cai quản không xét ra cũng bị tội lây.

2. Binh lính phải làm sai dịch, đều có định phận, quan cai quản nếu ai riêng cho nghỉ việc, đòi lấy tiền của, cùng là mang lòng hiềm, mưu lợi riêng đánh đập đau đớn, để đến nỗi họ bỏ trốn, thì lấy quân pháp trị tội.

3. Quan cai quản không được đòi lấy tiền của ở xã dân ; xã dân mà lấy tình riêng tặng biếu thì cũng phải tội như thế.

4. Binh lính làm công việc gì, vật liệu cần dùng đều do bộ Binh chia cấp, quan cai quản không được tăng thêm để làm lợi riêng.

5. Phép trị binh, thao luyện lâu ngày thì tinh thục tề chỉnh. Binh đến 50 tuổi, cùng là mắc bệnh nặng và chết đi, thì quan cai quản phải trình rõ bộ Binh, ra lệnh cho xã dân chọn người khác sung bổ, không được tự tiện thải ra thay vào, làm trái thì trị tội.

6. Binh lính tại ngũ mà bỏ trốn, đòi bắt không được, thì bắt anh em ruột sung điền. Nếu không có anh em ruột mới chọn người khác.

7. Binh lính trốn một lần thì đánh 50 roi, đưa về đội ngũ, hai lần thì đánh 70 roi, sung vào hỏa đầu, ba lần thì chém. Binh lính trốn bị người trong xã bắt được đem nộp thì sau khi chém miễn phải điền cấp ; nếu bị người xã khác bắt được đem nộp thì cứ y lệ bắt điền cấp. Đến như binh lính đi đánh trận mà trốn thì lập tức chém để nghiêm quân lệnh.

8. Binh lính có lệ chia ban để nghỉ, hết hạn phải đến đội ngũ, quá hạn 1 ngày đánh 30 roi, cứ mỗi ngày lại thêm một bậc, tội chỉ đến 100 roi là cùng.

9. Dân xã điền cấp binh lính, nếu bị quan cai quản và binh lính đòi lấy tiền của thì cho xã dân đến kêu ở quan địa phương gần đấy để chuyển trình lên bộ Binh xét rõ, tâu xin trị tội”.

Sai kén trong các quân, người tuổi từ 25 trở lên, 30 trở xuống, sức vóc khỏe mạnh, bổ vào đội Loan nghi (Bả cái cũ).

Cấp lương tháng cho chánh phó suất đội đội Uy chấn quân Trung hầu. (Chánh suất đội mỗi tháng tiền 4 quan, gạo 3 phương, phó suất đội mỗi tháng tiền 3 quan, gạo 2 phương 15 bát).

Ban tiền gạo cho cựu thần nhà Lê là Lê Trị rồi cho về. Trị là người huyện Siêu Loại trấn Kinh Bắc, khi Tây Sơn nổi loạn, theo vua Lê chạy sang nước Thanh, khi trở về vua triệu vào kinh cho yết kiến, đến nay vì có tang mẹ xin về. Vua ban cho hậu rồi cho về.

Hạ lệnh cho Thanh Hoa và Nghệ An mỗi trấn chở 5 vạn hộc lúa về Kinh.

Lấy Cai cơ Trần Văn Học làm Giám thành sứ.

Tháng 2, ngày Giáp thân, bắt đầu dựng đàn Nam giao (ở xã Dương Xuân về phía nam Kinh thành). Đàn làm ba tầng (tầng thứ nhất đàn tròn, cao 6 thước 8 tấc, chu vi 30 trượng 3 thước 5 tấc ; tầng thứ hai đàn vuông ; cao 2 thước 5 tấc, mỗi chiều 19 trượng 5 thước 7 tấc ; tầng thứ ba đàn vuông, cao 1 thước 9 tấc, mỗi bề 37 trượng 5 thước ; chung quanh ba tầng đều có lan can).

Đàn tròn tầng thứ nhất để tế Trời [Hiệu thiên thượng đế] Đất [Hoàng địa kỳ]. Đàn vuông tầng thứ hai tế tám tòng vị [tám vị được dự thờ] ở tả nhất là Mặt trời, tả nhị là các Tinh Tú, tả tam là các thần Gió, Mưa, Mây, Sấm ; tả tứ là sao Thái tuế (1. Thái tuế : Tức là Mộc tinh, người xưa lấy để ghi năm.), thần Nguyệt tướng (2. Nguyệt tướng : Chỉ lúc mặt trời mặt trăng họp nhau. Có 12 thần Nguyệt tướng.), hữu nhất là Mặt trăng, hữu nhị là các thần Núi, Biển, Sông, Chằm [Sơn Hải Xuyên Trạch] (năm Minh Mệnh thứ 9 đổi làm Sơn Hải Giang Trạch), hữu tam là các thần Cồn, Gò, Bờ nước, Bãi bằng, hữu tứ là các thần kỳ trong cả nước. Tầng thứ ba, phía đông nam đặt sở Phần sài (1. Phần sài : Nơi chất củi để đốt các đồ cúng tế như bò, lợn và lụa, cho cháy hết bốc khói lên cao, để tế Trời.), phía tây bắc đặt sở ế khảm (2. ế khảm : Nơi đào lỗ để chôn các con vật như bò, lợn, lụa xuống đất, để tế Đất.  ). ở ngoài ba tầng thì làm nền vuông, trồng thông khắp cả, ngoài nền vuông thì xây tường chung quanh. Cửa bốn mặt xây cột gạch. ở ngoài đàn về phía hữu thì đặt Trai cung làm nơi vua ăn chay.

Sai Chưởng quân Phạm Văn Nhơn trông coi công việc. Thưởng cho các quân làm việc 5.000 quan tiền. Mở vào đất riêng của nhân dân và vào phần mộ phải dời đi thì chi cấp tiền cho. Rồi lấy 25 người dân xã Dương Xuân sung làm đàn phu, miễn cho dao dịch.

Sai bộ Lễ bàn định về đồ thờ ở đàn Nam giao, đưa cho hữu ty làm theo cách thức. Lại hạ lệnh cho dinh Quảng Đức chọn mua một con trâu non và tám con trâu đực nuôi ở chuồng riêng rất tinh sạch để cung đại tế.

Sai các thành và dinh trấn xét số tiền thóc ra vào trong một năm, chia ra từng kỳ (tháng giêng đến tháng 6 làm một kỳ, tháng 7 đến tháng 12 làm một kỳ) làm sổ, do bộ Hộ chuyển tâu, đặt làm lệ mãi mãi.

Tha dao dịch cho con Bùi Hữu Lễ là Hữu Thục. Hữu Lễ người Nam Phố huyện Phú Vang, trước theo Duệ tông vào Gia Định, làm Ký lục Long Hồ, năm Bính thân giặc Tây Sơn vào cướp, bị giặc bắt được, chửi giặc không chịu khuất, bị giặc mổ chết. Đến nay Hữu Thục đem việc tâu lên. Vua nói rằng : Hữu Lễ chết vì trung, nên tha dao dịch cho con để nêu khí tiết bề tôi. Bèn miễn dao dịch cho trọn đời.

Tế xuân ở Văn miếu. Vua thân đến làm lễ.

Đổi mười vệ dinh Túc trực làm mười vệ Thị trung, các vệ dinh Phấn dực và năm vệ thủy dinh làm vệ Phấn dực Nội thủy và năm thủy cơ thuộc Thủy quân.

Thổ tù Tuyên Quang  là Ngân Vũ mưu làm phản. Trấn thủ Đặng Phước Trung đem quân dẹp bắt, Ngân Vũ lẩn trốn. Quan Bắc Thành cho rằng bọn tù trưởng Man hoảng hốt, không cần động binh, xin chiêu dụ vỗ về, khiến ra thú thì tha tội. Vua cho là phải.

án thủ châu Vạn Ninh là Phan Phương Khách bắt được bọn giặc biển và khí giới đem nộp. Thưởng cho 200 quan tiền.

Lấy Đào Văn Lương làm Phó đô thống chế Thủy quân.

Ba xã Định Môn, Kim Ngọc, Cư Chính ở ven núi hay bị nạn hổ. Sai cầu đảo thần núi Ngọc Trản. Lại cấp tiền gạo cho dân xã Phù Bài (vẫn làm nghề bắt hổ) sai đi săn bắt ; dân nhờ đấy được yên.

Lưu trấn Gia Định là bọn Nguyễn Văn Trương, Trịnh Hoài Đức tâu rằng :”Bọn thần lạm mang trách nhiệm biên khổn, được tiện nghi làm việc, nhưng nghĩ quyền sinh sát là trọng, không dám tự chuyên. Vậy xin phàm những án nào hơi nặng thì châm chước dự nghĩ tâu lên, đợi chỉ mới thi hành”. Vua y lời tâu.

Đô thống chế lĩnh Trấn thủ Nghệ An là Huỳnh Viết Toản lạm thu tiền thuế quan tân 1.000 quan, lại bá chiếm ruộng đất ở Dũng Quyết hơn 80 mẫu. Hiệp trấn Nguyễn Hoài Quỳnh hặc tâu việc ấy. Sai Phó vệ úy Nguyễn Văn Du, Thiêm sự Nguyễn Quang Huyên đến xét được hết tình trạng. Giáng Viết Toản làm Phó đô thống chế, bãi chức Trấn thủ ; Tham hiệp Nguyễn Xuân Thục là đồng liêu mà không biết nêu ra cũng bị phạt. Thưởng cho Hoài Quỳnh 300 quan tiền.

Định sổ ngạch binh dân các địa phương Quảng Đức, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên, Bình Hòa, Bình Thuận. Chiếu rằng : “Quân để giữ nước, dân để nuôi quân, đó là lẽ thường xưa nay. Nay kén binh cứ 3 đinh lấy 1 bổ vào các quân thủy bộ, đã có định ngạch. Từ nay phàm có kẻ trốn tránh xiêu tán mới về, dân đinh đến tuổi và quan lại bị cách bãi về làm tráng thì đều ở dân hạng, chứ không vì số dân thêm lên mà kén thêm làm binh. Kẻ về làm tráng thì không được vào làm ở các nha để mưu tránh sai dịch. Làm trái thì xử tội nặng”.

Gọi 6.500 biền binh ở Nghệ An và Bắc Thành về Kinh.

Vua duyệt sổ quân ở Bắc Thành. Chiếu dụ thành thần rằng : “Gần đây binh lính ở thành bỏ trốn ngày càng nhiều, cứ đòi bắt thay thì xã dân lại xiêu tán là cớ ở đâu ? Bọn các ngươi ở lâu chốn biên khổn, tình trạng của quân, nỗi khổ của dân, đã từng hiểu rõ. Nay nên chú ý xếp đặt thế nào để cho quân dân đều lợi. Cho được làm tập mật để tâu, sẽ liệu tính thi hành”.

Giặc biển Tề Ngôi họp 30 chiếc thuyền lẩn vào Hoa Phong đốt cướp bảo Phượng Hoàng. Thành thần sai phó tướng Tiền quân là Trương Tấn Bửu đem chu sư đi đánh đuổi.

Sai Quản cơ Tiền thủy là Nguyễn Văn Hạnh, Phó vệ úy Tiền dực là Nguyễn Văn Lữ quản binh thuyền đi vận chuyển gỗ ở Bình Định. Vua dụ rằng : “Giặc biển Tề ngôi lẩn lút ở ngoài biển, bọn ngươi nên gia tâm phòng bị. Ai bắt được thuyền giặc, thuyền lớn thì thưởng tiền 1.000 quan, thuyền nhỏ thì 500 quan”.

Đắp 12 đoạn đê mới ở Bắc Thành. (Một đoạn ở xã Nhật Chiêu huyện Bạch Hạc trấn Sơn Tây, dài hơn 766 trượng, một đoạn ở xã Nại Tử Châu huyện Yên Lạc, dài hơn 273 trượng, một đoạn ở xã Bộ Đầu huyện Thượng Phước trấn Sơn Nam thượng, dài hơn 97 trượng, một đoạn ở xã Cao Xá huyện Kim Động, dài hơn 138 trượng, một đoạn ở xã Cao Đà huyện

Nam Xang, dài 260 trượng, một đoạn ở xã Bài Nhiễm huyện Duy Tiên, dài hơn 167 trượng, một đoạn ở hai xã Bạch Sam, Hòa Khê, dài hơn 98 trượng, một đoạn ở xã Hòa Khê dài 56 trượng, một đoạn ở xã Đường ấm, dài hơn 133 trượng, một đoạn ở xã Bất Đoạn huyện Kim Bảng, dài hơn 49 trượng, một đoạn ở xã Hồi Trung, dài hơn 50 trượng, một đoạn ở xã Hạ Cơ huyện Đại An, dài hơn 279 trượng). Sai thành thần thuê dân làm việc, chi hơn 95.200 quan tiền.

Triệu Hộ bộ ở Bắc Thành là Nguyễn Văn Khiêm, Binh bộ là Đặng Trần Thường, Phó tướng tiền quân là Trương Tấn Bửu, Trấn thủ Sơn Nam thượng là Võ Doãn Văn, Trấn thủ Sơn Nam hạ là Trần Công Lại, Đốc trấn Thanh Hóa là Tôn Thất Chương, Hiệp trấn Nghệ An là Nguyễn Hoài Quỳnh, Phó tướng quân Chấn võ ở Gia Định là Lê Tiến Tham, Lưu thủ Vĩnh Trấn là Nguyễn Văn Thiện, cùng các dinh thần từ Bình Thuận trở ra ngoài mỗi dinh một người, về chầu ở Kinh.

Tháng 3, ngày Đinh tỵ, bắt đầu dựng đàn Xã Tắc (ở bên hữu Hoàng thành) ; sai các thành và dinh trấn đều phải cống đất địa phương để đắp. Đàn làm hai tầng. (tầng thứ nhất cao 2 thước, vuông mỗi chiều 15 trượng ; tầng thứ 2 cao 1 thước 5 tấc, vuông mỗi chiều 29 trượng. Châu vi hai tầng đều có lan can, ngoài trồng cây, xây tường chung quanh). Tầng thứ nhất để tế thần Thái xã Thái tắc (đều hướng về bắc), bên hữu phối thờ thần Hậu thổ Câu Long thị, bên tả phối thờ Hậu Tắc thị (đông tây hướng vào nhau); tầng thứ hai thì phía tây bắc đặt sở ế Khảm. Sai Chưởng quân Phạm Văn Nhơn trông coi công việc. Rồi sai bộ Lễ bàn định về phép thờ tự, mỗi năm cứ ngày mậu về tháng trọng xuân và trọng thu thì tế. (Tháng trọng xuân thì ngày mậu sau ngày tế Nam giao, tháng trọng thu thì ngày mậu đầu tháng).

 Định ngạch biền binh cho các quân thủy bộ trong ngoài :

(Các vệ Thị trung, mỗi vệ 600 người, có một vệ úy và một phó vệ úy ; mỗi vệ 5 đội, mỗi đội 120 người, có một cai đội và một phó đội ; đội chia 8 thập, mỗi thập 15 người, có một đội trưởng và một suất thập. Các thuyền Trung hầu mỗi thuyền 60 người, có một cai đội. Các đội Uy chấn mỗi đội 60 người, có một cai đội, mỗi thuyền đội đều 4 thập, mỗi thập 15 người, có một đội trưởng và một suất thập. Vệ Nội trực, vệ Phấn dực, Nội thủy, các vệ quân Thần sách, mỗi vệ 600 người, có một vệ úy và một phó vệ úy, mỗi vệ 10 đội, mỗi đội 60 người, có một cai đội, mỗi đội 4 thập, mỗi thập 15 người, có một đội trưởng và một suất thập. Các vệ cơ ở các quân, mỗi vệ 500 người, có một vệ úy và một phó vệ úy, mỗi cơ 500 người, có một quản cơ và một phó quản cơ ; vệ cơ đều 10 đội, đội 50 người, có một cai đội ; mỗi đội 4 thập, mỗi thập 12 người, có một đội trưởng và một suất thập. Các cơ ở Thủy quân, mỗi cơ 600 người, có một quản cơ và một phó quản cơ ; mỗi cơ 10 đội, mỗi đội 60 người, có một cai đội ; mỗi đội 4 thập, mỗi thập 15 người, có một đội trưởng và một suất thập. Những dinh quân thủy bộ kể trên, đều có một cai án, một tri bạ ; mỗi vệ mỗi cơ có một cai án. Đến như vệ cơ trước có đặt trưởng hiệu, phó đội, chánh đội trưởng, đều cho ở lại ngạch, từ sau có khuyết thì bỏ, không được bổ nữa).

Lấy Trần Công Lại lãnh Trấn thủ Nghệ An, Hoàng Ngọc Uẩn lãnh Hiệp trấn, Trịnh Ngọc Trí lãnh Trấn thủ Sơn Nam hạ.

Dựng thêm kho Quảng Ngãi. Dinh thần xin chiếu theo thực số ruộng đất mà bắt dân nộp bán vật liệu. Vua theo lời.

Thổ hào châu Vân Đồn trấn Yên Quảng là bọn Nguyễn Đình Bá và Phạm Đình Quế bắt được bọn giặc Tề Ngôi và thuyền ghe khí giới, quan Bắc Thành đem việc tâu lên. Cho bọn Đình Bá làm đội trưởng, thưởng tiền 300 quan. Những giặc Thanh bắt được sai đưa trả về nước Thanh. Người Hán [người Việt] bị giặc bắt phải theo đều thả hết.

Hạ lệnh cho Gia Định, phàm thuyền nước Thanh và thuyền Tây Dương đến buôn, ngày trở về thì chiếu theo số người trong thuyền mà cấp cho mỗi người 100 cân gạo, thu tiền giá là 3 quan, lấy làm lệ mãi mãi.

Sai đô thống chế dinh Hậu thủy là Lê Văn Quế và Chánh thống Hữu đồn là Nguyễn Văn Thái vận chở gạo lương ở Bắc Thành. Hạ lệnh cho Thanh Hoa và Nghệ An đem binh thuyền đi tuần biển để phòng bị.

Sai bọn Lương Trinh Quán và Trương Bảo Thiện ở Nội viện lãnh 3 vạn quan tiền đi sang nước Thanh tìm mua hàng hóa.

Triệu con Ngoại tả chưởng dinh quận công Nguyễn Đình Thuyên là Nguyễn Đình Đức về Kinh, cho tiền gạo đủ ăn (mỗi tháng tiền 3 quan, gạo 3 phương), rồi cho chức hàm đội trưởng.

Kén những người học vấn rộng rãi sung việc dạy bảo các hoàng tử hoàng tôn.

Sai Lệnh sử ty sáu bộ tra xét tiền thóc và sản vật ở các trấn.

Ký lục Bình Hòa là Võ Hữu Hợp có tội bị xử tử. Trước là người đạo Phan Rang tên là Chử giết người mà làm mất xác, bị người thôn Thuận Hòa phát giác. Quản đạo là Cai cơ Nguyễn Văn Tường và Tri bạ là Nguyễn Văn Khoa đều xét được rõ tình trạng. Chử sợ tội, đem 100 quan tiền đút lót cho thư ký thành Diên Khánh là Hồ Văn Phong để thêu dệt nên chuyện vu cáo bọn Tường có ý hãm hại. Phong nói với án trấn Nguyễn Văn Tánh đưa cho Hợp tra xét. Hợp bèn khép bọn Tường vào tội. Tường bị cách chức, Khoa chết tại ngục. Đến nay người thôn Thuận Hòa đem việc ấy kiện lên. Vua sai Hình bộ xét lại. Chử nhận tội cả, bị chém. Hợp và Phong bị tội chết, tịch thu gia sản để cấp cho vợ con Khoa ; phục chức cho Tường và thưởng thêm 50 quan tiền. Văn Tánh chết rồi, được miễn nghị.

Lấy Tuyên phủ sứ Hoài Đức là Lê Văn Minh là Ký lục Bình Hòa, Thượng bảo thiếu thanh Lê Văn Phú làm Tuyên phủ sứ Hoài Đức.

Hạ lệnh cho các nhà trạm ở các thành và dinh trấn mỗi tháng một lần làm sổ đệ lên bộ để phòng tra xét.

Người Xiêm La sai sứ đến tạ ơn. Trước kia người Xiêm là bọn Nại Khâm Tiệp, Nại Cầm Thắc sang đầu ngụ ở châu Ninh Biên trấn Hưng Hóa, rồi làm châu trưởng. Vua thấy Bắc Hà mới bình định, cũng nhận cho làm. Thế rồi tướng Xiêm là Phi Nhã Xương Ngân đem quân đóng tại địa đầu Hưng Hóa, sai bọn Sạ Phún 30 người đưa thư đến Bắc Thành xin giao bọn Cầm Thắc và Kham Tiệp về nước. Thành thần giữ sứ giả lại, sai trấn thần đem quân đóng giữ bờ cõi để xem động tĩnh, rồi dâng sớ tâu lên. Vua sai gửi thư cho Xiêm trách là gây càn hiềm khích ở biên thùy. Người Xiêm bèn sai Xương Ngân rút quân về. Thành thần lại đem việc tâu lên. Vua chiếu bảo rằng : “Xương Ngân tự biết mình là càn rỡ, cho tự rút đi. Còn bọn Sạ Phún 30 người cũng cấp tiền gạo cho về, để yên việc biên”. Đến nay Xiêm sai sứ giả theo đường Cam Lộ dinh Ai Lao đưa thư đến tạ, nói rằng Xương Ngân giả mạo làm bậy, xin tha lỗi cho để giữ tình hòa hiếu lâu dài.

Vua dụ bầy tôi rằng : “Người Xiêm đã biết lỗi mà đổ tội cho Xương Ngân, trẫm cũng không sá trách nữa”. Sai bộ Lễ hậu đãi sứ giả, rồi cho đi đường thủy về nước. Sứ giả và bộ thuộc có người bị bệnh chết thì theo tục nước họ cho đốt xác đem về.

ấm thụ cho con án trấn Diên Khánh Nguyễn Văn Tánh là Nguyễn Văn An chức hàm cai đội, cho con Thuộc nội cai cơ quản đội Tiểu sai Trương Phước Luật là Trương Phước Sơn và con Quản đạo Thanh Châu Ngô Công Quý là Ngô Công Kế chức hàm đội trưởng.

Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, tế hạ hưởng.

Tha tô thuế năm nay cho huyện Tống Sơn.

Tôn Thất Thăng làm sổ kê các hệ tôn thất đem dâng. Vua hạ lệnh từ 8 tuổi trở lên, 12 tuổi trở xuống, kẻ nào có chí học thì cấp lương tháng cho vào nhà Quốc học để học tập.

Định phẩm phục các quan văn võ.

Chiếu rằng : “Đặt quan chia chức, tất phải phân biệt chương phục để rõ phẩm cấp. Nay quan chế hai ban đã định, thì phục sắc mũ áo cũng theo phẩm trật mà chế dùng để cho danh phận rõ ràng, tôn ty có khác. Phàm người có chức phẩm đều nên tuân theo. Ai được đặc ân cho phẩm phục hơn lên thì không theo lệ này. (Phẩm phục đại triều : Mũ. Từ trên nhất phẩm đến chánh thất phẩm văn giai, mũ đều dùng kiểu mũ phác đầu tròn (1. Phác đầu : Tục gọi là mũ cánh chuồn.), võ giai, mũ đều dùng kiểu phác đầu vuông. Trang sức của mũ thì trên nhất phẩm và chánh nhất phẩm, văn võ đều dùng cầu vàng, thêm hai hốt vàng, đều cao 6 phân, dưới có ngạch vàng, trước sau đều một hoa vàng, hai cánh viền bọc vàng, mặt trước đính giao long vàng vờn ngọc châu ; tòng nhất phẩm, văn võ đều dùng cầu vàng, thêm hai hốt vàng, đều cao 5 phân, trước sau đều một hoa vàng, hai cánh viền bọc vàng, mặt trước đính giao long vàng ; chánh nhị phẩm, tòng nhị phẩm văn võ đều dùng cầu vàng, trước sau đều một hoa vàng, hai cánh viền bọc vàng mặt trước đính giao long vàng ; chánh tam phẩm, tòng tam phẩm, văn võ đều dùng cầu vàng, trước sau đều một hoa vàng, hai cánh viền bọc vàng ; chánh tứ phẩm, tòng tứ phẩm, văn võ đều dùng cầu bạc, trước sau đều một hoa vàng, hai cánh viền bọc vàng ; chánh ngũ phẩm, tòng ngũ phẩm, văn võ đều dùng cầu bạc, trước sau đều một hoa bạc, hai cánh viền bọc bạc ; chánh lục phẩm, tòng lục phẩm, trước sau đều một hoa bạc, hai cánh viền bọc bạc ; chánh thất phẩm, văn dùng trước sau đều một hoa bạc, hai cánh không viền bọc. áo. Đều cổ tròn. Trên nhất phẩm văn võ đều áo mãng bào màu tía ; từ chánh nhất phẩm đến tòng tam phẩm, văn võ đều áo mãng bào các màu xanh, lục, lam, đen, tùy dùng ; chánh tứ phẩm, tòng tứ phẩm, văn võ đều áo hoa bào các màu xanh lục lam, đen tùy dùng ; chánh ngũ phẩm, tòng ngũ phẩm, văn võ đều dùng áo sa đoạn các màu xanh, lục, lam, đen, tùy dùng. Bổ tử. Văn thêu mây và chim nhạn, võ thêu con báo vằn, đều nền đỏ. Chánh lục phẩm, tòng lục phẩm áo như hàng ngũ phẩm, bổ tử thì văn thêu chim nhạn trắng, võ thêu con gấu, đều nền đỏ ; chánh thất phẩm, áo cùng với hàng lục phẩm, bổ tử thì văn thêu con cò, nền đỏ. Đai. Thân đều màu hồng. Trên nhất phẩm và chánh nhất phẩm, văn võ đều trang sức bằng vàng, mặt chạm con mãng bốn móng, trước sau đều một con, ngoài ra văn thì chạm tiên hạc, võ thì chạm kỳ lân ; tòng nhất phẩm, chánh nhị phẩm, tòng nhị phẩm, văn võ đều trang sức bằng vàng, mặt đai văn thì chạm tiên hạc, võ thì chạm kỳ lân, trước sau đều một con, ngoài ra đều chạm hoa cả ; chánh tam phẩm, tòng tam phẩm, văn võ đều trang sức bằng vàng, mặt vàng trơn không chạm ; chánh tứ phẩm tòng tứ phẩm, văn võ đều dùng đồi mồi, mặt trước 3 miếng, hai bên hai miếng dài bọc vàng, ngoài ra đều bọc bạc ; chánh ngũ phẩm, tòng ngũ phẩm, văn võ đều mặt đồi mồi bọc bạc ; chánh lục phẩm, tòng lục phẩm, đều có 3 miếng đồi mồi ở mặt trước, ngoài ra thì mặt sừng đen, đều bọc bạc; chánh thất phẩm, dùng mặt sừng đen bọc bạc. Xiêm. Từ trên nhất phẩm đến tòng nhất phẩm, văn thêu tiên hạc, võ thêu kỳ lân, đều lẫn hoa đỏ; chánh nhị phẩm, tòng nhị phẩm, văn thêu tiên hạc, võ thêu bạch trạch (1. Bạch trạch : Hoàng đế được con thú thần là bạch trạch, thông hiểu tình muôn vật, nhân hỏi việc trời đất quỷ thần, sai vẽ thành đồ, đời sau nhân lấy làm chương phục. Hình dáng như con nghê.), đều lẫn hoa đỏ ; chánh tam phẩm, tòng tam phẩm, văn thêu cẩm kê, võ thêu sư tử, đều lẫn hoa đỏ ; chánh tứ phẩm, tòng tứ phẩm, dùng sa đoạn màu xanh, màu lục, tùy dùng, hai bên hoa tròn, nền đỏ văn thêu công, võ thêu hổ, đều viền gấm ; chánh ngũ phẩm, tòng ngũ phẩm, bằng sa đoạn, màu xanh, màu lục, tùy dùng, hai bên hoa tròn, nền đỏ, văn thêu mây và chim nhạn, võ thêu báo vằn, đều viền gấm ; chánh lục phẩm, tòng lục phẩm, bằng sa đoạn, màu xanh, màu lục, tùy dùng, hai bên hoa tròn, nền đỏ, văn thêu chim nhạn trắng, võ thêu gấu, đều viền gấm ; chánh thất phẩm, bằng sa đoạn, màu xanh, màu lục, tùy dùng, hai bên hoa tròn, nền đỏ, văn thêu cò viền lụa màu. Hia tất. Từ trên nhất phẩm đến chánh nhất phẩm, văn võ đều dùng hia kiểu thường, sắc đen mũi vuông, bí tất viền gấm. Phẩm phục thường triều : Mũ. Trên nhất phẩm, văn thì kiểu Văn công, trang sức toàn vàng, hai giải trang sức hoa vàng, khảm hạt châu, võ thì kiểu Hổ đầu, trang sức toàn vàng, cầu mũ thêm hốt vàng, cao 5 phân. Từ chánh nhất phẩm đến tòng tam phẩm, văn thì kiểu Văn công, võ thì kiểu Hổ đầu, đều trang sức bằng vàng ; chánh tứ phẩm, tòng tứ phẩm, văn thì kiểu mũ Đông Pha, võ thì kiểu mũ Xuân thu, trước sau đều một hoa vàng, còn hoa và giao long đều bằng bạc ; chánh ngũ phẩm, tòng ngũ phẩm, văn thì kiểu mũ Đông Pha, võ thì kiểu mũ Xuân thu, trang sức toàn bạc, đằng trước hai hoa, hai giao long, đằng sau một hoa, hai giao long ; hàng tản giai cũng thế ; chánh lục phẩm, tòng lục phẩm, văn thì kiểu mũ Đông Pha, võ thì kiểu mũ Xuân thu, trang sức toàn bạc, trước sau đều một hoa, hai giao long ; hàng tản giai cũng thế ; chánh thất phẩm tản giai, tòng thất phẩm, văn thì mũ Văn tú tài, võ thì mũ buộc giải, đều trang sức toàn bạc, trước sau đều một hoa, hai giao long ; chánh bát phẩm tản giai, tòng bát phẩm, văn thì mũ Văn tú tài, võ thì mũ buộc giải, đều trang sức toàn bạc, trước sau đều một hoa ; chánh cửu phẩm tản giai, tòng cửu phẩm, văn thì mũ Văn tú tài, võ thì mũ buộc giải, trước trang sức một hoa bạc. áo. Từ trên nhất phẩm đến tòng tam phẩm, văn võ đều dùng sa đoạn, cổ chéo màu trắng, các màu xanh, lục, lam, đen, tùy dùng, hoặc thêu hoa cũng được ; từ chánh tứ phẩm trở xuống tòng cửu phẩm tản giai, văn võ đều dùng sa đoạn, cổ chéo, màu xanh, lục, lam, đen, tùy dùng. Bổ tử. Từ trên nhất phẩm đến tòng nhất phẩm văn thì thêu tiên hạc, võ thì thêu kỳ lân, đều nền vàng ; chánh nhị phẩm, tòng nhị phẩm, văn thêu tiên hạc, võ thêu bạch trạch, đều nền vàng ; chánh tam phẩm, tòng tam phẩm, văn thêu cẩm kê, võ thêu sư tử, đều nền vàng ; chánh tứ phẩm, tòng tứ phẩm, văn thêu công, võ thêu hổ, đều nền hồng ; chánh ngũ phẩm, tòng ngũ phẩm, văn thêu mây và nhạn, võ thêu báo vằn, đều nền hồng ; tản giai cũng thế ; chánh lục phẩm tòng lục phẩm, văn thêu chim nhạn trắng, võ thêu gấu, nền hồng ; tản giai cũng thế ; chánh thất phẩm tản giai, tòng thất phẩm, văn thêu cò, võ thêu hổ con, chánh phẩm thì nền hồng, tòng phẩm thì nền xanh ; chánh bát phẩm tản giai, tòng bát phẩm, văn thêu gà lôi, võ thêu hải mã, đều nền xanh ; chánh cửu phẩm tản giai, tòng cửu phẩm, văn thêu chim thuần, võ thêu tê ngưu, đều nền xanh. Xiêm. Từ trên nhất phẩm đến chánh nhất phẩm, y theo phép đại triều. Từ tòng thất phẩm tản giai trở xuống đến tòng cửu phẩm tản giai, văn võ đều dùng sa đoạn, màu xanh, màu lục, tùy dùng, viền lụa màu, hai bên không thêu hoa tròn. Hia tất. Từ trên chánh nhất phẩm đến chánh thất phẩm, y theo phép đại triều. Từ tòng thất phẩm tản giai đến tòng cửu phẩm tản giai, hia theo phép thường, tất viền lụa màu. Phẩm phục của quan viên tử văn võ: Mũ. Viên tử con các quan trên nhất phẩm đến chánh nhất phẩm, văn đều kiểu mũ Đông Pha, võ đều kiểu mũ Xuân thu, trước sau một hoa và hai giao long ; viên tử con quan từ tòng nhất phẩm đến tòng nhị phẩm, văn thì kiểu mũ Nhà nho, hình như mũ Đông Pha, nhưng không có lá sau, võ thì đều dùng kiểu mũ Võ tú tài, trước sau đều một hoa bạc ; viên tử con quan chánh tam phẩm, tòng tam phẩm, văn đều mũ Nhà nho, võ đều mũ Võ tú tài, trước có một hoa bạc. áo. Viên tử con quan từ trên nhất phẩm đến tòng tam phẩm, đều dùng sa đoạn, cổ chéo, cùng màu với áo, các màu lam, lục, biếc, đen, tùy dùng, đều không có bổ tử. Hia, tất. Viên tử con quan từ trên nhất phẩm đến tòng tam phẩm, đều dùng hia sắc đen mũi vuông, tất viền lụa màu. Những người vị nhập lưu và sĩ tử thi trúng, hoặc nhiêu học suốt đời, hoặc nhiêu học sáu năm, mũ dùng kiểu Phong cân [mũ che gió], trước sau đều một hoa ngân tuyến ; áo sa đoạn, cổ chéo, cùng màu với áo, các màu xanh, lục, đen, lam, tùy dùng, không có bổ tử ; hia, tất cũng như tòng cửu phẩm).

Ban cấp mũ áo cho các chưởng cơ, cai cơ theo đi Vọng Các.

Chánh trấn Thuận Thành là Nguyễn Văn Chấn dâng sớ xin vào Kinh chầu. Vua y cho.

Hạ lệnh lấy lính mới kén ở Quảng Đức, Quảng Bình và Bình Định bổ vào Tượng quân : vệ Hùng cự  (1.000 người đều quê Bình Định), 5 đội Hùng sai nhất, nhị, tam, tứ, ngũ (258 người, quê Quảng Bình 200 người, quê xã Dương Nỗ dinh Quảng Đức 58 người). Nguyễn Đức Xuyên nhân đó tâu nói: “Ba vệ Thị tượng nhất, nhị, tam ở Kinh (voi 60 thớt), cơ Trị tượng ở Quảng Trị (Hai dinh Quảng Trị, Quảng Bình, voi 15 thớt, bảo Hà Trung, Nghệ An, voi 23 thớt), ba tượng cơ Tiền Tả Hữu ở Quảng Nam (voi 72 thớt), cơ An Tượng ở Quảng Ngãi (voi 20 thớt), hai cơ Định Tượng, Kiên Tượng ở Bình Định (voi 39 thớt), cơ Bình Tượng ở Bình Hòa (voi 78 thớt), cơ Trung Tượng ở Gia Định (voi 21 thớt), hai cơ Dũng Tượng, Cường Tượng ở Nghệ An (voi 22 thớt), cơ Thịnh Tượng ở Thanh Hoa (voi 22 thớt), ba cơ Hùng Tượng Tiền Tả Hữu ở Bắc Thành (voi 67 thớt), đều là lính mộ ngạch cũ, nếu có khuyết thì xin mộ dân ngoại tịch để bổ sung. Con các biền binh cưỡi voi mà tuổi đã lớn thì vẫn sung ngạch cưỡi voi”. Vua y lời tâu.

Đổi định lệ ruộng lương điền cho các quân. Binh lính ở các vệ đội thuyền Thị trung, Trung hầu, Chấn uy, Nội trực, Tiểu sai, Thị trà, Loan nghi, Tả vệ, Hữu vệ, Nội hoàng kiếm, Nội thủy, Phấn dực, được cấp ruộng lương điền, còn các dinh vệ đội thuyền thuộc quân khác đều không được dự.

Cho binh lính Trung hầu, Tả hầu, Hữu hầu, Nội hầu, Thị trung, Chấn uy, Nội trực, Tiểu sai, Thị trà, Loan nghi, Tả vệ, Hữu vệ, Nội hoàng kiếm, Nội thủy, Phấn dực và các vệ Thần sách, Ban trực, Long võ, đều được mộ một người ngoại tịch để sai việc, miễn cho dao dịch, còn thuế thân thì cũng như quân hạng.

Lấy Tôn Thất Hiệp làm Cai đội, cho coi giữ việc thờ cúng Tống Sơn quận quân Ngọc Dao, Thái phó Tôn Thất Huy, Cai đội Tôn Thất Chương và Cai cơ Tôn Thất Bảo.

Lấy Tôn Thất Hán làm Vệ úy vệ Hữu nhị Thị trung, Phạm Văn Dật làm Phó vệ úy vệ Hữu nhất Thị trung, Lê Văn Cận làm Phó vệ úy vệ Nội trực.

Lấy Nguyễn Văn Mân làm Vệ úy vệ Định võ quân Thần sách.

Phan Tấn Huỳnh đem quân đánh mọi Thạch Bích, chém được rất nhiều. Thưởng cho hơn 300 quan tiền.

Cai cơ quản Đồ gia là Hoàng Ngọc Văn và Tri bạ là Nguyễn Văn Nghĩa có tội bị xử tử. Lúc mới thu phục Kinh thành, lấy được ấn vàng của giặc Tây Sơn (nặng 260 lạng) cất ở nội khố. Cai hợp Đồ gia là Nguyễn Đăng Dược cùng với bọn cai quan ty Thợ bạc là Lê Chiêu Thuật, Lê Sở Hành, và thủ hợp Nguyễn Khoa Nguyên tham vàng ấy, bèn lấy trộm bạc của kho (260 lạng) đúc ấn khác để thay vào. Việc phát giác, bọn Nguyễn Đăng Dược đều bị giết, tịch thu gia sản. Ngọc Văn và Văn Nghĩa biết kẻ làm gian mà không tố cáo bị tội chết. Cai đội ty Thợ bạc là Nguyễn Văn Quý cũng vì thất sát phải tội đồ 10 năm. Văn Quý ở trong nhà giam, xiềng khóa lỏng lẻo, Vệ úy Thị trung là Đào Quang Lý đem việc tâu lên. Vua triệu Hình bộ Nguyễn Tử Châu và Tham tri Nguyễn Đăng Hựu đến trách rằng : “Tội của Quý đã định rồi mà không xiềng khóa, pháp luật như thế ư ?” Sai trói giam vào ngục, rồi sau lại tha. Dụ rằng : “Bọn ngươi coi việc hình mà không giữ phép thường của hình thì lấy gì để làm phép cho thiên hạ được ? Một lần đầu lầm lỗi trẫm tạm tha cho, sau còn thế thì quyết khó mong khoan hồng nữa”.

Tham tri Hộ bộ là Lê Viết Nghĩa kiểm tra tiền chứa ở nội tạng, thiếu mất hơn 900 quan. Vua nói : “Tiền công ra vào đã có số thường, nay thiếu thốn như thế, nếu không phải người coi kho lấy trộm thì ai ?” Sai đánh bọn chủ thủ cai đội Nguyễn Văn Tự và Trần Văn Hộ mỗi người 90 roi, và thu lấy tiền tang.

Quan Bắc Thành tâu có giặc biển Tề Ngôi là Lâm Tổng Huỳnh sai người đến trần tình, xin gọi bè đảng về hàng. Chiếu bảo rằng : “Giặc kia đã quy thuận, triều đình cũng bao dung, mà phương pháp khu xử thì cốt ở tỏ lòng thành tín. Nay nên tuyên dụ rằng chúng quả đã đổi lòng theo giáo hóa mà bỏ ác làm lành thì nên nộp hết thuyền ghe khí giới cho nhà nước. Còn của cải ở trong thuyền thì đều cho hết và cấp cho lương thực, chọn đất cho ở yên để nó chiêu dụ bè đảng về hàng, nếu không muốn thế thì cho tự ý đi”.

Tham luận Tiền dinh quân Thần sách là Nguyễn Văn Khuê lấy lạm tiền của quân bị cách chức, sung làm lính. Đô thống chế Nguyễn Văn Trí vì biết tình trạng mà không nêu ra bị giáng làm Cai cơ.

Ký lục Quảng Bình là Nguyễn Văn Nhiên tự tiện phát hơn 150 hộc thóc kho cho dân vay riêng. Việc phát giác, vua nói : “Kho chứa để tiêu dùng việc nước, sao dám làm thế ?”. Bèn cất chức.

Tri phủ tri huyện các địa phương có người bị dân kiện, thượng ty thường thường bắt hỏi. Vua nghe thấy, dụ rằng : “Các chức phủ huyện có trách nhiệm với xã dân, một khi bị dân kiện, không phân biệt nặng nhẹ mà vội dùng luy tiết làm nhục thì còn làm tiêu biểu mà đốc suất lại dân thế nào được ? Từ nay các viên phủ huyện nếu có bị kiện, thượng ty chỉ nên khiến lên công đường để chất vấn, tình lý nhẹ thì bỏ, nặng thì tham hặc, không được gông trói. Việc nào nên bắt đòi thì sai nhân cũng không được cậy thế khinh nhờn”.

Bộ Lễ dâng nghi chú về lễ Tiến tôn (1. Tiến tôn : Lễ lên ngôi vua.). (Ngày đó, lúc canh năm, trống mới đánh nghiêm hồi thứ nhất, các quân thị vệ sắp bày lỗ bộ ở sân điện Thái Hòa và ở tả hữu ngoài cửa Đoan Môn. Trống nghiêm hồi thứ hai, quan văn võ mặc mũ áo đại triều đứng chờ. Dưới đan trì, bên tả đặt chiêng, bên hữu đặt trống. Ty Bả lệnh sắp sẵn kèn trống. Ty Đai nhạc Nhã nhạc sắp sẵn đàn sáo và đồ nhạc nhỏ, chia đứng hai bên tả hữu. Mờ sáng, trống nghiêm hồi thứ ba, hữu ty đặt long đình để sách vàng ở trên thềm giữa điện, lại đặt án dâng sách vàng ở phía nam lư hương, đặt án để tờ chiếu ở gian bên tả của điện, bên hữu dưới thềm điện lại đặt một cái án nữa, đặt trước hòm sách tuyên đọc và hòm biểu mừng. Khâm thiên giám báo giờ. Vua mang mũ cửu long, áo bào vàng, đai ngọc, ngự ở điện. Ty Bả lệnh tấu nhạc lớn. Người giữ hương đốt hương. Nhạc lớn dứt tiếng, các quan bày ban chầu lạy tiến sách văn. Quan truyền chỉ tuyên rằng : “Hoàng thượng có chiếu”. Quan tuyên chiếu đọc chiếu. Quan ban chiếu bưng đi niêm yết. Các quan dâng biểu làm lễ mừng. Ty Nhã nhạc theo từng tiết mà tấu nhạc nhỏ. Các quan chia ban. Nhạc lớn nổi lên. Quan quản Tiểu sai truyền lệnh bắn súng mừng. Âm nhạc nghỉ. Bắn 9 tiếng súng. Lễ xong, Vua ngự vào điện Cần Chánh, các hoàng tử hoàng tôn hoàng thân và con cháu họ Lê, cùng quan viên tử con các quan văn võ làm lễ năm lạy. Kỳ lão dân chúng ở Kinh sư tới ngoài cửa Thừa Kiền chiêm bái).

Vua rất tiết kiệm, từng lấy ngọc liệu để trang sức mũ, xà cừ để trang sức đai, thị thần xin lấy châu ngọc để thay. Vua nói : “Thiên tử là quý, châu ngọc có quý gì”. Không nghe.

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển XXIX – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Bính dần, Gia Long năm thứ 5 [1806], mùa hạ, tháng 5, ngày Kỷ mùi, vua lên ngôi hoàng đế ở điện Thái Hòa. Lấy hành thổ (1. Trong ngũ hành, kim mộc thủy hỏa thổ, hành thổ tượng trưng vua.) tượng trưng cho đức vua nên chuộng sắc vàng. Trước 6 ngày là ngày Giáp dần, kính cáo trời đất. Ngày Bính thìn kính cáo các miếu. Đúng ngày, đặt nghi vệ đại triều ở điện Thái Hòa. Bầy tôi dâng sách vàng lên. Lời sách nói  : “Bọn thần trộm nghe : Có đức tốt của thánh nhân, tất được ngôi báu của thánh nhân ; dựng ngôi chính trong thiên hạ, tất được tiếng rạng của thiên hạ. Cho nên Hồng phạm thì để văn “kiến cực” (2. Kiến cực : Vua đứng vị lớn ở giữa thiên hạ.) mà Xuân thu thì trọng nghĩa “chính thủy” (3. Chính thủy : Chính danh vị ngay buổi đầu.). Lớn thay nước Việt, đóng ở phương Nam. Nền khai thác tự tiên vương mở rộng, công đức chứa góp như trời không cùng ; mối gây dựng đo liệt thánh siêng năng, ơn trạch sâu dày ở người nhớ mãi. Nhiều Phước tổ để lại từ trước; lên ngôi vua gặp lúc vận hay. Kính nghĩ Vương thượng bệ hạ, anh hùng quán cổ, trí dũng hơn đời. Buổi sấm mây vượt bước gian truân, nên nghiệp lớn thương dân đánh giặc ; cơn gió chớp ra tay uy võ, kiêm khó khăn sáng nghiệp trung hưng. Búa cờ họp được công to ; chuông giá không rời vật cũ. Nhất thống cả cõi bờ nước Việt, ngợi ca chầu yết theo về ; nhật nguyệt lại sáng tỏ giữa trời, Xã Tắc thần người có chủ. ức triệu dân cùng đều nhờ cậy ; hai ba lần khẩn khoản bày xin. Nhưng Thánh thượng nhún nhường, đức rồng thua khiêm tốn : duy thần dân kính mến, vẻ hùm vẫn ngóng trông. Thấy ngôi cả đã đúng điềm, nền đại đồng vừa nhịp tốt. Bọn thần kính cẩn phụng sách dâng tôn hiệu Hoàng đế, cúi mong : ngôi Bắc thần(1, 2. Bắc thần là sao Bắc đẩu ; cùng với sao Tử vi đều đúng để ví với ngôi hoàng đế.) yên chốn, sao Tử vi() sáng soi, để nhận tiếng khen to, định yên Phước cả. Đức tốt rộng dày cao sáng, ví trời đất không cùng ; nghiệp lớn yên vững dài lâu, trải bao đời còn mãi”.

Vua lên ngôi hoàng đế, xuống chiếu bố cáo trong ngoài. Bầy tôi dâng biểu chúc mừng.

Lời chiếu nói :

“Trẫm nghĩ : Đức vua mặt trời làm tượng, vương giả lấy đấy mà hướng đến quang minh ; đạo kiền thống trị cả trời, thánh nhân nhân đấy mà noi theo phép tắc. Lớn thay nhà nước ta, trùm cả cõi Nam ! Vua thánh đời trước, dựng nghiệp dốc lòng, gắng sức xây nền, hai trăm năm lẻ, thánh hiền tiếp nối, công đức rõ nêu. Bỗng chốc cơ trời đen tối, vận nước suy vi. Trẫm tuổi trẻ, gặp lúc đau thương, khắp nơi xa lánh. Rồi từ Gia Định lên giữ ngôi vương, lo nối cơ đồ, tạm yên nhân vọng. Ngày đêm lo nghĩ, rất sợ để thẹn Phước xưa. Nhờ được uy linh Tôn Miếu Xã Tắc và sức mạnh của tướng tá, giết được quân thù, lấy lại nghiệp cũ, mở rộng bờ cõi, giúp trẫm nên được công lớn. Nối chí noi việc là chức phận của trẫm, chứ đâu dám ở ngôi cao. Nhưng các thân công đại thần có công lao đánh dẹp bàn nói ở triều, nhiều lần tâu rằng trách nhiệm yên dân trời đã giao cho trẫm mà lịch số vô cùng cũng duy có trẫm nối dõi, cố xin trẫm lên ngôi hoàng đế để rõ mối giềng. Vậy để hợp lời xin của mọi người, định đến ngày mồng 7 tháng này kính cáo Trời Đất, ngày 9 kính cáo Tôn Miếu, ngày 12 nhận sách văn tôn ngôi hoàng đế. Phàm có chế sách, ở đầu sẽ dùng những chữ “Thừa thiên hưng vận”(3. Thừa thiên hưng vận : Vâng mệnh trời mở vận nước.  3) để mở rộng mối lớn của nước Việt ta. Trong ngoài gần xa đều cùng đổi mới. Đặc biệt ban xuống tám điều ân xá.  (1. Thóc tô ruộng đất công tư ở các dinh trấn năm nay tha 5 phần 10 ; 2. Những quan điền, quan đồn điền, quan điền trang, quan trại, cùng ruộng ngụ lộc và ruộng đất ngụy phạm đã sung công, thì lệ tiền và thóc lương năm nay tha 5 phần 10 ;

3. Chính hộ khách hộ, các hạng tráng, quân, dân, biệt nạp, biệt tính, lão, tật, tiền thuế thân dung năm nay tha 5 phần 10 ; 4. Các dinh thuộc Gia Định, trước đã có chiếu tha tiền thuế sai dư năm năm Quý hợi, Giáp tý, ất sửu, Bính dần, Đinh mão, nay lại tha thêm cho một năm Mậu thìn là sáu năm ; 5. Hai dinh Bình Hòa, Bình Thuận, trước đây có chiếu tha bớt 2 phần 10 tiền thuế sai dư trong năm năm Quý hợi, Giáp tý, ất sửu, Bính dần, Đinh mão, trong 8 phần phải thu nay lại tha cho một nửa ; 6. Nghệ An, Thanh Hoa và các trấn Bắc Thành, tiền thuế thân dung năm nay tha 5 phần 10 ;

7. Những người Man, người Nùng, người Thanh ở các trấn Bắc Thành, người  Lũng Nùng (1. Lũng Nùng : Một giống người Nùng ở Trung Quốc sang nước ta, có lẽ là quê ở miền Lũng Xuyên thuộc huyện Đằng Xung, tỉnh Vân Nam.) sáu khu do phụ đạo thêu làm công, lệ bạc tiền [họ phải nộp] năm nay tha cho 5 phần 10 ; 8. Tù đồ đày đi làm việc đều chiếu theo hạn năm giảm cho một nửa ; bị tội đồ suốt đời mà tuổi đến 65 thì được tha cả ; ngoài ra tù phạm tội nhẹ phải giam giữ đều tha cả ; duy kẻ phạm tội thập ác, cố ý giết người, ăn trộm của công, đầu đảng ăn cướp, cưỡng gian, phạm gian, cố ý đốt nhà người, đào mả, làm sắc thư ấn tín giả dối, cố ý tha người có tội buộc người không tội, lấy của đút lót mà xử trái phép hay không trái phép, cùng là án đã xử giam đợi chết, đều không được dự lệ khoan xá này). Ôi ! Dựng ngôi lớn để Phước cho dân, thiên “Hồng phạm” hãy còn ghi chép ; trời cho Phước giúp ta trị nước, như âu vàng bền vững dài lâu”.

Cho các kỹ lão bốn dinh Quảng Đức, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam 500 quan tiền tiệc lớn.

Định triều nghi [nghi tiết buổi chầu], mỗi tháng lấy ngày mồng 1 và ngày rằm đặt đại triều ở điện Thái Hòa, quan từ lục phẩm trở lên mặc áo mũ đại triều vào lạy chầu ; những ngày mồng 5, 10, 20, 25 đặt thường triều ở điện Cần Chánh, quan từ tứ phẩm trở lên mặc áo mũ thường triều vào lạy chầu. Các thành và dinh trấn đến ngày mồng 1 ngày rằm đều bái vọng ở Hành cung.

Biên mười cơ Kiên ở Quảng Ngãi làm sáu cơ Kiên. Trước kia đem

hết số quân dân Quảng Ngãi đặt làm mười cơ Kiên, đến nay hạ lệnh

cho Lê Văn Duyệt kén điểm như lệ các dinh, cứ 3 người thì lấy 1, được 3.000 người, lập làm sáu cơ Trung kiên, Tiền kiên, Tả kiên, Hữu kiên,  Hậu kiên, Nội kiên.

Trước đây bọn Đèo Chính Ngọc và Đèo Quốc Uy là châu trưởng Lai Châu và châu Văn Bàn thuộc trấn Hưng Hóa cho rằng dân các động mường thuộc châu mình và dân các châu Tung Lăng, Hoàng Nham, Tuy Phụ, Hợp Phì xiêu tản từ lâu, nhiều người chạy sang nước Thanh, xin được bằng của trấn để chiêu dụ, khiến họ trở về gánh chịu thuế khóa. Trấn thần nhân đó sai khiến. Bấy giờ những tù trưởng Mường Tè, Mường Phù Phương, Mường Tôn Na Y (thuộc Lai Châu), Mường ẵm (thuộc châu Hoàng Nham), động Bình Lư (thuộc châu Tuy Phụ) cùng đưa nhau theo về. Tổng đốc Vân Quý nước Thanh nghe tin, đưa thư nói rằng : “Sáu trại mãnh, Mãnh Lại, Mãnh Thích, Mãnh Đinh, Mãnh Thoa, Mãnh Bạng, Mãnh Lộng (đều thuộc huyện Kiến Thủy nước Thanh), khoảng năm Khang Hy đã vào đồ bản, kể hơn trăm năm, yên ổn không việc gì. Nay đầu mục ở trấn Hưng Hóa lại dụ dỗ họ về, thực rất lạ”. Sau thư kê rõ quản hạt của các mãnh (Mãnh Thoa quản hạt 15 trại, Mãnh Thích, Mãnh Đinh đều quản hạt 8 trại ; Mãnh Lại, Mãnh Bạng đều quản hạt 5 trại, Mãnh Lộng quản hạt 7 trại), xin tra xét để xử trí. Bắc Thành cho chạy trạm dâng thư ấy lên. Vua cho rằng công việc biên cương là quan trọng, hạ chiếu cho thành thần tra rõ địa giới Hưng Hóa và sự tích sáu mãnh dâng lên. Nguyễn Văn Thành hỏi bọn châu trưởng ở Hưng Hóa là Đèo Quốc Ngọc châu Chiêu Tấn và Đèo Chính Ngọc Lai Châu, họ đều nói Mãnh Thoa là Mường Thu của châu Chiêu Tấn, Mãnh Lợi là Mường Thích của Lai Châu, hai mường này ở hẻo lánh nơi biên giới, lẫn lộn với dân huyện Kiến Thủy nước Thanh. Vả lại hai động Phong Thu, Bình Lư thuộc châu Chiêu Tấn và động Hoài Lai thuộc Lai Châu đều bị bọn quan lại nhà Thanh ở biên giới ức hiếp thu thuế bạc (ba động Phong Thu, Bình Lư, Hoài Lai bị huyện quan nước Thanh mỗi năm thu thuế bạc mỗi động 220 lạng). Nay nước Thanh lại đem hai mãnh ấy kể là dân của họ thì đất hai châu không còn được mấy. Văn Thành sai xét hình thế sông núi, vẽ bản đồ để tiến, nhân dâng sớ nói : “Một giải thượng du Hưng Hóa cùng với các phủ Lâm An, Khai Hóa tỉnh Vân Nam nước Thanh, thế đất liền kề. Trước kia Mạc Kính Khoan đem ba động Ngưu Dương, Hồ Điệp và Phổ Viên nộp cho nước Thanh, đến đầu năm Lê Vĩnh Trị nước Thanh trả tù họ Mạc và trả lại cả đất, nhưng sau đó thổ mục là Vi Phước Liêm nhận của đút lót lại ngầm đem ba động thuộc về nước Thanh. Họ Lê nhiều lần xin tra xét, đều bị quan lại nước Thanh ở biên giới ngăn trở. Khoảng năm Lê Bảo  Thái nước Thanh sai Tổng đốc Vân Quý là Ngạc Nhĩ Thái sang hội đồng dựng bia, quyết lấy sông Đổ Chú nước ta làm giới hạn, từ sông Đổ Chú về phía tây, các châu Tung Lăng, Lễ Tuyền, Hoàng Nham, Tuy Phụ, Hợp Phì, Khiêm Châu, Lai Châu cộng bảy châu, đều thuộc Hưng Hóa. Khoảng năm Lê Vĩnh Hựu, dân phản nghịch là Huỳnh Công Thư đóng quân chiếm giữ 30 năm. Họ Lê lần lữa để đấy không hỏi. Dân trong bảy châu từ đó dựa dẫm phụ thuộc về phương Bắc, quan lại ở biên giới nhân đó bắt ép đổi cách mặc, cắm bài đánh thuế. Từ đời Lê đến đời Tây Sơn vẫn muốn chia vạch lại mà đều không được. Thế thì trong mười châu của phủ An Tây trấn Hưng Hóa thì sáu châu (Hoàng Nham, Hợp Phì, Tung Lăng, Tuy Phụ, Lễ Tuyền, Khiêm Châu) đã bị mất vào nước Thanh lâu rồi. Nay Chiêu Tấn và Lai Châu chính thuộc sổ Hưng Hóa mà người Thanh lại đem dân các mường động hai châu chép lẫn làm các trại mãnh, chẳng qua đó là bọn quan lại ở biên giới thấy đất đai và nhân dân ấy có lợi nên lập riêng xưng hiệu, mưu toan bá chiếm, mà Tổng đốc Vân Quý thì cứ một mực nghe theo. Xét lời lẽ trong thư gởi đến đều là mơ hồ không căn cứ. Nay xin trước viết thư trả lời cho Tổng đốc Vân Quý, tách bạch rõ ràng cương giới của hai châu yêu cầu sai người sang hội đồng chia vạch lại, để xem ý họ ra sao, rồi sau lại sẽ nói đến chuyện cũ về cương giới sáu châu. Như thế thì Tổng đốc Vân Quý hẳn là lo ta hoặc có sinh việc ở biên giới, không thể không trù liệu, dân hai châu do đó mà cũng có thể khỏi phải thuế má nặng nề.”

Tờ tâu vào, vua cho rằng nước đương lúc bắt đầu khai sáng, chưa rỗi mà liệu công việc biên cương. Việc để đấy không trả lời.

Bàn đổi lại sổ thường hành ở các trấn Bắc Thành (sổ đinh của nhà Lê trước, sinh ra không kể, chết đi không trừ, gọi là sổ thường hành). Trước đây, khi vua đã định Bắc Hà, thì muốn khiến dân làm lại sổ đinh, đem việc ấy hỏi bề tôi cũ nhà Lê là Nguyễn Đường. Đường thưa rằng : “Sổ thường hành của nhà Lê làm đã lâu, dân gian lấy làm tiện, nay nhất đán sửa đổi, thần thiết nghĩ là chưa nên.” Vua lặng thinh. Đến nay Đặng Trần Thường vào chầu, vua đem việc ấy để hỏi và bảo rằng : “Dân mọn hay yên theo lối cũ, thay đổi khó khăn. Nhưng nếu không đổi định từ lúc đầu thì lấy gì để giữ mãi về sau ? ý khanh thế nào ?” Trần Thường thưa rằng : “Thánh nhân đối với dân, có thể cùng thành việc ở lúc sau mà không thể cùng lo việc ở lúc trước, có thể khiến họ noi theo mà không thể khiến họ biết được.

Đổi phong tục phải dần dần là điều quan yếu trong phép trị dân”. Vua bảo là phải.

Hiệp trấn Sơn Nam thượng là Nguyễn Duy Hòa có tội bị cách chức. Năm ngoái nước lớn, Duy Hòa ủy cho thuộc lại là bọn Trần Văn Thục đi khám. Bọn Thục nhân ăn hối lộ của dân mà tự ý thêm bớt. Dân xã Nghĩa Lâm kêu ở thành, thành thần xét được sự trạng, tâu lên. Bọn Thục đều bị tội chết, Duy Hòa bị cách chức.

Ký lục Bình Định là Trần Văn Tuân có tội bị cách chức. Trước đây Bình Định bị gió bão, thóc kho mục nhiều. Vệ úy Thị nội là Nguyễn Văn Giảng đến chở thóc, trách hỏi. Tuân nói rằng thóc mục là tự nó mục, chở hay không chở thì tùy ý. Giảng đem việc tâu lên. Vua giận lắm, bắt trói Tuân giải về Kinh giao xuống cho quan bàn xét. Tuân bị tội bãi chức.

Tháng 6, ngày Canh thìn, đặt yến lớn cho bầy tôi ở điện Cần Chánh. Tôn Thất Thăng, Nguyễn Văn Nhơn, Nguyễn Kỳ Kế lần lượt dâng thọ. Vua thân rót rượu thượng phương (1. Rượu thượng phương : Rượu quý của nhà vua dùng.) ban cho. Bầy tôi dự yến đều được ban thưởng khác nhau (Văn võ, từ nhị phẩm trở lên, đều dự yến và thưởng ; từ tam phẩm đến ngũ phẩm, cho tiền yến).

Ban tiền yến cho các thành và dinh trấn (Các dinh Quảng Đức, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, mỗi dinh, đều 100 quan ; sáu cơ Kiên ở Quảng Ngãi 600 quan, dinh Bình Hòa và cơ Hòa Thắng, dinh Bình Thuận và cơ Thuận Nghĩa, đều 150 quan ; trấn Thuận Thành 50 quan ; trấn Gia Định 2.500 quan ; các dinh Trấn Biên, Phiên Trấn, Trấn Định, Vĩnh Trấn, đều 100 quan ; trấn Hà Tiên 50 quan ; trấn Nghệ An 1.500, trấn Thanh Hoa nội 1.000 quan, ngoại 150 quan ; các phiên thần các trấn Thanh Hoa nội ngoại 100 quan. Bắc Thành và các trấn nội ngoại 10.000 quan ; phiên thần ở sáu ngoại trấn 300 quan).

Ngày Giáp thân, truy tôn huy hiệu cho các hoàng đế hoàng hậu trước :

Di Mưu Thùy Du Khâm Cung Huệ Triết Hiển Hựu Hoàng Hưu Tế Thế Vĩ Tích Chiêu Huân Tĩnh vương tôn làm Di Mưu Thùy Dụ Khâm Cung Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Khải Vận Nhơn Thánh Tĩnh hoàng đế, miếu hiệu là Triệu tổ. Sách văn rằng : “Vương giả dựng nước chịu mệnh trời, phải nhớ đến bực đế thủy tổ mà tôn thờ, là để báo đền gốc cỗi, theo dõi đời xa. Kính nhớ : Đức Di Mưu Thùy Dụ Khâm Cung Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Vĩ Tích Chiêu Huân Tĩnh vương, trí dũng trời cho, thông minh thần giúp, nhân cao ơn dày, để lại con cháu. Cho nên trời soi tới nhà Nguyễn ta, thêm cho Phước lớn, diệt được quân thù, mở rộng bờ cõi. Thịnh tốt như thế, vì có người xưa, tôn đức báo công, cần nên làm trước. Kính cẩn đem bầy tôi, bưng sách vàng dâng tôn hiệu là : Di Mưu Thùy Dụ Khâm Cung Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Khải Vận Nhơn Thánh Tĩnh hoàng đế, miếu hiệu là Triệu tổ. Cúi nghĩ : Thánh linh ở trên, nhận xưng hiệu lớn ; nước nhà gìn giữ, hưởng đức đời đời”.

Từ Tín Chiêu ý Hoàng Nhơn Đức phi, tôn làm Từ Tín Chiêu ý Hoàng Nhơn Thục Đức Tĩnh hoàng hậu.

Sách văn rằng : “Đức Khôn nguyên sáng lớn để sánh với Kiền ; đức Hoàng hậu vẹn thuần, nên hay giúp Đế. Nêu rõ tôn sùng, lễ nên làm cả. Kính nhớ : Đức Từ Tín Chiêu ý Hoàng Nhơn Nguyễn Đức phi, đức kính ôn hòa, tiếng hay trong sạch, lắm con nhiều cháu, đông đúc cửa nhà, dậy sớm chuyên cần, thấm nhuần khuê khổn. Cho nên nay nhờ ơn nặng, thêm rạng Phước lành, nết tốt công lao, phải nêu lên trước. Vậy kính cẩn đem bầy tôi bưng sách vàng dâng tôn hiệu là : Từ Tín Chiêu ý Hoàng Nhơn Thục Đức Tĩnh hoàng hậu. Cúi nghĩ : Hồn thiêng lên xuống, đức dày vô cùng, nhận lấy hiệu to lớn, để yên Phước lâu dài”.

Triệu Cơ Thùy Thống Khâm Minh Cung ý Cẩn Nghĩa Đạt Lý Hiển ứng Chiêu Hựu Diệu Linh Gia Dụ Thái vương, tôn làm Triệu Cơ Thùy Thống Khâm Minh Cung ý Cẩn Nghĩa Đạt Lý Hiển ứng Chiêu Hựu Diệu Linh Gia Dụ hoàng đế, miếu hiệu là Thái tổ.

Sách văn rằng : “ Nhớ nguồn báo gốc, tôn kính tổ tông, đấy là rất nhân rất nghĩa vậy. Kính nhớ đức Triệu Cơ Thùy Thống Khâm Minh Cung ý Cẩn Nghĩa Đạt Lý Hiển ứng Chiêu Hựu Diệu Linh Gia Dụ Thái vương bệ hạ, trời cho trí dũng, mưu lớn kinh dinh ; xem xét thời cơ, mở mang cõi đất ; gây nền vương nghiệp, hơn hai trăm năm ; công cao hơn đời, đức truyền con cháu. Nay nhờ uy linh, khôi phục bờ cõi ; xét theo điển lễ, kính tiến hiệu hay. Kính cẩn đem bầy tôi bưng sách vàng dâng tôn hiệu là Triệu Cơ Thùy Thống Khâm Minh Cung ý Cẩn Nghĩa Đạt Lý Hiển ứng Chiêu Hựu Diệu Linh Gia Dụ hoàng đế, miếu hiệu là Thái tổ. Cúi nghĩ : Hồn thiêng lên xuống, soi lòng hiếu này ; nhận lấy hiệu to lớn, để yên Phước dài lâu”. 

Từ Lương Quang Thục Minh Đức ý phi, tôn làm Từ Lương Quang Thục Minh Đức ý Cung Gia Dụ hoàng hậu. Sách văn rằng : “Cờ búa dẹp yên nước, thực bởi thánh công ; giúp đỡ sửa việc nhà, đều nhớ hậu đức. Kính nhớ đức Từ Lương Quang Thục Minh Đức Nguyễn ý phi điện hạ, thánh sánh với thánh, cùng ở ấp mới. Khuyên cần lao nơi nhung ngũ ; giữ trinh tĩnh trong buồng sân. Đức hóa thấm khắp nước nhà, Phước lộc dài truyền con cháu. Cho nên nay ngửa nhờ đức ấm, thêm rạng Phước xưa, nghĩ đến công đức kia, dám xét lễ sùng báo. Kính cẩn đem bầy tôi bưng sách vàng dâng tôn hiệu là Từ Lương Quang Thục Minh Đức ý Cung Gia Dụ hoàng hậu. Cúi nghĩ : Hồn thiêng lên xuống, nhận lấy sách vàng, Phước lớn lâu dài, ức vạn năm nữa”.

Hiển Mô Quang Liệt Ôn Cung Minh Duệ Dực Thiện Tuy Dụ Hiếu Văn vương, tôn làm Hiển Mô Quang Liệt Ôn Cung Minh Duệ Dực Thiện Tuy Dụ Hiếu Văn hoàng đế, miếu hiệu là Hy tông. Sách văn rằng : “Có thân thì truyền lâu, có công thì phải lớn. Cho nên việc nêu rõ suy tôn, đạo người lấy đó làm hiếu. Kính nhớ đức Hiển Mô Quang Liệt Ôn Cung Minh Duệ Dực Thiện Tuy Dụ Hiếu Văn vương, rạng nhận mệnh lớn, cả noi nghiệp to. Siêng năng để cầu trời, trung hậu để giữ nước. Uy đức tới đâu, biên thùy không lo ngại, phép tắc để lại, con cháu được nhờ lâu. Cho nên nay nhờ được Phước thừa, rạng thêm cơ nghiệp trước. Nêu đức ghi công lớn, dâng tôn hiệu đâu dám để sau. Kính cẩn đem bầy tôi bưng sách vàng dâng tôn hiệu là Hiển Mô Quang Liệt Ôn Cung Minh Duệ Dực Thiện Tuy Dụ Hiếu Văn hoàng đế, miếu hiệu là Hy tông. Cúi nghĩ : Đức thiêng lồng lộng, sự lòng xét soi, Phước để về sau, muôn năm còn mãi”.

Huy Cung Thuận phi, tôn làm Huy Cung Từ Thận Ôn Thục Thuận Trang Hiếu Văn hoàng hậu.

Sách văn rằng : “Lớn thay đức Khôn nguyên, trên sánh với thể Càn. Phô nêu tốt đẹp, cốt để đền đáp ơn dày, mà hậu đạo hiếu. Kính nhớ đức Huy Cung Nguyễn Thuận phi, tính nết đoan trang, độ lượng rộng lớn ; giáo hóa khắp cõi, tỏ đức vô cùng ; chung đúc Phước lành, tràn trề lòng Phước. Nay nhờ cậy uy linh, nối được cơ nghiệp ; xét theo điển lễ, dâng danh hiệu to. Kính cẩn đem bầy tôi bưng sách vàng dâng tôn hiệu là Huy Cung Từ Thận Ôn Thục Thuận Trang Hiếu Văn hoàng hậu. Cúi nghĩ : Khí thiêng nghi ngút, soi tới nơi đây : nhận lấy hiệu hay, để yên Phước chỉ”.

Thừa Cơ Toản Thống Cương Minh Hùng Nghị Uy Đoán Anh Võ Hiếu Chiêu hoàng đế, miếu hiệu là Thần tông. Sách văn rằng : “Nêu rõ đức của tổ, kính thờ công của tông, đó là thông nghĩa xưa nay vậy. Kính nghĩ : Đức Thừa Cơ Toản Thống Cương Minh Hùng Nghị Uy Đoán Anh Võ Hiếu Chiêu vương bệ hạ, cung kính ngày càng tiến, thông minh trời sẵn cho ; phép lớn noi theo, cõi bờ mở rộng ; mưu mô rạng rỡ, dòng dõi thịnh xương. Nay ngửa nhờ uy linh, cả có đất nước ; tham xét điển lễ, kính tiến hiệu hay. Kính cẩn đem bầy tôi bưng sách vàng dâng tôn hiệu là Thừa Cơ Toản Thống Cương Minh Hùng Nghị Uy Đoán Anh Võ Hiếu Chiêu hoàng đế, miếu hiệu là Thần tông. Cúi nghĩ : Khôn thiêng rực rỡ, cao đến tận trời ; lên xuống hồn thiêng, ban cho nhiều Phước”.

Trinh Thục Từ Tĩnh Mẫn Duệ Huệ phi, tôn làm Trinh Thục Từ Tĩnh mẫn Duệ Huệ Kính Hiếu Chiêu hoàng hậu.

Sách văn rằng : “Lễ Tôn Miếu, kính người tôn quý yêu người thân gần, là cốt để đền công mà nêu đức. Kính nhớ đức Trinh Thục Từ Tĩnh Mẫn Duệ Đoàn Huệ phi điện hạ, dung nghi thùy mỵ, khuôn phép trinh thuần ; quẻ Khôn hợp đức, giáo hóa bắt đầu từ buồng sân ; quẻ Chấn ứng điềm, vui mừng cả đến Xã Tắc. Phước lộc yên vui, đời đời không dứt. Nay ngửa nhờ uy linh, dựng lại nghiệp lớn ; kính dâng hiệu tốt để thịnh nghiệp to. Kính cẩn đem bầy tôi bưng sách vàng dâng tôn hiệu là Trinh Thục Từ Tĩnh Mẫn Duệ Huệ Kính Hiếu Chiêu hoàng hậu. Cúi nghĩ : Hồn thiêng lên xuống, nhận lấy hiệu tôn ; Phước chỉ lâu dài, ban truyền không hết”.

Tuyên Uy Kiến Võ Anh Minh Trang Chính Thánh Đức Thần Công Hiếu Triết vương, tôn làm : Tuyên Uy Kiến Võ Anh Minh Trang Chính Thánh Đức Thần Công Hiếu Triết hoàng đế, miếu hiệu là Thái tông. Sách văn rằng : “Được hưởng Phước lớn phải nhờ công tốt đẹp của tổ tông ; tôn kính người trên là bắt chước đạo hiếu của vua trước. Kính nhớ đứcTuyên Uy Kiến Võ Anh Minh Trang Chính Thánh Đức Thần Công Hiếu Triết vương bệ hạ, trời cho trí dũng, thường như nguồn suối chảy ra ; sáng thêm đức hay, cung kính noi theo nghiệp lớn. Trong sửa ngoài chống, thêm rạng rỡ công nghiệp đời xưa ; xây dựng nước nhà, để lại mưu mô con cháu. Cho nên nay nhờ được uy linh, thêm rạng Phước tốt. Nghĩ đến bao công để lại ; há dám chậm việc phô dương ! Kính cẩn đem bầy tôi bưng sách vàng dâng tôn hiệu là Tuyên Uy Kiến Võ Anh Minh Trang Chính Thánh Đức Thần Công Hiếu Triết hoàng đế, miếu hiệu là Thái tông. Cúi nghĩ : Hồn thiêng lên xuống, cho mãi Phước lành ; đến ức vạn năm, lâu dài mệnh lớn”.

Từ Mẫn Chiêu Thánh Trang Liệt Trang phi, tôn làm Từ Mẫn Chiêu Thánh Cung Tĩnh Trang Thận Hiếu Triết hoàng hậu. Sách văn rằng : “Có vua thánh nối dòng trị nước, hẳn có phi hiền để sửa việc nhà. Tôn quý gồm hai, chính là hợp lễ. Kính nhớ đức Từ Mẫn Chiêu Thánh Trang Liệt chu trang phi điện hạ, dung nghi điềm tĩnh, khuôn phép đoan trang ; đức hợp với vua, sáng đạo làm mẹ. Giáo hóa thấm khắp, như thơ Quan thư ; ôn trạch bao trùm, như thơ Cù mộc, mẫu khuôn nên phép, đức lành khôn phô. Nay đã dựng được công to, truy nhớ nghiệp lớn ; xét theo điển lễ, báo đáp ơn sâu. Kính cẩn đem bầy tôi bưng sách vàng dâng tôn hiệu là Từ Mẫn Chiêu Thánh Cung Tĩnh Trang Thận Hiếu Triết hoàng hậu. Cúi nghĩ : Hồn thiêng lên xuống, nhận lấy hiệu hay, ban cho Phước lành, lâu dài không dứt”.

Từ Tiên Huệ Thánh Trinh Tĩnh phi, tôn làm Từ Tiên Huệ Thánh Trinh Thuận Tĩnh Nhơn Hiếu Triết hoàng hậu. Sách văn rằng : “Noi luân thường dùng điển lễ, báo ơn trước tôn người thân, đó là đạo hiếu của con cháu. Kính nhờ đức Từ Tiên Huệ Thánh Trinh Thuận Tông Tĩnh phi, sao Vụ sáng soi, đức Khôn thuần thục ; tập rèn gia pháp, kính cẩn miếu đường. Trên sánh với vua, sinh được trai trưởng. Kế thừa thêm tôn thống lâu dài, Phước trạch, mở cơ đồ thịnh lớn. Nay ngửa nhờ uy thiêng, khôi phục mở mang bờ cõi, noi theo rạng rỡ cơ đồ. Tra xét điển cũ, cử lễ đều tôn. Kính cẩn đem bầy tôi bưng sách vàng dâng tôn hiệu là Từ Tiên Huệ Thánh Trinh Thuận Tĩnh Nhơn Hiếu Triết hoàng hậu. Cúi nghĩ : Thiêng liêng soi tới, nghi ngút cảm thông. Nhận danh hiệu hay, giúp cơ đồ quý”.

Thiệu Hưu Toản Nghiệp Khoan Hồng Bác Hậu Ôn Huệ Từ Tường Hiếu Nghĩa vương, tôn làm Thiệu Hưu Toản Nghiệp Khoan Hồng Bác Hậu Từ Tường Hiếu Nghĩa hoàng đế, miếu hiệu là Anh tông. Sách văn rằng : “Hiếu không gì lớn bằng vẻ vang cha mẹ ; lễ không gì trọng bằng yêu kính người thân. Cho nên hiếu đến rất mực thì phải rất tôn. Kính nhớ đức Thiệu Hưu Toản Nghiệp Khoan Hồng Bác Hậu Ôn Huệ Từ Tường Hiếu Nghĩa vương bệ hạ, lúc mới giữ chính, nối bốn đời vua. Theo thời nên công, đem một đời đến nơi thịnh trị, yên dân, hòa chúng, giữ bốn cõi cho được bình yên. Chứa đức, góp nhân sáng tiền rạng hậu. Nay nhờ uy linh, giúp mở bờ cõi. Xét tra điển cũ, dâng danh hiệu hay. Kính cẩn đem bầy tôi bưng sách vàng dâng tôn hiệu là Thiệu Hưu Toản Nghiệp Khoan Hồng Bác Hậu Ôn Từ Tường Hiếu Nghĩa hoàng đế, miếu hiệu là Anh tông. Cúi nghĩ : To lớn ở trên, thường khi lên xuống ; nhận danh hiệu lớn, ban Phước lâu dài”.

Từ Tiết Tĩnh Thục Hiếu Từ Hiến phi, tôn làm Từ Tiết Tĩnh Thục Tuệ Mẫn Hiến Thuận Hiếu Nghĩa hoàng hậu. Sách văn rằng : “Tây Kỳ dựng nghiệp (1. Tây Kỳ là nơi Châu Văn vương dựng nghiệp.), nhớ Phước của Thái Nhâm Thái Khương (2. Thái Nhâm là mẹ của Văn vương, Thái Khương là bà của Văn vương.), Đông Lạc mở nền(3. Đông Lạc là kinh đô nhà Đông Hán.), nhờ đức của Mã hậu Đặng hậu(4. Mã hậu là vợ Hán Minh đế, Đặng hậu là vợ Hán Hòa đế). Sánh với đời cổ nên báo đáp dầy. Kính nhớ đức Từ Tiết Tĩnh Thục Hiếu Từ Tống Hiến phi điện hạ, giữ tròn trăm nết, gồm đủ muôn hay. Lượng rộng trên sánh với vua, việc trong có khuôn phép tốt ; điềm lành sớm sinh con trưởng, truyền nhà dòng dõi vững bền. Cho nên nay nhờ Phước thiêng, thêm mới mệnh lớn. Nêu lên tốt đẹp, báo đáp công ơn. Kính cẩn đem bầy tôi bưng sách vàng dâng tôn hiệu là Từ Tiết Tĩnh Thục Tuệ Mẫn Hiến Thuận Hiếu Nghĩa hoàng hậu. Cúi nghĩ : Thiêng liêng như tới, soi xét không xa ; nhận sách báu này, giúp cơ đồ quý”.

Anh Mô Hùng Lược Thánh Văn Tuyên Đạt Khoan Từ Nhơn Thứ Hiếu Minh vương, tôn làm Anh Mô Hùng Lược Thánh Văn Tuyên Đạt Khoan Từ Nhơn Thứ Hiếu Minh hoàng đế, miếu hiệu là Hiển tông. Sách văn rằng : “Đế vương có hiệu tốt danh to, để tỏ rõ muôn đời công đức. Kính nhớ đức Anh Mô Hùng Lược Thánh Văn Tuyên Đạt Khoan Từ Nhơn Thứ Hiếu Minh vương bệ hạ, cung kính ngày tiến, thông minh trời cho. Nối nghiệp năm vua, gặp thời hòa thịnh ; yên nuôi trăm tuổi, cõi thọ cùng vui. Văn hoa dạy người, như thơ Thanh nga(5. Thơ Thanh nga : Một thiên của Kinh Thi, nói người quân tử dạy được nhiều anh tài thì thiên hạ mừng vui) nhuần thấm ; Phước lành tạo tác, như thơ tài Vực phác(6. Thơ Vực phác : Một thiên của Kinh Thi, nói Châu Văn vương dùng được nhiều người tài giỏi) còn thua. Thêm sáng công trước, mở dẫn người sau. Nay được ngửa nhờ uy linh, cả nối mệnh sáng. Xét theo phép cũ, dâng tiến hiệu hay. Kính cẩn đem bầy tôi bưng sách vàng dâng tôn hiệu là Anh Mô Hùng Lược Thánh Văn Tuyên Đạt Khoan Từ Nhơn Thứ Hiếu Minh hoàng đế miếu hiệu là Hiển tông. Cúi nghĩ Thánh linh soi xuống, ban mãi Phước lành ; đời đời năm năm, dài lâu không dứt”.

Từ Huệ Cung Thục ý Đức Kính phi tôn làm Từ Huệ Cung Thục ý Đức Kính Mục Hiếu Minh hoàng hậu. Sách văn rằng : “Đất hợp với trời, hậu sánh với đế. Lễ do nghĩa mà ra, kính người đáng tôn là để chính lễ Tôn Miếu. Kính nhớ đức Từ Huệ Cung Thục ý Đức Tống Kính phi, dung nghi phương phi, đức hạnh tốt đẹp. Thùy mị nghiêm khuôn phép chốn Tiêu cung, dậy sớm giúp vua, siêng năng lo lắng ; chung dục ứng điềm lành bến Hoa chử, có nhiều con cháu, thịnh lớn lâu dài. Cho nên nay nhờ ơn trước, mở rộng nghiệp to ; nên xét lễ văn, nêu rõ tốt đẹp. Kính cẩn đem bầy tôi bưng sách vàng dâng tôn hiệu là Từ Huệ Cung Thục ý Đức Kính Hiếu Minh hoàng hậu. Cúi nghĩ : Nghi ngút ở trên, có soi xét tới, giúp cho nhà nước, bền vững lâu dài”.

Tuyên Quang Thiệu Liệt Tuấn Triết Tĩnh Uyên Kính Văn Vĩ Võ Hiếu Ninh vương, tôn làm Tuyên Quang Thiệu Liệt, Tuấn Triết Tĩnh Uyên Kinh Văn Vĩ Võ Hiếu Ninh hoàng đế, miếu hiệu là Túc tông, Sách văn rằng : “Nêu cao danh hiệu là điển lễ lớn của đế vương tôn kính tổ tông. Kính nhớ đức Tuyên Quang Thiệu Liệt Tuấn Triết Tĩnh Uyên Kinh Văn Vĩ Võ Hiếu Ninh vương thánh đức rộng sâu, hòa kính sáng suốt. Kính trời chăm dân tùy thời lập chính. Mở mang cõi đất, vang dậy uy thanh. Sáng trước rạng sau, công đức gồm thịnh. Nay ngửa nhờ uy linh, quét sạch khói bụi, khiến mặt trời mặt trăng lại sáng. Nhớ đến đức tốt, kính dâng hiệu hay. Kính cẩn đem bầy tôi bưng sách vàng dâng tôn hiệu là Tuyên Quang Thiệu Liệt Tuấn Triết Tĩnh Uyên Kinh Văn Vĩ Võ Hiếu Ninh hoàng đế, miếu hiệu là Túc tông. Cúi nghĩ : Thánh linh soi xuống, cho được Phước lành, để thịnh đời sau, dài lâu vui tốt”.

Từ ý Quang Thuận Chiêu Hiến Thục phi, tôn làm Từ ý Quang Thuận Chiêu Hiến Thục Huệ Hiếu Ninh hoàng hậu. Sách văn rằng : “Đạo trong trời đất, càn khôn hai đức hợp nhau ; lệ ở miếu đường, đế hậu hai ngôi cùng trọng. Kính nhớ đức Từ ý Quang Thuận Chiêu Hiến Trương Thục phi điện hạ, trong sạch thùy mị, đức tốt đoan trang. Sao Bảo vụ sáng liền sao Bắc thần, khuôn phép nghiêm tốt ; khí trời đất chung đúc ở mình thánh dòng dõi lâu dài. Cho nên nay nhờ uy linh, thêm rạng Phước trước ; dâng tiến hiệu tốt, nêu tỏ đức hay. Kính cẩn đem bầy tôi bưng sách vàng dâng tôn hiệu

là Từ ý Quang Thuận Chiêu Hiến Thục Huệ Hiếu Ninh hoàng hậu. Cúi nghĩ : Thiêng liêng soi tới, ban cho Phước lành, bảo hộ nước nhà, sánh cùng trời đất”.

Kiền Cương Uy Đoán Thần Nghị Thánh Du Nhơn Từ Duệ Trí Hiếu Võ vương, tôn làm Kiền Cương Uy Đoán Thần Nghị Thánh Du Nhơn Từ Duệ Trí Hiếu võ hoàng đế, miếu hiệu là Thế tông. Sách văn rằng : “Đức mới mệnh mới, là nhờ tổ tiên chứa Phước để cho ; rất kính rất yêu, là đạo hiếu của đế vương đời trước. Kính nhớ đức Kiền Cương Uy Đoán Thần Nghị Thánh Du Nhơn Từ Duệ Trí Hiếu Võ vương bệ hạ. Sáng tựa mặt trời lên, mạnh như đạo trời chuyển vận. ơn đức tốt đẹp, thấm khắp thần dân, tiếng hay lẫy lừng, lan tràn viễn cận. Nhân trạch ra bốn cõi. Đức chính mới mở mang. Đổi phục sắc định quan danh, việc làm rõ ràng đáng thuật. Đạo đức công nghiệp, người không thể quên. Cho nên nay ngửa nhờ Phước thiêng, được nối nghiệp trước ; lấy lại đô cũ, mở rộng cõi bờ. Kính tra điển lễ, dâng tiến hiệu hay. Kính cẩn đem bầy tôi bưng sách vàng dâng tôn hiệu là Kiền Cương Uy Đoán Thần Nghị Thánh Du Nhơn Từ Duệ Trí Hiếu Võ hoàng đế, miếu hiệu là Thế tông. Cúi nghĩ : Thánh linh lên xuống, ở hai bên trời ; ban cho Phước lành, dài lâu không dứt”.

Ôn Thành Thái phi tôn làm : Ôn Thành Huy ý Tráng Từ Dục Thánh Hiếu Võ hoàng hậu. Sách văn nói rằng : “Họ Đồ Sơn  (1. Đồ Sơn : Hạ Vũ là vua đầu tiên của nhà Hạ, lấy con gái họ Đồ Sơn.) mở nhà Hạ ; họ Hữu Nhung  (2. Hữu Nhung : Mẹ Ân Tiết tổ nhà Thương là con gái họ Hữu Nhung. Sau cháu chắt là Thánh Thang đánh Hạ Kiệt mà dựng cơ nghiệp nhà Thương.) dựng nhà Thương. Đức tốt đều sánh với người xưa ; điển lễ phải báo đáp cho hậu. Kính nhớ đức Ôn Thành Trương thái phi điện hạ, Bốn đức gồm đủ, trăm nết đều hay. Lượng rộng sánh với vua, trinh thuận vâng đạo lớn. Tiết độ hòa nhã, êm đềm ở chốn nhà công ; lợi lộc tóc da, dồi dào để cho con cháu. Nay nhờ ơn thiêng, thêm dài cơ nghiệp. Xét theo điển lễ, kính dâng hiệu to. Kính cẩn đem bầy tôi bưng sách vàng dâng tôn hiệu là Ôn Thành Huy ý Trang Từ Dục Thánh Hiếu võ hoàng hậu. Cúi nghĩ: Nghi ngút ở trên, hồn thiêng soi ; giúp cơ nghiệp lớn, được Phước dài lâu”.

Thông Minh Khoan Hậu Anh Mẫn Huệ Hòa Hiếu Định vương, tôn làm Thông Minh Khoan Hậu Anh Mẫn Huệ Hòa Hiếu Định hoàng đế, miếu hiệu là Duệ tông. Sách văn rằng : “Đế vương chịu mệnh trời vẻ vang dâng miếu hiệu, đó là yêu kính rất mực. Kính nhớ đức Thông Minh Khoan Hậu Anh Mẫn Huệ Hòa Hiếu Định vương bệ hạ, đức tốt kính hòa, nết hay nhân hậu. Giữ công nghiệp để lại ; gặp những bước gian nan. Trời thẳm vực sâu, theo thời đến nơi cùng cực ; thói hay ơn tốt, ở người không bao giờ quên. Nay ngửa nhờ ơn thiêng, nên được nghiệp lớn, xét tra điển lễ, kính dâng hiệu hay. Kính cẩn đem bầy tôi bưng sách vàng dâng tôn hiệu là Thông Minh Khoan Hậu Anh Mẫn Huệ Hòa Hiếu Định hoàng đế, miếu hiệu là Duệ tông. Cúi nghĩ : Lên xuống soi tới, xét lòng chí thành, giúp nước nhà ta, lâu bền Phước lộc”.

Ngày ất dậu, truy tôn Từ Tường Đạm Bạc Khoan Dụ Ôn Hòa Hiếu Khang vương làm Nhơn Minh Cẩn Hậu Khoan Dụ Ôn Hòa Hiếu Khang hoàng đế, miếu hiệu là Hoàng khảo, sách văn rằng : “Hiếu không gì lớn bằng tôn kính cha mẹ. Cho nên con có thiên hạ, phải suy tôn cha, đó là đạo hiếu rất mực vậy. Kính nhớ đức Từ Tường Đạm Bạc Khoan Dụ Ôn Hòa Hiếu Khang vương bệ hạ, đạo đức đáng là bực thánh, danh vọng xứng với ngôi vương. Lấy tư chất cung kính khiêm nhường, giúp chí khí anh hùng mạnh mẽ. Rất kính rất hiếu, cảm cách đến đất trời ; lòng nhân tiếng nhân, thấm khắp cả dân chúng. Trời có lòng yêu, khiến con cháu thịnh. Cho nên, thần là kẻ nhỏ mọn, một mình đương gian nan, ngửa nhờ ơn thiêng, diệt được giặc nước, giữ yên Tôn Miếu Xã Tắc thực nhờ Phước đức tích lũy, nên mới được thế. Kính cẩn đem bầy tôi bưng sách vàng dâng tôn hiệu là Nhơn Minh Cẩn Hậu Khoan Dụ Ôn Hòa Hiếu Khang hoàng đế, miếu hiệu là Hoàng khảo. Cúi nghĩ : Thiêng liêng có cảm, soi tới rất gần. Dựng việc chẳng sai, gồm đức tốt của tam hoàng ngũ đế. Phước còn hưởng mãi, thêm lịch số hàng vạn tải thiên thu”.

Ngày Tân mão, vua ngự điện Thái Hòa nhận lễ mừng, ban lời đại cáo khắp trong ngoài.

Chiếu rằng :

“Từ xưa, người có thiên hạ, tất phải truy tôn tổ khảo, nêu rạng suy sùng, tỏ rõ thịnh điển. Nhà nước ta từ đức Chiêu Huân Tĩnh vương, công dày đức tốt, để lại đời sau ; đức Tiên Thái vương ta dựng nước mở đất, gây nên nghiệp vương ; các thánh nối truyền, mưu giỏi công cao, nghiệp vương ngày càng sáng lớn. Hoàng khảo ta tiếng nghĩa rõ rệt, đức tốt nhân hậu, người đều thấy nghe ; dốc chứa Phước lành, để cho con cháu. Cho nên trẫm ngửa nhờ ơn thiêng, lấy lại nghiệp cũ, mở rộng bờ cõi, thực nhờ ơn đức của tổ tông thánh thần để lại, mãi mãi không cùng. Nay trẫm theo lời xin của bầy tôi, đã lên ngôi hoàng đế, xét lễ truy tôn, Tôn Miếu đời cổ, đó là việc phải làm đầu tiên. Ngày mồng 8 tháng này đã đem bầy tôi bưng sách vàng truy tôn huy hiệu các thánh vương trước làm hoàng đế và các vương phi trước làm hoàng hậu. Ngày mồng 9 đem bầy tôi bưng sách vàng truy tôn huy hiệu Hoàng khảo làm hoàng đế. Hằng năm tuần tiết tiến hưởng, lễ vật chúc hỗ, đều dùng lễ nhạc hoàng đế để cho vẻ vang thêm và tỏ bày sự tôn kính báo đáp. Ôi ! ở ngôi ấy làm lễ ấy, lòng kính ái nay đã rất thành. Gốc ở mình, nghiệm ở dân, đức hóa hợp đồng, còn mong được khắp”.

Định lệ tiền ân tuất cho quan viên văn võ. (Chánh nhất phẩm tiền tuất 400 quan, tòng nhất phẩm 300 quan, chánh nhị phẩm 200 quan, tòng nhị phẩm 100 quan, chánh tam phẩm 70 quan, tòng tam phẩm 40 quan, chánh tòng tứ phẩm 30 quan, chánh tòng ngũ phẩm 25 quan, chánh tòng lục phẩm 20 quan, chánh tòng thất phẩm 15 quan, chánh tòng bát phẩm 10 quan, chánh tòng cửu phẩm 5 quan, lính lưu thú và thợ thuyền làm ở các công sở 3 quan. Những bề tôi công lao và cố cựu đặc biệt được ân tuất thì không thuộc lệ này).

Thủy sư chở thóc ở Gia Định, thấy thóc nổi nhiều (một thăng thóc nổi đến ba thược), lính chở không chịu lĩnh thóc. Lưu trấn thần đem việc tâu lên. Vua thấy Gia Định liền năm không được mùa, nên sai chở hết về Kinh.

Tha thuế cho các đầu nguồn ở Quảng Ngãi. Bốn nguồn ở Quảng Ngãi là Đà Bồng, Cù Ba, Phụ Bà Rịa, Ba Tơ, mỗi năm phải nộp tiền thuế là

1.720 quan. Từ năm Gia Long thứ 2, vì đánh giặc ác man nên cấm thông thương mà tha thuế cho. Đến nay quan quân hãy còn ở để phòng ngự, buôn bán không tiện, dinh thần tâu lên, bèn hạ lệnh tha cho.

Đổi tấn Hòn Xú ở Hà Tiên làm tấn Kim Dữ.

Lại lấy Nguyễn Khắc Khoan làm Hiệp trấn Sơn Nam thượng. (Khắc Khoan có tang nghỉ việc, tang xong, lại cho làm việc như cũ).

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển XXX – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Bính dần, năm Gia Long thứ 5 [1806], mùa thu, tháng 7, ngày mồng 1, tế thu hưởng.

Ngày Mậu thân, vua đem bầy tôi đến cung Trường Thọ, bưng sách vàng ấn vàng tôn Vương thái hậu làm Hoàng thái hậu.

Sách văn rằng : “Trộm nghe hiếu trước hết phải ở lòng yêu, lễ không gì hơn tôn cha mẹ. Xét theo phép thường, đủ nêu lễ thịnh. Kính nghĩ, đức Vương thái hậu bệ hạ, tiếng lành rộng khắp, cao vượt đời xưa. Nết tốt đức dày, cảnh nào vẫn thế. Khuôn phép chốn đình vi, ích lợi đến Xã Tắc. Phước để con cháu, ơn kịp thần dân. Công chứa nhân chồng, ngày nay mới có. Cho nên thần mới theo lời bầy tôi, đã xưng đế hiệu, càng nhớ đến công dưỡng dục như trời không cùng, há dám không suy tôn để đáp ơn lớn ! Kính cẩn đem bầy tôi bưng sách vàng dâng tôn hiệu làm Hoàng thái hậu. Cúi xin nhận lấy hiệu to, cho nhiều Phước chỉ. Danh xứng với đức, sáng mãi như mặt trời mặt trăng ; Phước tự trời cho, thọ mãi như núi sông gò đống”.

Ngày Canh tuất, vua ngự điện Thái Hòa nhận lễ mừng, hạ chiếu bố cáo trong ngoài.

Chiếu rằng : “Trẫm nghĩ lập kính trước hết phải kính người tôn, lập ái trước hết phải yêu người thân. Cho nên rạng danh cha mẹ, gọi là thuần hiếu, suy tôn cha mẹ gọi là thịnh điển. Trẫm chăm nuôi nhân dân, muốn trị dân bằng đạo hiếu. Nghĩ Vương thái hậu bệ hạ, vì thân mà ở ngôi sang, có đức tất được tuổi thọ. Đầm đìa thấm thía, sâu rộng càng thêm. Phước ở một mình trẫm, cũng là lợi vô cùng cho Xã Tắc. Lấy chín châu mà phụng dưỡng, chưa dám cho là đủ. Duy có sửa lễ để tỏ lòng thành, tôn hiệu để nêu đức tốt, ngõ hầu trên đáp lòng từ, giữ sáng nhiều Phước. Cho nên trẫm mới theo lời bầy tôi tâu xin, đã lên ngôi đế, ngửa trông công dưỡng dục, thực lớn như trời. Công siêng năng thì báo đền tốt ; sự thực chứa thì có danh hay. Nêu đức ghi công, không dám để chậm, cho nên ngày mồng 3 tháng này, thân đem bầy tôi bưng sách vàng ấn vàng kính dâng tôn hiệu Vương thái hậu làm Hoàng thái hậu, để được vẻ vang hiệu lớn, nêu rạng đức hay. Ôi ! Hiếu không thiếu mới hay để Phước, nay đã hậu lễ tôn thân, dậy không cùng cốt để giữ dân, còn mong tạo thành phong hóa”.

Ngày Kỷ mùi, sách lập Vương hậu Tống thị làm Hoàng hậu.

Sách văn rằng : “Trẫm nghĩ thể thuần khôn, sách cùng kiền đức. Vương hóa bắt đầu, gốc ở nội trị. Tôn quý như nhau, theo lễ là đúng. Nghĩ đến Vương hậu Tống thị, tiếng hay rộng khắp, thuần thục nết na, giữ việc trong nhà, bếp nước vui vẻ. Ngày trước bôn bá, trẫm khó nhọc ở ngoài, hậu siêng năng ở trong, giúp nhau trong lúc gian nan, trải qua chỗ bằng chỗ hiểm. Cầu cúng hết kính, ngon ngọt thảo hiền, ơn cho con cháu, trạch đến quân nhung. Ôn nhu cung kiệm, để giúp đỡ trẫm. Dịu dàng vẻ ngọc, khuôn phép trong nhà ; yểu điệu phong tư, giáo hóa cả nước. Sửa mình, tề nhà, trị nước, bình thiên hạ, thật có giúp đỡ cho trẫm. Nay trẫm mới theo lời tâu xin của đình thần đã lên ngôi đế, nghĩ, ngôi hậu ở trong, cùng trị với trẫm, chức việc trong cung, cũng gốc ở triều đình, nên trẫm đã tâu xin ý chỉ của Hoàng thái hậu, đặc biệt sai Chưởng Thần võ quân kiêm giám Thần sách quân Khiêm quận công Phạm Văn Nhơn cầm cờ tiết, Hộ bộ thượng thư Tích thiện hầu Nguyễn Kỳ Kế làm phó, đem sách vàng ấn vàng tấn phong làm hoàng hậu để tôn vị hiệu. Hậu nên nhận lấy danh hiệu vẻ vang này, gắng sức sửa sang việc nhà, kính thờ Tôn Miếu, tỏ khuôn phép làm mẹ thần dân. Siêng năng việc đức, hằng nhớ nghĩa mà sáng tươi, để hưởng Phước lành mãi mãi không cùng”.

Ngày Quý hợi, vua ngự ở điện Thái Hòa nhận lễ mừng, hạ chiếu bố cáo trong ngoài..

Chiếu rằng : “Trẫm nghĩ trời đất định ngôi, mặt trời mặt trăng hợp

đức, cho nên tôn quý như nhau, lễ thực nên làm như thế. Nghĩ Vương hậu Tống thị, đức hạnh đầy đủ. Từ thuở tiềm long, giữ việc nội trợ. Nghiệp tốt đã rõ nơi sân ngọc, công to đã chép bằng bút son. Kịp tới lúc nước nhà dựng lại, đường cái thênh thang, Hậu siêng năng giúp việc trong, càng ôn hòa vui vẻ. Tiếng hay ngày càng thịnh, thực có bổ ích cho việc tu tề. Nay trẫm mới theo lời tâu xin của đình thần đã lên ngôi đế, lại nói mãi về đức hiền của hậu nên tôn, cho nên ngày 14 tháng này đã sai quan bưng sách vàng ấn vàng tấn phong Vương hậu làm Hoàng hậu, để cho rạng vẻ sao Bắc thần soi sáng khắp sáu cung. Ôi ! đức Khôn dày sánh với đức Kiền cao, để long trọng lễ nghi quý người đáng quý. Hằng giữ lâu đạo thánh nhân mới được, để tràn khắp đức hóa trinh thuận hòa vui”.

Tướng giặc ở Thái Nguyên là bọn Dương Đình Cúc họp đảng mưu nổi loạn. Trấn thần phát binh trấn cùng với bọn phiên mục Đinh Công Oai, Ma Thế Cố, Ma Thế Trạch chia nhau đi bắt, bắt được bọn đầu mục giặc hơn mười người. Thành thần đem việc tâu lên. Cho Đinh Công Oai làm Tuyên úy sứ, thưởng mũ áo cho bọn Ma Thế Cố, Ma Thế Trạch và thưởng cho biền binh 2.000 quan tiền.

Bắc Thành nước lớn, đê vỡ. (Xã Công Luận huyện Văn Giang trấn Kinh Bắc, xã Đạm Xuyên huyện Yên Lãng trấn Sơn Tây, xã Thần Quy huyện Phú Xuyên, hai xã Lục Tràng, Châu Cầu huyện Kim Bảng, ba xã Nga Sơn, Hồi Trung, Thụy Lôi huyện Nam Xang, trấn Sơn Nam thượng, hai xã Quan Khê, Lão Khê huyện Hưng Nhơn, trấn Sơn Nam hạ), lúa ruộng ngập mất, nhiều nhà dân bị trôi. Sai thành thần khám thực tâu lên.

Đổi định lệ tha tô thuế cho dân xiêu dạt trở về từ Nghệ An ra Bắc.

Chiếu rằng : “Năm ngoái đã có chiếu nói phàm dân xiêu dạt mới về, người nào xiêu dạt từ năm Nhâm tuất về trước thì miễn tô thuế ba năm, từ năm Quý hợi về sau thì không thuộc lệ ấy. Nhưng nghĩ dân ấy bị Tây Sơn tàn ngược đã lâu, dần dần điêu hao, hoặc lại bị thêm thiên tai nắng lụt, đến phải phiêu lưu, đều là thế không dừng được. Vậy nghị cho từ năm nay về trước, các dân xiêu dạt đã thành án, không kể niên hạn năm ngoái đã định, đều cho chiêu tập, khiến về quê làng làm ăn. Như người nào đã trở về từ năm ất sửu và năm Bính dần thì tô thuế từ năm ấy đến năm Kỷ tỵ đều được miễn ; như đến năm Đinh mão mới về thì cũng được miễn tô thuế ba năm Đinh mão, Mậu thìn và Kỷ tỵ”.

Chế long khám ở Nguyên miếu. Sai Nhà đồ chiếu theo kiểu khám ở Thái miếu, gửi cho Thanh Hoa theo y kiểu ấy mà làm để phụng thờ.

Lấy Hà Nguyễn Thứ sung Hàn lâm viện.

Cai bạ Bình Thuận là Trần Văn Thuyên tuổi già dâng sớ xin về hưu dưỡng. Vua y cho.

Lấy Cai đội Phan Tiến Thể làm Thủ ngự cửa biển Cu Đê.

Người xã Tiểu Lễ (thuộc huyện Thiên Phước) trấn Kinh Bắc là Nguyễn Phú Tiền oa trữ bọn giặc, bị xã dân tố cáo. Vua sai bắt chém. Thưởng cho người tố cáo 100 quan tiền.

Chưởng cơ lĩnh trấn thủ Thanh Hoa ngoại là Ngô Văn Sở chiếm cướp ruộng dân của xã Hoàng Đan. Việc phát, bị mất chức.

Đổi trấn Thanh Hoa ngoại làm đạo Thanh Bình ; lấy Chưởng cơ Lương Văn Vân lãnh chức quản đạo.

Tháng 8, tế thu ở đàn Xã Tắc. Vua thân đến làm lễ.

Dựng công đường cho sáu bộ (ở góc sau bên tả Hoàng thành).

Nước Xiêm La sai sứ sang hiến ba chiếc chiến thuyền. Lưu trấn thần ở Gia Định đem việc tâu lên. Sai đưa sứ giả về Kinh chiêm bái, ban cho hậu, rồi cho về.

Lấy Thị trung học sĩ Trịnh Hiến thự chức Tham tri Hình bộ, theo Bắc Thành làm việc.

Lấy Tri phủ Hà Hoa là Phạm Văn Dưỡng làm Cai bạ Bình Thuận, tri phủ Anh Đô là Kiều Công Tuấn làm Ký lục Bình Hòa.

Ban ấn thông hành cho nước Chân Lạp (khắc chữ triện Ngự tứ thông hành chi ấn). Phàm thuyền buôn của dân Chân Lạp và người Thanh do cửa biển Ba Thắc ra vào buôn bán, người tấn thủ Trấn Di xét xem bài thuyền có đóng làm tin thì cho đi lại, miễn thuế cho.

Cho Cai đội Trương Phước Giáo làm Khâm sai cai cơ.

ấm thụ cho con Thuộc nội cai cơ quản vệ Long điện Nguyễn Văn Liêm là Nguyễn Văn Yên làm đội trưởng (Văn Liêm có công Vọng Các).

Tháng 9, cấp 200 mẫu tự điền cho Thái bảo Miên quốc công, sai Nguyễn Thích giữ việc thờ cúng.

Định lệ thử thóc thu tô. (Phàm trường thuế trưng thu thóc tô, trước hết lấy một thăng đổ vào nước để thử, lấy nổi 2 thược làm hạn, quá 2 thược thì không thu. Hạt thóc ẩm ướt cũng không thu. Thóc thử thì trả lại dân, người coi kho không được lấy riêng. Làm trái thì có tội).

Sai quan Bắc Thành sửa dựng kho của thành, chi tiền kho để mua vật liệu, chiếu theo thể thức bộ Công gửi mà làm.

Tướng giặc ở Bình Định là Nguyễn Văn Khống họp đảng ở Tượng Sơn, ngụy xưng chức tước, mưu đánh trấn thành. Người ấp Định Hương là Văn Công An đến trấn tố cáo tình trạng. Trấn thần cho quân vây bắt, bắt được đồ đảng rất nhiều. Khống trốn chạy, sau bị tượng quân là Nguyễn Văn Cẩn và thổ dân là Trương Văn Nhuận bắt được. Sai chém. Thưởng cho Văn Cẩn 200 quan tiền, Văn Nhuận 100 quan tiền, miễn thuế dịch. Người tố cáo là Văn Công An tuổi già, miễn thuế thân và dao dịch trọn đời cho con là Văn Công Phú.

Quan Bắc Thành tâu nói : “ở các trấn và phủ huyện án tờ đọng lại nhiều, xin tùy theo nặng nhẹ định phạt cho nghiêm phép quan”. Lại nói : “Binh lính nhiều người vì mắc nợ của quản quan mà phải đào ngũ, quản quan lại bắt dân phải đền nợ, dân bị khổ lắm. Xin cấm chỉ cho hết thói tệ”. Vua đều theo lời.

Nguyễn Đình Đắc tâu nói : “Thần năm trước theo về, bị giặc cướp nhà cửa, mẹ thần lẩn trốn mà chết. Năm Nhâm tuất hỗ giá đi Bắc chinh, vâng lệnh ở lại đóng thú, tới đây đã 5 năm. Thần nay tuổi đã quá 50, hơi sức suy kém ; các con đều còn phải bế ẵm, dòng máu một nhà chỉ còn mình thần. Vậy xin nghỉ về quê một năm để lo liệu việc nhà”. Vua thương tình y cho.

Mùa đông, tháng10, ngày mồng1, tế đông hưởng.

Lấy Phó vệ úy vệ Nghĩa dũng là Nguyễn Xuân Tiến làm Phó vệ úy vệ Hữu nhất Thị trung.

Thuyền đánh cá của người Thanh là bọn Lâm Tiến Hưng bị bão dạt vào Đồ Sơn (thuộc tỉnh Hải Dương). Sai cấp cho lương ăn và bảo về nước.

Vua thứ hai nước Xiêm La mới lập, sai sứ đem hiến sản vật địa phương.

Tướng giặc ở Lạng Sơn là Mạc Xán Vi (cháu chín đời Mạc Nguyên Thanh) nổi lên ở ải Du Thôn, gọi người Thanh là Tăng Khôi Nguyên cho làm ngụy hộ giá, tự xưng niên hiệu là Cảnh Xuân. Trấn thần sai bọn Cai cơ Nguyễn Văn Khương, Nguyễn Văn Huân đem quân đánh bắt, bắt được Xán Vi, Khôi Nguyên và bè đảng hơn mười người. Quan Bắc Thành đem việc tâu lên. Thưởng áo mũ cho bọn Văn Khương và cho biền binh 600 quan tiền. Xán Vi, Khôi Nguyên đều bị xử tử. Đồ đảng là Mộng Bạch Bành, Lương Pháp Quyền, Mã Nho Minh đều là người Thanh, bị bắt ép phải theo, sai đưa về châu Bằng Tường nước Thanh.

Đổi bổ Đô thống chế dinh Túc trực là Nguyễn Văn Khiêm làm Đô thống chế Thị trung.

Lấy Huỳnh Văn Diễn làm Ký lục Quảng Bình, Nguyễn Quang Châu làm Đông các học sĩ, Võ Du sung Hàn lâm viện.

Chưởng cơ phó thống Trung đồn Tiền quân là Nguyễn Văn Lân chết ; tặng Thị nội thống chế.

Tháng 11, tha thuế thiếu cho dân xiêu dạt ở các trấn Bắc Thành.

Quan Bắc Thành tâu nói : “Các hạt Hải Dương, Sơn Tây, Kinh Bắc, Sơn Nam thượng, hạ, Hoài Đức, Thái Nguyên, Hưng Hóa, từ năm Nhâm tuất tới nay, nhân dân xiêu tán đến hơn 370 xã thôn, tô thuế bỏ thiếu chồng chất đến hơn 11 vạn quan tiền, hơn 7 vạn hộc thóc, xin lượng cho khoan giảm để đỡ khổ cho dân”. Vua hạ lệnh tha hết cho, và sai quan sở tại yên ủi gọi về.

Cấm tệ riêng của những quản suất các quân. Phàm binh lính trốn hay chết, quản suất phải báo ngay cho bộ để bắt điền, không được để kéo dài mà đòi thu tiền đại dịch, cũng không được thiện tiện đòi bắt, tạ sự quấy rối. Làm trái sẽ bị trị theo quân pháp.

Vệ úy vệ Ban trực hậu là Đinh Công Xuyên nhũng lạm lấy tiền của quân 1.900 quan. Việc phát, bị giết. Đô thống chế là Trần Văn Năng vì không hay ngăn cấm bị phạt. Nhân đó vua triệu các chưởng quân đến dụ rằng :

“Bọn người có trách nhiệm cầm coi binh lính, nên nghiêm nhặt răn bảo người sở thuộc phải ráo riết tuân theo quân chính. Có kẻ nào trái phép mưu lợi riêng, thì phải xét hoặc nêu ra, nếu ẩn giấu mà không phát, đến khi việc phát thì phải tội lây”.

Lại hạ chiếu răn bảo tướng hiệu các quân rằng : “Triều đình đặt quan, đã có lộc thưởng. Người quản binh nên yêu thương quân sĩ, để họ vui lòng làm việc. Trước đây đã răn bảo đinh ninh, những điều nghiêm còn đấy. Thế mà Đinh Công Xuyên lại dám xem khinh kỷ luật, làm càn trái phép, theo phép thường thì tội phải giết, đã chém đầu để bảo cho mọi người. Ôi ! Phép là của công thiên hạ, bọn người đều nên cẩn thận giữ phép thường, để giữ lấy tước lộc lâu dài, và hưởng Phước thanh bình mãi mãi”.

Sai Bắc Thành mỗi năm thu 600 phương gạo nếp (2 phương gạo nếp khấu trừ 3 phương thóc tô) nộp về Kinh.

Nước Chân Lạp sai sứ đến cống.

Cấp lương tháng cho Thái y viện. (Ngự y chánh tiền 5 quan, gạo 4 phương, ngự y phó tiền 4 quan, gạo 3 phương).

Thuyền đánh cá của người Thanh gặp bão dạt vào phần biển Quảng Nam Bình Định. Sai cấp cho tiền gạo rồi bảo về.

Phó quản cơ Trung quân là Nguyễn Văn Long, Trưởng hiệu là Nguyễn Văn Lý và Phó đội là Nguyễn Văn Oai nhũng lạm. Việc phát, giáng chức Văn Long làm Cai đội ; bọn Văn Lý, Văn Oai đều sung làm lính.

Hạ lệnh cho thành thần Gia Định thông sức cho quan quân dân chúng ở bốn dinh, có ai đóng thuyền nan thuyền ván, bề ngang từ 5 thước trở lên, có thể đi biển được, thì mỗi năm đến tháng 11 phái người khám thực làm danh sách tâu lên.

Khâm sai cai cơ Hữu quân là Lê Văn Phước chết ; tặng Chưởng cơ.

Miễn binh dao và thuế thân cho con Cai đội Nguyễn Văn Sĩ. Trước kia trong chiến dịch Bình Định, Văn Sĩ thường ra vào trong thành thăm dò tình hình giặc. Vua nghĩ thương nên tha cho con.

Lấy Mai Văn Định làm Vệ úy vệ Ban trực hậu, Nguyễn Văn Loan làm Phó vệ úy.

Triệu tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành, Hình bộ Phạm Như Đăng và án trấn Quy Nhơn Nguyễn Huỳnh Đức về Kinh chiêm cận. Sai Phó tướng Trương Tấn Bửu quyền lãnh công việc Bắc Thành, thự Tham tri Hình bộ Trịnh Hiến quyền giữ Hình tào, Hữu quân phó tướng Nguyễn Văn Hiếu quyền làm công việc Bình Định.

Sách Nhất thống dư địa chí làm xong. Trước là vua sai Thượng thư Binh bộ Lê Quang Định kê cứu sách vở bản đồ cả nước, các thành dinh trấn đạo từ Kinh sư vào Nam đến Hà Tiên, ra Bắc đến Lạng Sơn. (Quảng Đức, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Bình Hòa, Bình Thuận, Gia Định trấn, Phiên Trấn, Trấn Biên, Trấn Định, Vĩnh Trấn, Hà Tiên, Quảng Trị, Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hoa, Thanh Bình, Bắc Thành, Sơn Nam thượng, Sơn Nam hạ, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Yên Quảng, Thái Nguyên, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Cao Bằng), phàm sông núi hiểm hay dễ, đường đi xa hay gần, giới hạn bờ cõi thế nào, sông biển nguồn lạch, cho đến cầu cống chợ điếm, phong tục thổ sản, hết thảy ghi chép lấy, soạn làm 10 quyển. Sách làm xong, Quang Định trình biểu để dâng.

Tháng 12, ngày mồng 1, vua ngự điện Thái Hòa. Lễ bộ dẫn Khâm thiên giám đem lịch vạn toàn năm Đinh mão tiến lên để ban cho trong ngoài. Trước kia lấy ngày phong ấn để ban lịch. Năm Giáp tý đổi dùng ngày hôm sau. Đến nay chuẩn định ngày mồng 1 tháng 12, làm lệ mãi mãi.

Dựng đền Dục Đức (thờ Thái bảo Miên quốc công và quốc thái phu nhân Phùng thị), đền Tống công (thờ Thái bảo Khuông quốc công và quốc phu nhân Lê thị). Sai bọn Công bộ Trần Văn Thái, Tham tri Nguyễn Khắc Thiệu và Nguyễn Đức Huyên trông coi công việc.

Đặt các vệ đội bảo và sai. Bảo thì có Trung bảo, Tiền bảo, Hậu bảo, Tả bảo, Hữu bảo, Võ bảo, Chấn bảo, cộng bảy bảo ; mỗi bảo chia làm 2 vệ, mỗi vệ đặt  chánh vệ úy, phó vệ úy, cai án đều có một người ; mỗi vệ có 10 đội, mỗi đội đặt một cai đội. Sai thì có Trung sai, Tiền sai, Hậu sai, Tả sai, Hữu sai, Võ sai, Chấn sai, cộng bảy sai ; mỗi sai có 5 đội, mỗi đội đặt một cai đội. Sai lệ thuộc vào bảo. Lấy Phó tướng Trung quân là Nguyễn Văn Vân quản các vệ đội Trung bảo Trung sai, Phó tướng Tiền quân là Nguyễn Đình Đắc quản các vệ đội Tiền bảo Tiền sai, Chưởng Hậu quân Lê Chất quản các vệ đội Hậu bảo Hậu sai, Chưởng Tả quân Lê Văn Duyệt quản các vệ đội Tả bảo Tả sai, Chưởng Hữu quân Nguyễn Huỳnh Đức quản các vệ đội Hữu bảo Hữu sai, Chưởng Thần võ quân Phạm Văn Nhơn quản các vệ đội Võ bảo Võ sai, Chưởng Chấn võ quân Nguyễn Văn Nhơn quản các vệ đội Chấn bảo Chấn sai. Từ Chánh phó vệ úy trở xuống thì lấy bọn Trần Văn Đào, Bùi Văn Điền, Đào Quang Lý, Nguyễn Văn Nghiêm, Phạm Danh Văn, Nguyễn Văn Khuyến, Nguyễn Văn Đoạt, Dương Văn Mai, Phan Văn Quý, Nguyễn Văn Tam, Nguyễn Văn Thập, Nguyễn Văn Hưng, hơn 160 người để bổ vào.

Định cấm điều đối với những binh lính giả bệnh.

Phàm kỳ hạn đến ban, ai ốm không thể đi được thì báo quan sở tại xét thực phê bằng mới được ở lại quê quán để điều dưỡng. Nếu giả bệnh mà xin gian thì đánh 100 roi, đầy đi phục dịch một năm, bắt xã dân điền cấp cho đủ ngạch.

Cai cơ Lê Văn Uy chiêu nạp bọn du côn đi cướp bóc thuyền buôn. Thành thần Gia Định nghị xử tội chết. án tâu lên. Vua nghĩ Uy là con Lê Văn Quân không nỡ giết, đổi làm án đánh 100 roi, đồ 5 năm.

Ngày Canh dần, vua yết lăng Hoàng khảo.

Ngày Tân mão, làm lễ tế Chạp.

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển XXXI – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Đinh mão, Gia Long năm 6 [1807] (Thanh Gia Khánh năm 1), ngày Canh tuất, tháng giêng, mùa xuân, tế Xuân hưởng. Sắc rằng : “Từ nay tế hưởng ở Thái miếu, các hoàng tử hoàng tôn ai nấy theo thứ tự sung làm nhiếp tế và bồi tự (1. Nhiếp tế : Thay vua mà tế. Bồi tự : cũng như bồi tế, đứng địa vị phụ mà làm lễ.).

Bắt đầu bói ngày để tế Giao (2. Tế Trời Đất ở Nam giao.   ). Trước kỳ, Khâm thiên giám chọn ba ngày tốt trong tháng 2 tâu lên. Trung tuần tháng giêng sai quan bói. (Dùng tiền keo bằng bạc, đem những ngày đã chọn ra để bói. Một đồng sấp một đồng ngửa là tốt. Nếu bói ngày đầu không được, lại bói ngày thứ hai, nếu lại không được thì dùng ngày thứ ba).

Trước tế Giao ba ngày và ngày chính, cấm xét việc hình và cấm sát sinh ở chợ búa, làm lệ mãi mãi.

Ngày ất mão xuất quân. Sai Chưởng Thần sách quân Phạm Văn Nhơn xuất bộ binh, Thị trung đô thống chế Nguyễn Văn Khiêm xuất thủy binh, chưởng Tượng quân Nguyễn Đức Xuyên xuất binh tượng mã [voi ngựa]. Trước kia xuất quân đầu năm, vua thân ra hiệu lệnh, tới nay mới sai quan lãnh cờ mao tiết để thi hành. (Trước kỳ đặt nghi tiết thường triều ở điện Cần Chánh, ban cho mỗi quan khâm mạng một cờ mao tiết. Đến ngày, quan khâm mạng mặc nhung phục, trước xuất bộ binh. Đánh ba hồi trống. Bộ binh đánh thanh la mở cờ. Đội Trung hầu theo lệ bắn đại bác, các quân bắn súng tay. Trống đánh ba tiếng. Các quân tiến bảy bước, hoan hô ba tiếng, rồi đánh chuông thu quân. Thứ xuất thủy binh và binh tượng mã. Đánh ba hồi trống. Trung hầu bắn đại bác. Trống đánh ba tiếng. Đội Tiểu hầu cử nhạc. Thủy binh mở thuyền múa chèo. Binh tượng mã mở cờ tiến đi. Khua chuông thu quân. Vua ngự ở điện Càn Nguyên, trăm quan lạy mừng. Quan khâm mạng phục mạng [trả mạng lại], nộp cờ mao tiết).

Người nước Xiêm là bọn Hoàng Bảo Hưng và Ma Liệt sang nước Thanh nộp cống, thuyền gặp bão phải đậu vào hải phận Bình Định. Họ xin đến Kinh chiêm cận. Vua y cho rồi cấp cho 7.000 quan tiền và 1.000 phương gạo. Lại sai trấn thần sửa chữa giúp thuyền, rồi cho về. Người Xiêm sau đem 3.000 đồng bạc Xiêm để tạ, lại xin kỳ nam và nhục quế. Vua sai nhân có sứ đến gửi cho.

Gọi quân Thần sách ở Thanh Nghệ, Ngữ quân và Tượng quân ở Bắc Thành 4.000 người về Kinh.

Vua nghĩ tới quan và binh đi đánh ác man ở Quảng Ngãi đóng giữ luôn năm, xông pha lam chướng, bèn sai cấp thuốc chữa người đau ốm ; sau lại sai Lê Văn Duyệt cầm quân đi đánh.

Lương Mang [Mường Luổng] (1. Mường Luổng : Tức Luang Prabang.) sai sứ đến cống. Sứ đến Nghệ An, trấn thần dịch thư dâng lên. Vua cho rằng Lương Mang ở xa mà đến thần phục, thực dối chưa rõ, sai trả lại đồ cống, cho hậu rồi bảo về.

Nguyễn Văn Thành dâng sớ điều trần bốn việc: Xin đặt kinh diên, mỗi tháng cứ các ngày 2, 12, 22 thì giảng quan đến giảng sách ; các quan văn võ từ hàng tam phẩm trở lên đều được nghe giảng.; Định luật mới, khiến quan lại có chỗ tuân theo, quân dân biết [điều phải] mà theo [điều trái] mà tránh.; Đặt sử quan để làm quốc sử.; Đặt Ngự sử đài để nghiêm phép triều đình. Vua khen phải và nhận. Bàn phép khoa cử. Sai Lễ bộ tham khảo điển cố, bàn định điều lệ quy thức tâu lên.

Tướng giặc ở Quảng Nam là Lê Đình Ân trước nổi tiếng về địa lý, lừa dối dân ngu, mưu việc khởi ngụy. [Vua] sai Vệ úy vệ Ban trực là Vương Văn Học cùng Lưu thủ là Tôn Thất Huyên chia quân đi dẹp bắt, bắt được Đình Ân và bè đảng rất nhiều. Sai giết Đình Ân và mười người đồng mưu, còn những người bị ép theo đều tha hết.

Trong kinh kỳ không mưa. Sai đảo vũ ở đền Thai Dương. Mưa rất to.

Lập hai sở lò gạch ngói, lấy 300 người dân Quảng Bình và 600 người dân Quảng Nam làm việc, hằng tháng cấp cho tiền gạo.

Lấy Ký lục Phú Yên là Võ Đức Thông làm Hữu tham tri Hình bộ, Cai bạ Bình Định là Trần Quang Tĩnh làm Hiệp trấn Sơn Nam hạ, Tham hiệp Lạng Sơn là Lê Minh Huy làm Hiệp trấn Kinh Bắc.

Lấy Phó vệ úy vệ Tề võ là Mai Văn Thành làm Phó vệ úy vệ Nội trực, Khâm sai cai cơ là Nguyễn Văn Phấn làm Thủ ngự cửa biển Tư Dung.

Quảng Trị gạo đắt. Sai phát 10.000 hộc thóc kho giảm giá bán cho dân (một hộc thóc trị giá 1 quan 8 tiền, bớt 5 tiền).

Định năm bực công thần Vọng Các chết trận và chết bệnh (Hàng võ. Bậc nhất : bọn Ngoại tả chưởng dinh Châu Văn Tiếp, Tiền quân Tôn Thất Hội, Thuộc nội cai cơ quản thuyền nội thủy Trung thủy thuyền Võ Di Nguy, Trung dinh đô thống chế Tống Viết Phước, Hậu quân đô thống chế Mai Đức Nghị, quản Tiểu sai đội Đỗ Văn Hựu, 6 người ; bậc nhì : bọn

quản Tiền trực vệ Nguyễn Văn Mẫn, Giám thành xứ Tô Văn Đoài, Chưởng cơ Huỳnh Tấn Cảnh, quản Tiểu sai đội Bùi Khoan, Tống Phước Ngọc, Chưởng cơ Đoàn Văn Khoa, Thuộc nội cai cơ Nguyễn Văn Liêm, Phó tướng chưởng cơ Nguyễn Văn Lợi, quản Tiểu sai đội Trương Phước Luật, Cai cơ quản Tiền chi Ngô Công Quý, Cai cơ lưu thủ Nguyễn Thoan, Chưởng cơ Nguyễn Văn Vân, Thống nhung cai cơ Nguyễn Văn Dực, Lưu thủ cai cơ Trương Văn Giao, án trấn Diên Khánh Nguyễn Văn Tánh, Tả thủy cai cơ Nguyễn Hữu Nghị, Thống binh chưởng cơ Nguyễn Công Thành, quản Tuyển phong tả vệ Lê Thành Lý, Cai cơ suất Tả bính đội Nguyễn Văn Định, Hậu dinh phó đô thống chế Tống Phước Đạm, Hậu thủy cai cơ Nguyễn Văn Nhàn, Chưởng cơ quản Tiền chi Nguyễn Văn Đắc, Trung thủy cai cơ Nguyễn Văn Uy, Thống binh chưởng cơ Phan Viện, Thượng đạo chưởng cơ Đặng Văn Lượng, Nguyễn Văn Thảo, Tiên phong cai cơ Võ Văn Chính, quản Tuần hải đô dinh Hà Hỷ Văn, Trung thủy dinh thống chế Tống Phước Châu, Chưởng cơ Hà Văn Lộc, Cai cơ Mai Tĩnh, 35 người ; bậc ba : bọn Tuyển phong hậu vệ Vệ úy Đoàn Cảnh Cư, Chưởng cơ Nguyễn Văn Phú, Tuyển phong tiền vệ Vệ úy Nguyễn Văn Hựu, Trung võ vệ Vệ úy Trần Văn Xung, Ban trực tả vệ Vệ úy Võ Văn Đổ, Uy võ vệ Vệ úy Huỳnh Phước Bảo, Thần võ vệ Vệ úy Nguyễn Văn Kỷ, Dương võ vệ Vệ úy Nguyễn Văn Trường, Tiền khuông chi Cai đội Đinh Văn Tam, Tuyển phong hậu vệ Vệ úy Đoàn Phước Tân, quản Nội trực vệ Lê Văn Tín, Thống binh cai cơ Dụ Kỷ, Dũng võ vệ Vệ úy Trương Văn Hoảng, Cai cơ lưu thủ Võ Tiến Đẩu, Tuyển phong hậu vệ Vệ úy Mãn, Dương võ vệ Phó vệ úy Nguyễn Vĩnh Hựu, Thanh Châu Cai cơ Đoàn Công Duệ, quản Túc trực bát đội cai cơ Lưu Văn Trung, Túc trực thất đội Cai đội Lưu Đức Hiến, Tiền quân Cai cơ Nguyễn Văn Trí, Ban trực tiền vệ thập đội Cai đội Mai Đức Duật, Nội dực Vệ úy Nguyễn Hiên, Tiền thủy dinh Cai cơ Nguyễn Văn Cẩm, Cai cơ Hồ Văn Trường, Dương võ vệ Cai cơ Lê Văn Thuật, Thuộc nội cai đội Nguyễn Văn Thạch, Túc trực cai đội Nguyễn Văn Sơn, Tuyển phong tả Phó vệ úy Lê Nhơn Sử, Tiền quân phó tướng Nguyễn Huệ, Cung võ vệ úy Huỳnh Văn Tứ, Ban trực hữu Phó vệ úy Nguyễn Văn Đăng, Cai cơ Nguyễn Loan, Vĩnh Trấn lưu thủ Nguyễn Đăng Chiêu, Cai cơ Nguyễn Lưu, Thanh Châu đạo Cai cơ Lê Thượng, Nguyễn Tần, Tả thủy dinh Hậu chi Cai cơ Nguyễn Văn Chất, Cai cơ Nguyễn Văn Chính, Thanh Châu đạo Cai cơ Nguyễn Văn Luật, 39 người ; bậc bốn : bọn cai đội Trần Văn Mỹ, Tiền quần cai cơ Nguyễn Quận, Cai đội Nguyễn Văn Thủy, Dương võ vệ Cai đội Đĩnh, Tả mã Cai đội Cẩm, Cai đội Huấn, Cai cơ Chính, Cai cơ Lộc, Kiên uy vệ Phó vệ úy Nguyễn Công Thành, Cai đội Huệ, Cai đội Võ Văn Tấn, Cai đội Nguyễn Văn Luận, Cai đội Hiên, Cai đội Nguyễn Văn Lưu, Cai đội Trần Văn Định, Cai đội Tống Văn Đồng, Thượng đạo Cai cơ Nguyễn Văn Tuy, Nội mã Cai đội Nguyễn Văn Ngân, Túc trực vệ nhị đội Cai đội Nguyễn Văn Hòa, Tả vệ Cai đội Nguyễn Khương, Ban trực tả vệ Cai đội Lê Văn Hậu, Thần sách thuộc nội Cai đội Nguyễn Văn Ân, thuộc binh Cai đội Phan Văn Hiến, Tiền thủy dinh chánh Tiền chi Cai cơ Nguyễn Văn Thái, Cai đội Trần Văn Nho, Thủ ngự Lê Văn Linh, Hậu điện Cai đội Nguyễn Đình Thạch, suất Hoàng Kiêm đội Tống Viết Khánh, Tả chấn chi Cai cơ Cao Đức Hùng, Cai đội Nguyễn Văn Bính, Tả mã thuyền Cai đội Tống Phước Giao, Nguyễn Văn Bộ, Cai cơ Nguyễn Văn Nguyện, Tiểu sai cai đội Nguyễn Lợi, Nội trực Cai đội Lễ, Tiểu sai Cai cơ Nguyễn Văn Siêu, Trường Thọ cung Cai đội Mỹ, Tuyển phong tiền vệ Cai cơ Mai Văn Đắc, Cai đội Nguyễn Văn Thụ, Cai đội Quỳnh, Tổng nhung cai đội Đẳng, Tả quân Cai cơ Nguyễn Văn Thanh, Cai cơ Lê Văn Minh, Tiền quân Cai cơ Nguyễn Lộc, Cai cơ Ngoạn, Cai đội Nguyễn Văn Đông, Tả quân cai đội Nguyễn Văn Thục, cai đội Nguyễn Văn Châu, cai đội Nguyễn Văn Lại, Huỳnh Văn Của, Lê Văn Chấp, Hà Văn Tài, Nguyễn Luật, Trung hầu tam thuyền Cai đội Cao Phước Luật, 53 người ; bậc năm : bọn Chánh tàu Cai cơ Võ Văn Khách, Hậu dinh đội trưởng Trần Mãn, Trung hầu nhị thuyền Cai đội Nguyễn Đồng, Nội trù Cai phủ Nguyễn Văn Hội và binh đinh 11 người. Hàng văn. bậc nhì : bọn Hộ bộ Trần Phước Giai, Lễ bộ Nguyễn Thái Nguyên, Lễ bộ Nguyễn Đô, Hộ bộ Phan Thiên Phước, 4 người ; bậc ba : “bọn Tham tri Nguyễn Văn Mỹ, Cai bạ Nguyễn Văn Thiêm, Ký lục Nguyễn Văn Hiến,

3 người ; bậc bốn : Tham mưu Hồ Xuân Quang, 1 người ; bậc năm : bọn Thái y viện Nguyễn Khắc Minh, Thuộc nội cai đội kiêm Thái y viện Nguyễn Thận, 2 người).

Cấp cho mộ phu theo thứ bậc khác nhau (Công thần bậc nhất : Người chết trận cấp mộ phu 16 người, chết bệnh ở trong quân cấp 13 người, chết bệnh ở nhà cấp 10 người. Công thần bậc nhì : Người chết trận cấp mộ phu 13 người, chết bệnh trong quân cấp 10 người, chết bệnh ở nhà cấp 7 người. Công thần bậc ba : Người chết trận cấp mộ phu 10 người, chết bệnh trong quân cấp 7 người, chết bệnh ở nhà cấp 4 người. Công thần bậc bốn :

Người chết trận cấp mộ phu 3 người, chết bệnh trong quân cấp 2 người, chết bệnh ở nhà cấp 1 người. Công thần bậc năm : Người chết trận cấp mộ phu 2 người, chết bệnh trong quân cấp 1 người, chết bệnh ở nhà miễn thuế thân và dao dịch cho một người con).

Về sau hễ có người dự công Vọng Các được tục tâu lên, thì chiếu theo đẳng cấp như thế mà cấp. Hạ lệnh từ nay những công thần Vọng Các, từ hàng Chưởng cơ trở xuống, khi viết quan hàm thì nêu lên đầu hai chữ Vọng Các. Có vợ góa con côi thì quan sở tại xét hỏi, hằng tháng cấp cho tiền gạo đủ dùng. Con đã hơi lớn thì ấm thụ cho nhàn chức (1. Chức quan thanh nhàn, không phải làm việc.) (như những hàm cai đội, đội trưởng, thủ hợp).

Tháng 2, sai Bắc Thành chọn hơn trăm người thợ các tượng cục cho đến Kinh làm việc.

Sai đóng thêm hơn trăm chiếc thuyền chiến sai. Vua từng nói với bọn Nguyễn Văn Nhơn và Nguyễn Đức Xuyên rằng : “Trong nước tuy đã yên ổn nhưng không thể quên được việc chiến tranh. Quân ta rất giỏi thủy chiến mà số thuyền ghe hiện không có mấy, nên đóng sẵn trước để phòng khi dùng đến”. Bèn sai Gia Định lấy gỗ nộp về Kinh, hạ lệnh cho các quân theo mẫu thức mà đóng.

Sai Võ Viết Bảo kiêm quản các đội Thị trà, Tả vệ, Hữu vệ, Hoàng kiếm, Loan nghi, Nội mã, Tả mã, Hữu mã, Tiểu hầu, Bả lệnh, Nguyễn Cửu An làm phó.

Xiêm La sai sứ sang cống phương vật và báo tang vua thứ ba. Sứ giả đến, cho hậu rồi bảo về. Vua dụ bầy tôi rằng : “Nước Xiêm đem việc tang vua thứ ba đến cáo, thật không có ý nghĩa gì. Xong nước ta với nước Xiêm tình nghĩa giao hiếu không nên dứt, nên bàn sai sứ sang viếng”. Bèn sai bọn Cai cơ Đỗ Phước Thịnh, Tham luận Trần Đán, Hàn lâm viện Huỳnh Văn Tri, Câu kê Ngô Văn Duyệt sung chánh phó sứ sang Xiêm. (Tặng Phật vương : 2 cân kỳ nam, 23 cân quế, 300 tấm the, 100 tấm lụa, vải nhỏ trắng và vải thâm mỗi thứ đều 50 tấm ; tặng vua thứ hai 200 tấm the, lụa và vải đều 50 tấm ; phúng vua thứ ba : 100 cân sáp ong, 1.000 cân đường cát, đường phổi và đường phèn đều 200 cân, vải vàng 100 tấm). Khi sứ trở về, người Xiêm gửi thư tạ ơn.

Vua thấy nước Xiêm cùng ta giữ hậu việc giao hảo, hành lý đi lại, đường sá thông nhau, bèn sai quan Lễ bộ bàn định trình thức của sứ bộ để gửi sang Xiêm. (Sứ ta sang Xiêm, đi đường thủy thì 50 người, đường bộ thì 12 người. Văn thư đi thì đưa qua nước Chân Lạp chuyển đạt. Sứ Xiêm thì đi đường biển đến Gia Định rồi vào Kinh ; đi đường thủy thì 50 người, đường bộ thì 14 người).

Cho Mạc Công Du làm Khâm sai cai đội, Mạc Công Tài làm Cai đội.

Hạ lệnh từ Nghệ An ra Bắc xã nào đinh tịch 140 người trở xuống thì đặt một xã trưởng, 150 người trở lên thì đặt thêm một thôn trưởng, dân số tăng đến 50 người nữa thì lại đặt thêm một thôn trưởng, do quan địa phương cấp bằng cho làm việc.

Định phép thi Hương và thi Hội. Chiếu rằng : “Nhà nước cầu nhân tài, tất do đường khoa mục. Tiên triều ta chế độ khoa cử đời nào cũng có cử hành. Từ khi Tây Sơn nổi loạn, phép cũ hủy bỏ, sĩ khí vì đó mà bế tắc. Nay thiên hạ cả định, Nam Bắc một nhà, cầu hiền chính là việc cần kíp. Đã từng xuống sắc bàn định phép thi : kỳ đệ nhất thi kinh nghĩa, kỳ đệ nhị thi chiếu, chế biểu ; kỳ đệ tam thi thơ, phú ; kỳ đệ tứ thi văn sách. Lấy tháng 10 năm nay mở khoa thi Hương, sang năm Mậu thìn mở khoa thi Hội. Bọn học trò các ngươi đều nên dùi mài việc học, để đáp lại cái ơn tôn chuộng nghề văn”. Sau vì thấy mới bắt đầu bình định, văn học còn ít, nên đình việc thi Hội.

Lấy Tham tri Hình bộ là Võ Đức Thông lãnh Hình tào Bắc Thành, Phan Tiến Thiện, Nguyễn Quang Huyên làm Thiêm sự Hộ bộ sung biện việc Hộ tào.

Truy tặng quản Tuần hải đô dinh Hà Kỷ Văn làm Thủy dinh thống chế, ấm thụ cho con là Chấn Dương làm cai phủ tàu, cho con là Văn Dưỡng chức hàm đội trưởng.

Khơi sông Phương Lang (tên xã) ở Quảng Trị. Sửa đường Hải Vân quan ở Quảng Đức. Dân phu làm việc đều được cấp lương hằng ngày.

Trần thần Nghệ An tâu rằng : “Dân biệt nạp gỗ lim kiếm nộp gỗ long hiệp cốt (1. Long hiệp cốt : Gỗ đóng sườn thuyền, ví như sương sườn của rồng.), nhiều cây không được đúng thức (lấy chiều dài 7 thước, lưng tròn 4, 5 thước làm mức), xin chiết thu bằng tiền để tiện cho dân. Vua y cho.

Định đại lễ Nam giao. (Tầng thứ nhất : Chính vị hướng về nam, nậm vàng, chén vàng tàn tròn, quần bàn màu xanh, tàn vuông, quần bàn màu vàng ; phối vị hướng về tây, nậm vàng, chén vàng tàn tròn màu vàng, quần bàn màu đỏ. Tầng thứ hai : Bày tàn tròn lớn màu vàng 4 cái ; tòng vị ở tả hữu hướng về đông và tây, nậm bạc, chén bạc, tàn, lọng, quần bàn đều màu đỏ. Tầng thứ ba : ở trước bày tàn tròn màu vàng hạng thứ 12 cái. Cả thảy ba tầng. Bốn cửa dựng cờ tứ sắc, bốn cửa của nền vuông thì dựng cờ tứ sắc hạng lớn, mỗi cửa hai lá, đều theo phương hướng của cửa mà dùng màu cờ. Tầng thứ hai, đông và tây mỗi bên đặt một bộ âm nhạc hạng nhỏ, mỗi bộ

8 người. Tầng thứ ba, đông và tây mỗi bên đặt một chuông lớn và một trống lớn. Người đánh chuông đánh trống thì dùng hai quản vệ Thị trung. Mé dưới chuông trống mỗi bên đặt một bộ đại nhạc trống kèn, mỗi bộ

7 người. Bắt đầu nổi chuông trống, rồi tấu nhạc nhỏ. Chỉ đến các tiết Phiền sài (1. Phiền sài : Khi tế Trời xong thì đốt những vật tế ở trên một đống củi kho, đốt ngọc lụa gọi là “phiền”, đốt thịt tế gọi là “sài”.), Thăng đàn (2. Lúc bắt đầu tế.), Giáng đàn(3. Lúc tế xong.)  Vọng liệu(4. Vọng liệu : Trông về chỗ đốt văn tế khi đã tế xong.   4) mới tấu đại nhạc).

Ngày Tân mão, tế Trời Đất ở đàn Nam giao. Rước Thái tổ Gia dụ hoàng đế(5. Nguyễn Hoàng.  ) lên phối hưởng. Ba ngày trước trai giới, đặt nghi thức đại triều ở điện Thái Hòa, hạ chiếu cho trăm quan thề trai giới. Trước 2 ngày, đem việc tế cáo yết ở Thái miếu. Trước một ngày sai quan thủ hộ Kinh thành. Vua ngự đến Trai cung, hữu ty đặt lỗ bộ pháp giá theo nghi thức. (Chánh phó sứ phù liễn mỗi chức một người ; từ Đô thành đến Trai cung đặt vệ tất lính giữ trật tự dọc đường ; đặt nhã nhạc nhưng không cử nhạc ; khi xa giá đến, trăm quan quỳ đón ở bên trái đường).

Đến ngày tế, vua đội mũ cửu long, mặc áo bào vàng, đai ngọc, xiêm vàng, lên đàn làm lễ. Các quan dự tế đều mặc triều phục (Thượng thư tước quận công giữ việc dâng rượu ở hai tòng vị tả hữu ; các quan tam phẩm trở lên bồi tế ở tầng thứ ba, tứ phẩm trở xuống ở nền vuông).

Làm lễ xong, vua trở về Trai cung, trăm quan làm lễ khánh thành, rồi vua hồi loan. (Khi ấy nhã nhạc nổi, trăm quan quỳ đưa ở bên đường). Cáo ở Thái miếu như lúc đầu.

Hạ lệnh cho nhân dân Bắc Thành mộ dân ngoại tịch làm lính. Ai mộ được 50 người thì cho chức đội trưởng, mộ được 100 người trở lên thì cho chức cai đội ; cấp cho lương tháng theo thứ bậc khác nhau.

Hạ lệnh từ nay binh lính và cục tượng về Kinh làm việc, khi hết hạn trở về đều được cấp lương ăn đường.

Dựng phủ đệ hoàng tử. Sai Thị trung vệ úy Huỳnh Công Lý và Nội trực vệ úy Trương Phước Phượng trông coi công việc.

Thao diễn trận voi. Vua ra Thủy các để xem.

Tha thuế thân và dao dịch cho Lưu Văn Nghĩa người Bình Định. Bình Định có giặc trốn là Tiêm, trốn tránh đã lâu, Văn Nghĩa thám báo cho Cai đội Phan Văn Biền bắt nộp. Việc tâu lên. Thưởng cho Văn Biền 100 quan tiền, mà miễn thuế thân và dao dịch cho Văn Nghĩa. Lại có người Bình Định là bọn Nguyễn Văn Phẩm, Lê Văn Tín cũng báo bắt được giặc, quan địa phương tâu lên, đều được tha thuế thân và dao dịch.

Thuyền của biền binh cơ Trung tiệp Nghệ An chở quan hạng đến Quảng Bình, gặp bão phải đậu ở cửa biển Nhật Lệ, sai đội công xa Quảng Bình, Quảng Trị chở theo đường bộ về Kinh.

Cho Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành, Hình bộ Phạm Như Đăng và án trấn Quy Nhơn Nguyễn Huỳnh Đức về lỵ sở nhận việc.

Người Thuận Thành là Khoa Nộn tụ họp dân man hoang hơn 300 người đến cướp bảo Thị Linh. Trưởng bảo là Phan Vân đánh chém được Khoa Nộn, đồ đảng còn lại đều trốn hết.

Tháng 3, hạ lệnh cho các thành và dinh trấn xem xét tình hình động tĩnh của trộm cướp ở địa phương mình hằng năm cứ bốn quý làm sách tâu lên.

Dời phần mộ của Kiến Miên quốc công phu nhân là Phùng thị về Dương Xuân. Phu nhân là mẹ Hoàng thái hậu, chết ở Gia Định, tới nay đưa quan tài về.  Ngày táng, vua thân hành đưa đám. Nghỉ chầu 3 ngày.

Bảy sách man ở Cam Lộ vào cống. Lễ bộ tâu xin cho thổ tù làm sách trưởng các sách để thống nhiếp nhau, giữ việc tuế cống lâu dài. Vua nghe theo. Cho tên Ca làm chánh sai trưởng Mường Vang, tên Lung làm sai trưởng Cha Bôn, tên Thìn làm sai trưởng Làng Thìn, Xú La Dã làm sai trưởng Trầm Bồn, Phi Huân làm sai trưởng Thượng Kế, tên Kha làm sai trưởng Xương Cụm. ấp Ma Hạt làm sai trưởng Phá Băng (Cha Bôn, Trầm Bồn, Xương Cụm, Phá Băng, đến năm Minh Mệnh thứ 3 đổi làm Na Bôn, Tầm Bồn, Xương Thịnh, Tá Bang).

Sai năm nội trấn của Bắc Thành và phủ Hoài Đức làm lại sổ hộ tịch. Chiếu rằng :”Số hộ khẩu lấy sổ sách làm căn cứ. Cho nên việc sửa nước trị dân trước hết phải định rõ hộ chính. Tiên triều ta đặt chế độ, dựng pháp luật, đã có quy tắc sẵn, kẻ tới tuổi thì vào sổ, kẻ già yếu thì thải ra, là để phân biệt chỗ đông chỗ thưa, mà chia đều phú dịch, đời đời noi theo, đã hơn 200 năm. Nay dư đồ thống nhất, Nam Bắc một nhà, từ Quảng Bình trở về Nam đều đã cử hành phép cũ, mà Bắc Hà trở ra thì vẫn còn theo sổ thường hành cũ, sống chẳng kể chết chẳng trừ, gắn chặt nhất định, thành thử nơi nhẹ cứ nhẹ mãi, nơi nặng cứ nặng mãi, dân ngày càng xiêu tán, chính là do đấy. Nếu không sửa đổi tệ ấy thì chẳng những trong nước có chính sách khác nhau, mà nỗi đau khổ của dân cũng không lấy gì chữa được. Vậy đặc biệt xuống chiếu cho xã dân các trấn phủ huyện các ngươi đều phải chiếu từ chức sắc đến quân dân, cho chí những dân gia cư và ngụ cư, hết thảy đều ghi vào sổ. Phàm đinh khẩu từ 18 tuổi trở lên đến 59 tuổi trở xuống thì liệt làm các hạng thực nạp (1. Thực nạp : Hạng dân nộp đủ phú dịch.), và ngoại tiêu sai (2. Ngoại tiêu sai : Hạng dân được miễn sai dịch, xem là ở ngoài.), xã trưởng thôn trưởng đều lấy đinh số tăng hay giảm mà định thưởng phạt. (Hạng tráng, hạng dân đinh, hạng biệt tính là thực nạp, chức sắc, quan viên tử, binh lính, phu trạm là ngoại tiêu sai. Sổ khai của xã trưởng so với sổ cũ, cứ đinh số tăng được 10 người thì thưởng cho một suất khinh phu, người khinh phu được miễn binh dịch dao dịch ; tăng 30 người thì thưởng cho bằng son xã trưởng ; tăng 50 người thì thưởng cho bằng son tướng thần ; cứ tăng

50 người thì lại thưởng thêm một chức, như phó tổng, cai tổng, ký thuộc, cai thuộc, ký huyện, cai huyện, gặp khuyết thì bổ. Xã nào có thôn trưởng mà chỉ tăng có 10 người thì thôn trưởng không được dự thưởng ; tăng 20 người thì thưởng 2 suất khinh phu, thôn trưởng và xã trưởng mỗi người được một, lại thưởng cho bằng son thôn trưởng ; ngoài ra nếu tăng được 30 người, thì thưởng cho 3 khinh phu, xã trưởng được 2, thôn trưởng được 1 ; tăng 40 người thì thưởng 4 khinh phu, xã trưởng và thôn trưởng đều được 2 người. [Thôn trưởng] thì chỉ được chiếu số thưởng phu mà không được cùng với xã trưởng tăng chức từng bậc. Nếu đã được ân thưởng rồi, mà sau số đinh lại giảm đi thì chiếu theo số giảm ấy mà bớt phu giáng chức. Duy xã trưởng và tướng thần là đều lui về tiện nghi làm xã trưởng thôn trưởng. Thôn trưởng lui về tiện nghi thì không ở trong lệ giáng chức).

Định rõ điều cấm về lậu đinh. (Lậu 1 người đinh có gia sản, thì xã trưởng bị 60 trượng, thu tiền 30 quan để thưởng cho kẻ tố giác ; lậu 2, 3 đinh, xã trưởng bị 60 trượng và đồ 1 năm, kẻ tố giác được miễn thuế dung thuế điệu 2 năm, nếu nhiều người cùng cáo giác thì chỉ thưởng cho một người đầu đơn ; lậu từ 4, 5 đinh, 6, 7 đinh, 8, 9 đinh, 10 đinh đến 14 đinh, xã trưởng đều bị xử gia bậc tội trượng và đồ, kẻ tố giác cũng được gia bậc lãnh thưởng ; lậu từ 15 đinh đến 24 đinh, xã trưởng bị tội lưu, người tố giác được miễn thuế dung thuế điệu 12 năm ; lậu từ 25 đinh trở lên, xã trưởng và vợ con đều phải tội lưu, duy con trai đã có vợ con gái đã có chồng thì được miễn, người tố giác được miễn phú dịch trọn đời. Lậu 1 người đinh không gia sản, xã trưởng bị 10 roi, thêm mỗi đinh xử thêm một bậc, đến

5 đinh thì mãn tội xuy [roi] ; lậu 6 đinh, xã trưởng bị 60 trượng, thêm mỗi đinh xử thêm một bực, đến 10 đinh thì mãn tội trượng, lại cứ mỗi đinh thì trách thu 5 quan tiền để thưởng cho người tố giác ; lậu từ 11 đinh đến

14 đinh, xã trưởng cũng chỉ tội mãn trượng, người tố giác cũng chỉ được thưởng 50 quan tiền ; lậu từ 15 đến 19 đinh, 20 đinh đến 24 đinh, 25 đinh đến 29 đinh, 30 đinh đến 34 đinh, 35 đến 44 đinh, coi cũng như lệ đinh có gia sản 2, 3 đinh, 4, 5 đinh, 6, 7 đinh, 8, 9 đinh, 10, 14 đinh ; lậu từ 45 đinh đến 59 cùng 60 đinh trở lên thì xem như lệ đinh có gia sản từ 15 đinh đến 24 đinh cùng 25 đinh. Người đinh lậu có gia sản thì bị 60 trượng, không gia sản thì bị 30 roi, đều phải ghi vào sổ chịu sai dịch. Xã trưởng ăn hối lộ tang đến 300 quan thì xử tử và truy tang trả lại dân. Xã nào có thôn trưởng thì đều bị xử kém tội lý trưởng ba bậc. Kẻ tố giác báo bắt lậu đinh không đủ số thì không thưởng ; nếu cáo hết thảy không đúng thực thì bị phản tọa.

Định lệ phát phối những tù tội đồ tội lưu. (Phàm người bị tội đồ tội lưu, đều phải đóng xiềng khóa chân. Tội lưu lại thêm cái bài sắt khắc tên họ và tội danh. Tù tội đồ làm việc mỗi tháng cấp lương 1 phương gạo, hằng năm cấp một bộ quần áo vải ; mãn hạn thì về làng chịu sai dịch. Tù tội lưu đi tới chỗ bị đầy, quan địa phương cấp cho ruộng đất hoang và thóc giống, trâu bò, cùng đồ làm ruộng khiến cày cấy ở đó ; số thóc giống hạn một năm thời thu lại ; trâu cày và đồ làm ruộng cứ ba năm chiếu giá thu tiền ; hằng tháng cấp gạo lương, hằng năm cấp quần áo, cũng theo như lệ tù tội đồ ; trong một năm không phạm tội gì khác thì tha xiềng chân ; ba năm thành sản nghiệp thì bỏ cả bài sắt. Như vợ con tình nguyện theo đi và vợ con cùng bị lưu, thì tới chỗ đầy được bỏ ngay xiềng xích, chỉ để cái bài sắt, vợ con bị lưu thì không phải mang xiềng xích và bài sắt ; cấp gạo lương và quần áo, cho bản thân người phạm tội thì hạn hai năm, cho vợ con thì hạn một năm ; người tội lưu chung thân không được về làng, duy người tình nguyện đi theo thì cho được đi lại).

Lấy Đoàn Đức Luận làm Quản cơ cơ Trung kích.

Sai thủy quân diễn tập thuyền hải đạo ở sông Hương. Vua ra xem.

Hạ lệnh từ Nghệ An ra Bắc, các thứ tiền thuế thân, tiền đầu quân, tiền thập vật, tiền thuế thủy lợi, nếu dân xin nộp thay bằng bạc thì cho, cứ 28 quan tiền ăn 10 lạng bạc. Không đủ số quan tiền thì nộp tiền cho đủ ngạch.

Định lệ báo cướp cho các địa phương. Dụ rằng : “Quan tư ở địa phương là người được gửi tính mạng của nhân dân và là tai mắt của triều đình. Trong khi dân gian yên lặng, hoặc có nổi trộm cướp khiến dân không được ở yên, thì phải đem việc tâu lên, há lại che giấu ? Vậy đặc biệt hạ lệnh từ nay trở đi, nơi nào xảy ra việc cướp bóc tài sản hay sát thương tính mạng thì xã trưởng lập tức báo phủ huyện, phủ huyện chuyển báo quan trên để đề đạt lên ngay. Nếu không xảy ra việc gì thì phủ huyện cũng phải mỗi tháng báo lên một lần, để rõ sự động tĩnh. Nếu ẩn giấu việc cướp không báo thì chiếu theo nặng nhẹ mà định tội. (Đám cướp chỉ có 5 đứa hoặc 10 đứa, tang vật nhẹ, thì lý trưởng bị 50 roi, phủ huyện và thượng ty bị phạt ; đám cướp có 20, 30 đứa trở lên, tang vật nặng, thì lý trưởng bị 70 trượng, phủ huyện và thượng ty xử biếm giáng ; đám cướp đến 40, 50 đứa trở lên thì xã trưởng bị 100 trượng, phủ huyện và thượng ty xử bãi chức. Nếu có tình trạng nặng mưu làm loạn mà ẩn giấu không báo thì lý trưởng bị tội đồ, quan địa phương bị tội lưu).

Tha thuế gạo nếp cho dân man nộp cống ở đạo Cam Lộ. (Hai man Cha Bôn, Thượng Kế, thuế 20 sọt, ba man Phá Băng, Xương Cụm, Trầm Bồn, thuế 10 sọt, mỗi sọt 30 thăng).

Sai các trấn Bắc Thành ghi sổ lính mộ ở các đồn bảo sở tại và thưởng cho quản suất phẩm trật và lương tiền theo thứ bực khác nhau. (Binh 30 người đến 45 người, thưởng quyền sai cai đội, mỗi tháng cấp lương 1 quan 5 tiền, gạo 1 phương 15 bát ; từ 46 đến 50 người, thưởng chức cai đội bằng son, mỗi tháng cấp tiền lương 2 quan, gạo 2 phương ; 150 người, thưởng chức cai đội sắc son, mỗi tháng cấp tiền lương 2 quan 5 tiền, gạo 2 phương 15 bát).

Giặc biển tỉnh Mân nước Thanh là Thái Khiên và Châu Phần bị quan quân nước Thanh đuổi bắt, chạy trốn ra ngoài biển, Tổng đốc Lưỡng Quảng gửi thư cho Bắc Thành nói thuyền giặc đều mũi xanh cột buồm đỏ, nếu có chạy đến hải phận ta thì đón bắt cho. Thành thần đem việc tâu lên. Vua hạ lệnh cho các quan địa phương duyên hải từ Quảng Đức trở ra Bắc đều phát binh thuyền đi tuần xét.

Định lại thuế ván gỗ cho năm hiệu Mộc đĩnh ở Gia Định. Hiệu dân hơn 540 người, theo lệ mỗi năm phải nộp đủ ván đóng 5 chiếc thuyền hải đạo. Gần đây vì dân nhiều người trốn và chết, tạp dịch lại nhiều, thành thần đem tình hình tâu lên, bèn hạ lệnh giảm cho 2 thuyền, làm lệ mãi mãi.

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển XXXII – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Đinh mão, Gia Long năm 6 [1807], mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, tế hạ hưởng.

Tha thuế ruộng năm nay cho huyện Tống Sơn.

Sửa lại Kinh thành. Lại gọi 3.000 người quân Thần sách ở Thanh Hoa, Nghệ An và 5.500 người của Ngũ quân và Tượng quân ở Bắc Thành về Kinh làm việc. Đến nơi cho ăn một bữa, rồi hậu cấp thêm cho tiền gạo. Lại lấy quân Quảng Đức đi bồi đắp đường sá, thưởng cho 1.000 quan tiền.

Thuộc hạ của Nguyễn Văn Trương là Huỳnh Văn Nghiêm làm giả thư của Văn Trương gởi cho Nguyễn Văn Nhơn nói xấu Trịnh Hoài Đức. Văn Nhơn bắt được thư đem tâu. Vua hạ lệnh cho Văn Trương về tâu. Nghiêm sợ trốn đi. Văn Trương đem việc trình tạ và nói: “Thần cùng Hoài Đức không có nghi kỵ gì nhau”. Vua xem tờ tâu rồi bỏ đi.

Quảng Ngãi bị hạn. Có chiếu dụ Lê Văn Duyệt: “Binh khí không phải là đồ hay, mà chiến tranh là việc nguy vậy. Vừa rồi vì bọn ác man quấy rối nên phải dùng binh. Nay nắng hè nồng nực, lam chướng đương nhiều, nếu tiến đánh gấp thì tướng sĩ trèo non vượt hiểm dễ sinh tật bệnh. Ngươi nên tùy cơ chiêu dụ, để dân cư được yên, đó là thượng sách dẹp giặc. Nếu bất đắc dĩ mà phải đánh, thì cũng đem tình hình tâu trước”.

Văn Duyệt liền dâng sớ nói: “Thần từ khi vâng mệnh tới nay, ngày đêm lo sợ. Nhờ được uy đức của Triều đình, nên khi quân đến Đồng Dương (tên đất) thì tù trưởng Man ra quy phục. [Thần] lại sai chúng chiêu dụ bọn Man hoang cho đều yên nghiệp làm ăn, nay đã được yên, không còn lo nữa”. Sớ vào, thưởng cho quân sĩ tại hành 2.000 quan, cho tù trưởng 300 quan.

Sai Lễ bộ Đặng Đức Siêu kiêm quản việc Khâm thiên giám.

Dụ rằng: “Việc suy lường độ số của trời cần phải biết trước, nếu để hiện tượng đã xảy rồi mới biết, thì chẳng là thiếu trách nhiệm ư?”. Trước kia, mỗi khi gặp nhật thực nguyệt thực, người Thanh gửi công điệp sang, bấy giờ Khâm thiên giám mới tâu báo, nên phải răn bảo như thế.

ở Thanh Hoa giặc nổi. Trấn thần đem quân đánh bắt được. Việc tâu lên. Hạ lệnh cho giết tên đầu đảng, thưởng cho biền binh 100 quan tiền. Bọn Lê Văn Trạch ba người vì có công dò bắt được giặc, cho làm cai đội, đội trưởng và cai hợp.

Tướng giặc ở Sơn Tây là tên La tụ đảng cướp bóc vùng Sơn Tây và

Kinh Bắc. Người Kinh Bắc là bọn Nguyễn Đức Chiêu, Nguyễn Đình Sâm, Nguyễn Đình Thắng lập mưu dụ tên La đến nhà, rồi sai người đi mật báo

ở trấn. Trấn thần ủy Chánh thống Tiền đồn là Nguyễn Văn Hưng và Phó thống Nguyễn Xuân đem quân vây bắt, chém được tên La, bắt được đồ đảng hơn 20 người, thu được súng ống khí giới rất nhiều. Quan Bắc Thành đem việc tâu lên. Thưởng cho biền binh 200 quan tiền, cho Đức Chiêu làm cai đội, bọn Đình Sâm làm đội trưởng và cho mũ áo.

Lấy đá tảng và đá lát ở Quảng Nam. Dân và thợ làm việc được phát tiền gạo.

Vệ úy Thị trung là Huỳnh Văn Tòng tham nhũng, bị binh lính kiện, phải cách chức, đòi tang vật trả lại quân lính.

Lấy Hiệp trấn Thanh Hoa là Nguyễn Tăng Địch làm Ký lục Bình Định, tham quân Tượng quân là Nguyễn Văn Thục làm Ký lục Phú Yên, Hiệp thủ Cam Lộ là Nguyễn Đình Do làm Cai bạ Bình Thuận.

Hạ chiếu cho Bình Thuận thuộc về trấn Gia Định, Bình Hòa thuộc về trấn Quy Nhơn. Trước hai dinh ấy đều thuộc về Gia Định. Kịp khi đặt án trấn thành Diên Khánh thì cho hai dinh lệ theo. Đến nay bãi án trấn Diên Khánh mới chia hai dinh thuộc về Gia Định và Quy Nhơn, cho lưu trấn [Gia Định] và án trấn [Quy Nhơn] ở xa lãnh. Phàm công việc binh dân, từ tụng, tô thuế của hai dinh đều do công đường quan của dinh tự xét làm, duy công việc quan trọng mới chuyển báo cho lưu trấn và án trấn quyết định. Nếu có sơn man xuẩn động hay trộm cướp nổi lên thì đều phải tùy cơ phòng ngự và báo cho lưu trấn, án trấn điều độ.

Quản Đồ gia là Huỳnh Văn Cẩn và Cáp Văn Hiến tâu xin cho bọn tượng cục là Huỳnh Văn Lịch hơn 300 người làm chánh cai quản, chánh tư quản, cai quan, tư quan, thủ hợp. Vua y cho.

ở Nghệ An giặc nổi. Đường thông thương bị nghẽn. Trấn thần chia binh đánh dẹp không được. Việc tâu lên. Vua thấy đất Diễn Châu, Anh Đô nhiều rừng rậm, là nơi giặc cướp ẩn  hiện, sai thêm quân để chặn bắt.

Biên vệ Võ chấn trấn Lạng Sơn (lính 100 người) làm hai đội Võ chấn.

Quan Bắc Thành tâu nói: “Ruộng đất của dân xiêu dạt ở các trấn trước đã định cấm điều; gần đây nghe thấy các nha và những ấp chung quanh còn có kẻ chiếm canh, che giấu lẫn cho nhau, khiến dân xiêu dạt sinh lòng ngờ sợ, nhiều người chưa dám trở về. Xin sai người giao cho cùng với sở tại tra xét ruộng hiện canh để đánh thuế, rồi y lệ định mà xử trí”. Vua y cho.

Tha thuế gỗ năm nay cho đội Lâm công [thợ rừng] ở Quảng Trị.

Quan Bắc Thành tâu nói: “ở Bắc Hà từ sau loạn lạc kẻ đi học tự học lấy ở nhà, hết thảy đều tập theo lề lối đời Lê cũ. Gần đây đã ban bố học quy, nhưng học tập ngày một kém. Nếu nhất luật theo đó mà lấy thì sợ kẻ thực học cùng người sơ học không lấy gì mà phân biệt nhau. Xin châm chước văn thể cũ của nhà Lê, đừng quá câu nệ so đo, thì ngõ hầu những người vốn chăm nghiệp học mới được phấn tấn, mà những kẻ vô tài không thể cầu may”.

Chiếu trả lời rằng: “Mở khoa thi lấy học trò là chính sách lớn của triều đình. Sửa định văn thể cần có thể thức sẵn. Năm trước ban bố học quy, việc đã nhất định. Gần đây học quan đôn đốc, học trò giảng tập, không phải không lâu rồi, gián hoặc có kẻ tập mà không suy xét, đó là tại người dạy và người học bất lực mà thôi. Nay nếu cứ uốn theo lời người nói thì chính thể còn ra thế nào? Vậy hạ lệnh cho các học quan lưu ý dạy bảo cho kịp kỳ thi”.

Chế biển các cửa Cung thành và Hoàng thành.

Định lệ canh giữ Hoàng thành. (Bốn lầu ở trước sau tả hữu thành, mỗi lầu một cai đội, một phó đội và 50 người lính Thị trung cùng 10 người lính hầu thuyên, ngày đêm chia phen canh giữ. Nếu có hỏa hoạn ở trong thành thì lính đội Tiểu sai đánh thanh la báo hiệu ở cửa Hoàng Phước, nếu hỏa hoạn ở ngoài thành thì đánh thanh la ở điện Càn Nguyên; các quân nghe hiệu lập tức đến cứu).

Hạ lệnh cho thuế ruộng năm nay ở các trấn Bắc Thành nộp thay bằng tiền (mỗi hộc thóc nộp 1 quan 2 tiền), duy Sơn Nam hạ vẫn nộp thóc, để vận chở đi.

Quan Bắc Thành tâu nói: “Cửa biển Liêu Lác là nơi quan yếu ở Sơn Nam hạ, trước nay thuyền buôn ra vào, phần nhiều lấy bừa giấy thông hành, tấn thủ không thể kiểm xét được, sợ những bọn bậy bạ nhân đó làm gian. Xin từ nay hễ thuyền ở Kinh thì do quan Kinh cấp bằng, thuyền ở ngoài thì do quan địa phương cấp bằng, xét đúng rồi mới cho đi, để phòng bọn gian dối”. Vua theo lời.

Tháng 5, ngày mồng 1 Nhâm dần, có nhật thực.

Lễ bộ dâng nghi tiết về tiết Đoan dương. (Hôm ấy, vua trước đến Thái miếu và miếu Hoàng khảo làm lễ. Lễ xong, đem các quan đến cung Trường Thọ (1. Cung Thái hậu ở.) làm lễ mừng. Lễ xong, vua ngự điện Thái Hòa nhận lễ chầu mừng. Lễ xong, các quan xin đến cung Khôn Đức (2. Cung Hoàng hậu ở.  ) lạy mừng.

Ban mũ áo cho chánh khanh sáu bộ.

Hạ lệnh từ nay cai bạ, ký lục các dinh có khuyết thì lấy thiêm sự ở sáu bộ cho làm.

Ký lục Bình Hòa là Kiều Công Tuấn dâng yến sào. Vua hỏi Hộ bộ Nguyễn Kỳ Kế: “Trước nay thuế yến sào như thế nào?” Kế thưa rằng: “Đội yến sào bãi đã lâu rồi”. Bèn sai các dinh trấn hải phận nơi nào có sản yến sào thì làm sổ tâu lên, cấm dân lấy trộm; ai lãnh thầu thì đánh thuế.

Sai Lễ bộ Đặng Đức Siêu biên phép Quốc triều thế hệ. Sách xong, đặt tên là Thiên nam thế hệ. Sách chép bắt đầu từ Triệu tổ Tĩnh hoàng đế đến Duệ tông Hiếu định hoàng đế, trên lại chép lên đến Hoành quốc công và Trừng quốc công để tỏ rõ dòng dõi của Triệu tổ từ đâu mà ra, sau chép đến Hiếu khang hoàng đế để tỏ rõ bản thân vua từ đâu mà ra, trên dưới gần hơn 200 năm. Phàm công nghiệp các đời, cho chí ngày sinh năm giỗ, phương hướng các lăng tẩm, đều ghi chép đủ.

Ngày Nhâm tý, hoàng tôn (tức Hiến tổ Chương hoàng đế) sinh (ở ấp Xuân Lộc, phía đông Kinh thành, sau dựng chùa Diệu Đế ở đấy).

Phả Bô Lam Ma La Xa ở Lạc Hoàn sai sứ đến cống (Voi 2 thớt, sừng tê 2 tòa, sáp ong 35 cân). Tờ biểu nói: “Từ năm Quý hợi về sau, vì thuộc Man có việc lôi thôi nên lệ tuế cống bỏ thiếu, nay xin cống bù”. Vua thương là thành thực, hạ lệnh cho Nghệ An sai trạm đưa về Kinh. Đến nơi, hậu tứ rồi cho về. Chuẩn định lệ cống để ban hành. (Ba năm một lần cống, lấy các năm thìn, mùi, tuất, sửu làm kỳ cống. Đồ cống thì voi đực 1 thớt, sừng tê 2 tòa. Đường cống do Quy Hợp đến Nghệ An. Trấn thần nhận đồ cống rồi cho về).

Ngày Giáp tý, nguyên phi [vợ cả] của hoàng tử thứ tư [Minh Mạng] là Hồ thị (tức Nhơn hoàng hậu) mất; dựng sơn phần ở Cư Chính (tức lăng Hiếu Đông ngày nay). Phi là con gái chưởng cơ Hồ Văn Bôi, đầu năm Bính dần vua lấy cho hoàng tử thứ tư, sai vào hầu ở tiềm để. Phi là người nết na cẩn thận, hiền hậu trinh thục, trọn lòng hiếu kính. Vua khen ngợi, bảo phi rằng: “Nguyên tên là Hoa [胡氏華 Hồ Thị Hoa], có nghĩa là được tiếng thơm trong bốn mùa thôi, sao bằng Thật [Hồ Thị Thật 胡氏實], có nghĩa là Phước quả để lại muôn năm thì tốt hơn”. Nhân [lấy chữ Thật 實 ấy] đặt tên cho. Phi thọ 17 tuổi. Hoàng tôn sinh mới 13 ngày, khóc chảy nước mắt không thôi. Vua sai nuôi ở trong cung, thường tới thăm luôn, nói: “Trẻ con chảy máu mắt là tính trời đúc nên, ngày sau có thể giữ toàn đạo hiếu”. Hoàng tử ẵm đến hầu, vua thân chọn chữ bộ nhật, đặt tên cho là Dung [阮福曧].

Dựng hành cung và công sảnh ở Quảng Trị và Quảng Bình.

Vua xem đánh cá ở Thai Dương, cho đội Sinh ngư 100 phương gạo.

án trấn thần Quy Nhơn tâu nói: “Kho Cự Tích cách sông hơi xa, xin lập kho tạm ở cửa biển Thị Nại cho tiện việc vận tải”. Vua nghe lời. Lại thấy sớ đến Hộ bộ đã 5 ngày bộ mới tâu lên, bèn vời đến quở rồi sắc rằng từ nay hễ tiếp được sớ của các địa phương, hạn trong 2 ngày phải tâu, làm trái có tội.

Sai bọn Tham tri Công bộ là Nguyễn Đức Huyên, Thiêm sự là Hoàng Kiêm Điến, Vệ úy Thủy quân là Phạm Văn Tường đi Nghệ An đốc suất chế tạo 100 chiến thuyền ô.

Lấy Tham hiệp Thanh Bình là Nguyễn  Danh Xán làm Hiệp trấn Thái Nguyên, Tri phủ Thiệu Thiên là Nguyễn Bảo làm Tham hiệp Thanh Bình.

Võ Viết Bảo tâu xin cấp thêm tiền gạo cho cai đội Tả mã Hữu mã, cũng được bằng cai đội quân Thần sách. Vua không cho, quở rằng: “Người sao được cậy thế chầu gần, không nghĩ đến ngạch quan có khinh có trọng mà tự xin bậy như thế?”.

Vua hỏi Hộ bộ Nguyễn Kỳ Kế rằng: “Lệ cấp thêm lương cho các quan ở Kinh và ở ngoài một năm chi hết bao nhiêu?” Kế không trả lời được. Vua sai cùng với Binh bộ họp tính. Lê Quang Định nhân nói: “Quan ngoài hoặc có khi được sai khiến đi nơi khác, hoặc chỉ tùy chỗ khuyết mà ghi bổ, nên thường thường sâm si không đều, xin hạ lệnh cho các thành và dinh trấn làm sổ rõ ràng trình bộ để tiện kê cứu”. Vua giận nói: “Số mục tiền lương đã có sổ ngạch, bọn ngươi không chăm chức vụ, khi hỏi đến lại đun đẩy cho kẻ khác là thế nào?”. Bọn Quang Định cúi đầu tạ tội.

Lưu thủ Quảng Trị là Đinh Văn Dụ thiện tiện chi lương nhà nước và ăn tiền của dân. Việc phát, bị cách chức đuổi về dân. Ký lục Lê Đại Nghĩa không biết phát giác cũng bị giải chức. Lấy Nguyễn Cửu An làm Lưu thủ Quảng Trị, Thiêm sự Lại bộ là Nguyễn Đăng Đệ làm Ký lục.

Tháng 6, sửa cung Trường Thọ, thưởng cho biền binh 500 quan tiền.

Vua thấy mùa thu năm nay gặp tiết Thất tuần đại khánh hoàng thái hậu, cho các thành và dinh trấn mỗi nơi cử một quan văn và một quan võ về Kinh chúc thọ. Bọn Lê Duy Hoán và Trịnh Tư đều xin về Kinh chúc mừng. Vua y cho.

Định phép thi Hương. Nghệ An, Thanh Hoa, Kinh Bắc, Sơn Tây, Sơn Nam thượng, Hải Dương, cả thảy sáu trường. Trường Thanh Hoa thì Thanh Hoa và Thanh Bình thi chung; trường Kinh Bắc thì Kinh Bắc, Thái Nguyên, Lạng Sơn và Cao Bằng thi chung; trường Sơn Tây thì Sơn Tây, Hoài Đức, Tuyên Quang và Hưng Hóa thi chung; trường Sơn Nam thượng thì Sơn Nam thượng và Sơn Nam hạ thi chung; trường Hải Dương thì Hải Dương và Yên Quảng thi chung. (Chế ấn “Thí trường” và ấn triện nhỏ “Văn hành công khí” (1. Văn hành công khí: Cái cân văn chương là của chung.) các trấn.

Cung đốn đồ thập vật cho trường thi đều chi tiền công. Học trò đi thi thì trước kỳ lý trưởng sở tại phải ghi vào sổ, những người có trọng tang, những người bất hiếu, bất mục loạn luân, điêu toa và sau năm Gia Long thứ 1 phạm án cướp hay phản nghịch, thì không được vào thi. Quan trường thì đề điệu dùng quan tòng nhị phẩm, giám thí dùng quan tam phẩm, giám khảo dùng quan tam tứ phẩm, Phước khảo dùng quan tứ ngũ phẩm, sơ khảo dùng quan lục thất phẩm; thể sát, mật sát thì dùng cai đội Thị trung và Thị nội; lại phòng thì chọn những thuộc lại các trấn người viết chữ tinh đẹp để sung làm. Quan Tỏa viện ở nội trường thì dùng quan tham hiệp sở tại. Quan nội trường không được mang theo thoi mực và giấy có chữ. Quan nội trường và quan ngoại trường không phải việc công thì không được gặp riêng nhau. Học trò vào trường không được mang theo sách vở, không được rời khỏi lều đi hỏi chữ hay thay đổi thẻ ghi tên, làm trái là có tội. Nếu quan trường với học trò có thông đồng thỉnh thác, thì quan bị xử giáng bãi, học trò bị xử đồ. Thể sát, mật sát, lại phòng mà thừa nhịp làm bậy, hay bọn vô lại, côn đồ lừa dối làm tiền, đều bị tội đồ. Học trò mượn người làm bài hay làm thay bài cho người thì xử sung quân. Kỳ thi, kỳ đệ nhất, kinh nghĩa năm đề, bài làm chuyên một kinh hay kiêm năm kinh cũng được, truyện nghĩa một đề; kỳ đệ nhị, chiếu, chế, biểu mỗi thứ một đạo; kỳ đệ tam, một bài thơ đường luật, một bài phú thể tám vần; kỳ đệ tứ một đạo văn sách. Học trò làm bài, lấy một ngày làm hạn. Chữ viết lối chân hay lối thảo

cũng được. Sau khi nộp quyển, lại phòng soạn hiệu, phong lại, rồi đưa quyển sang quan giám khảo ở nội trường. Giám khảo chia giao cho sơ khảo [để chấm], rồi đưa quyển trúng sang Phước khảo. Quyển trúng và quyển hỏng thì sơ khảo và Phước khảo đều phải ghi tên ở mặt quyển. Giám khảo duyệt lại rồi đưa những quyển trúng sang cho quan ngoại trường bình duyệt và châm chước để định lấy hay bỏ. Quyển nào văn lý có thể bỏ cũng được lấy cũng được, hay văn lý khá mà bị tỳ vết, thì quan giám khảo lưu lại để trình quan ngoại trường thẩm duyệt định bỏ hay lấy. Phàm các kỳ thi người trúng đều chiếu kỳ mà yết. Kỳ đệ tứ thì xướng danh. Sau Phước hạch thì yết bảng. Người trúng tứ trường là hương cống, tam trường là sinh đồ, đều được miễn phu dịch. Hương cống thì được ban mũ áo và cho ăn yến, gọi là yến Lộc minh (1. Lộc minh: Một bài thơ trong thiên Tiểu nhã Kinh Thi tả bữa yến của vua ban cho quần thần.).

Quan Bắc Thành tâu rằng: “Về tiền của ở Bắc Thành chi ra, từ năm Gia Long thứ 1 đến nay tiền gạo ở các trấn chưa từng kiểm duyệt, sợ để năm tháng dồn lâu, bọn thuộc lại nhân đó làm gian. Xin hạ lệnh cho thượng ty sở tại ủy cho thuộc viên mỗi năm một lần biên xét làm sổ đưa về thành để kê cứu”. Vua theo lời.

Cấm đóng góp trong các quân. Vua thấy các quản quân hay nhân việc tu sửa nhà cửa thành quách mà bắt quân lính đóng góp, động có công việc là sinh phiền phí, sắc rằng từ nay làm công tác gì nhất thiết phải lấy tiền công vật công mà làm, không được bắt đóng góp. Lại hạ lệnh cho các quân dinh vệ đội, phàm vật liệu cần dùng cho phép hằng ngày ghi sổ, 3 tháng một lần tâu lên để chiếu giá trả tiền, chép làm lệ.

Sai Tham tri Lê Viết Nghĩa, Nguyễn Thành Chẩn, Nguyễn Hoài Quỳnh quản Nhà đồ nội và ngoại. Trước là vua dụ các chánh khanh sáu bộ rằng: “Nhà đồ là kho của cải của nhà nước, bọn ngươi nên chọn tham tri hay thiêm sự ở lục bộ, ai siêng năng cẩn thận thì cho quản lãnh. Nếu chọn không được người xứng đáng thì tội lây đến người đề cử”. Bộ thần đem Viết Nghĩa sung cử. Vua y cho.

Tha số thiếu về thuế sòng bạc, thuế thoi sắt, thuế đồn điền ở Gia Định.

Cai bạ Phú Yên là Nguyễn Hữu Đồng tại chức làm nhiều việc trái phép bị dân kiện, án trấn Quy Nhơn tâu lên. Xét hỏi tội trạng, đều thú nhận. Đồng bị giết. Lấy Thiêm sự Binh bộ là Lê Công Bật làm Cai bạ Phú Yên.

Tha thuế ruộng bị thiên tai mùa hè ở Quảng Trị.

Tha thuế diêm tiêu và thuế thân năm nay cho dân đội Hùng Diêm ở Bình Định.

Lưu trấn thần Gia Định tâu rằng: “Trộm cướp trong hạt nổi lên luôn, xin đặt đồn bảo ở những nơi xung yếu trên đường thủy đường bộ, và sai các thôn ấp đặt điếm canh để nghiêm xét hỏi”. Vua nghe lời.

Dân Gia Định kiếm nộp gỗ ván, gỗ long hiệp cốt (1. Gỗ đóng sườn thuyền.) và gỗ tròn, có nhiều tỳ vết, thước tấc lại không đúng thức, lưu trấn thần đem việc tâu lên. Vua dụ rằng: “Lên núi làm gỗ là việc rất vất vả. Nếu lại câu nệ mẫu thức nhất định thì không khỏi làm khổ cho dân. Nên châm chước mà thu nhận để dân được tiện”. (Ván thì hạn dài 50 thước đến 15 thước, mặt 1 thước, dầy 2 tấc, nếu tỳ vết từ 1 thước đến 5 thước mà ngoài ra tốt cả thì đều dùng; mặt thiếu 3 phân đến 1 tấc, hai đầu thiếu 2, 3 tấc, dầy thiếu 1 đến 3 phân, mà tốt cả thì cũng đều dùng. Gỗ long hiệp cốt hạn dài 7 thước 5 tấc, mặt 3 tấc 5 phân, dầy 7 tấc, mặt thiếu 1, 2 phân, dầy thiếu 5 phân đến 1 tấc, nhưng tốt cả, thì đều dùng. Gỗ tròn tuy cong queo mà tốt cả cũng dùng).

Dời dinh lỵ Quảng Ngãi đến Cù Mông (tên xã; lỵ cũ ở thôn Phú Đăng; đều thuộc huyện Chương Nghĩa). Ruộng đất và phần mộ của nhân dân chỗ nào bị lấn vào thì chi tiền cấp cho.

Nước Chân Lạp dâng hươu trắng.

Sai Hình bộ 5 ngày một lần duyệt tù tội đồ: Những người phải hành dịch không được thuê mượn người làm thay; ốm thì được miễn.

Bắc Thành bị bão.

Quan Bắc Thành tâu rằng: “Hai huyện Sơn Dương và Đương Đạo trấn Sơn Tây, trước đây vì dân xiêu tán ruộng bỏ hoang nên bớt quan không đặt. Nay dân dần dần đã hồi phục, xin lấy trấn ty là Đỗ Thế Cầu làm Tri huyện Sơn Dương kiêm hành công việc huyện Đương Đạo”. Vua y cho.

Sai Quảng Nam xay 13 vạn phương gạo, Quảng Ngãi 4 vạn phương, Bình Định 8 vạn phương và Nghệ An 10 vạn phương, chở nộp về Kinh.

Sai Cai cơ Mai Văn Phương quản thủ Hải Vân quan và các cửa biển Châu Mãi, Cảnh Dương.

Lưu thủ Bình Định là Mai Tiến Huệ ốm phải nghỉ việc. Lấy Khâm sai chưởng cơ vệ úy vệ Ban trực hữu là Vương Văn Học lãnh Lưu thủ Bình Định.

Trước Nguyễn Đức Xuyên tịch thu gia sản của ngụy quan, lấy riêng nhà vườn của đô úy ngụy Nguyễn Dự đem cho vệ úy Nguyễn Đình Đề. Đến nay vợ Nguyễn Dự là Trần thị tố cáo, Đức Xuyên dâng sớ xin nhận tội. Vua không muốn vì lỗi nhỏ mà bỏ kẻ có công, đặc ơn miễn cho, sai đem nhà vườn trả lại cho Trần thị.

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển XXXIII – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Đinh mão, năm Gia Long thứ 6 [1807], mùa thu, tháng 7, ngày mồng 1, tế thu hưởng.

Sửa Thái miếu; sai Lê Văn Phong trông nom công việc.

Triệu Lê Văn Duyệt về, lưu Phan Tấn Huỳnh ở lại Quảng Ngãi. Vua nghĩ công việc bình Man, trải năm tháng vất vả, thưởng cho Văn Duyệt 3.000 quan tiền, Tiến Huỳnh và quân sở bộ 1.000 quan.

Cho Lưu thủ Trấn Định là Nguyễn Văn Hưng làm Chưởng cơ, vẫn hành công việc lưu thủ.

Ban mũ áo cho bọn Tham tri Trần Hưng Đạt, Phạm Đăng Hưng, Lê Cẩn, Phó đô thống chế Phan Văn Kỳ, Chưởng cơ Nguyễn Văn Thoại.

Cho bọn Cai cơ Huỳnh Văn Cẩn, Cáp Văn Hiến, Trần Văn Học, Đào Văn Cửu, Võ Minh Thùy làm Chưởng cơ.

Ngày Kỷ mùi, tiết Thánh thọ. Năm nay là Thất tuần đại khánh của hoàng thái hậu, vua thân đem bầy tôi đến cung Trường Thọ làm lễ chúc mừng. (Tôn nhân phủ, hoàng tử, hoàng tôn, tả hữu cung tần, văn ban, võ ban, mệnh phụ các quan văn võ, công tính, quan thuộc cung Trường Thọ, các thành dinh trấn đạo, dòng dõi công thần huyện Tống Sơn, con cháu họ Lê, họ Trịnh, đều dâng lễ mừng). Sai nhạc công múa Bát dật, hát các khúc Vạn niên hoan, Thiên hạ lạc và Thái bình lạc. Lễ xong, vua ngự ở điện Cần Chánh, ban yến và thưởng cho các quan văn võ từ tam phẩm trở lên, theo thứ bậc khác nhau.

Hạ lệnh cho binh các dinh cơ đội thuyền từ  Quảng Bình vào Nam đến Bình Thuận chia ban ứng trực. Người trực ban được cấp lương tháng.

Sơn Nam hạ bị vỡ đê.

Trưởng hiệu cơ Hậu kính ở Bắc Thành là Lê Văn Tri riêng cho lính nghỉ việc rồi mạo chi tiền lương, việc phát giác, đem giết.

Đốc học Kinh Bắc là Lê Huy Trâm ốm phải nghỉ việc; lấy Trần Toản là tiến sĩ triều Lê thay.

Biên lính thú Hậu quân ở Bắc Thành làm vệ Hậu bảo tam; lấy Huỳnh Văn Lưu làm Vệ úy, Ngô Văn Dầu làm Phó hiệu úy.

Lấy cai đội các dinh Phấn Dực, Trung Thủy, Tiền Thủy, Hữu Thủy là bọn Khổng Văn Thành, Huỳnh Văn Lợi chín người quản suất thủy quân mới kén ở Bình Hòa và Bình Thuận.

Quan Bắc Thành tâu rằng: “ Nay kỳ thi Hương sắp tới, phải lập danh sách học trò, người học trò nào mà nguyên quán xiêu dạt không có xã trưởng khai sổ thì xin cho phụ vào sổ làng lân cận để dự thi”. Vua y cho.

Tháng 8, tế thu ở Văn miếu. Vua thân đến làm lễ.

Sai trấn thủ Hà Tiên là Mạc Tử Thiêm trở về trấn, ban cho 100 quan tiền. Tử Thiêm nhân tâu nói: “Trong hạt ruộng ít, gạo ăn của dân gian đều phải nhờ hai đạo Long Xuyên và Kiên Giang. Từ khi nghiêm cấm thông thương, dân thường thiếu ăn. Xin mỗi năm được sai quân dân tới hai đạo ấy đóng một vạn phương gạo hoặc một vạn hộc thóc”. Vua y cho.

Lấy Thiêm sự Hộ bộ là Nguyễn Thừa Thân làm Hiệp trấn Sơn Tây, Hàn lâm chế cáo Phạm Văn Nhàn làm Thiêm sự Hộ bộ.

Chánh quản thập cơ Uy Thắng của Hậu quân là Ngô Văn Vĩnh ốm phải nghỉ việc. Lấy Chánh thống Trung đồn là Ngô Văn Ngữ thay.

Phó vệ úy vệ Cung võ là Nguyễn Văn Phượng nhũng lạm tiền của quân hơn 2.900 quan. Việc phát giác, đem giết và truy tang trả lại quân.

Đặt kho châu Bố Chính ngoại dinh Quảng Bình. Tô thuế của dân châu ấy trước nộp ở kho Hữu Hùng, vua nghĩ đường xa nên sai dinh thần nhắm chỗ địa thế cao rộng ở châu lỵ mà đặt kho để tiện cho dân đem nộp.

Cấp thuyền ô sai cho Gia Định 33 chiếc, cho Bắc Thành 25 chiếc, cho Bình Định 10 chiếc, cho Bình Hòa và Thanh Hoa đều 5 chiếc.

Lấy Phạm Văn Tường làm vệ úy vệ Phấn Dực Nội thủy, Tống Phước Thảo là quản cơ cơ Trung Thủy, Phan Văn Thọ làm Phó quản cơ, Bùi Văn Thuận làm Quản cơ cơ Tả Thủy, Nguyễn Văn Lữ làm Phó quản cơ.

Thanh Hoa sửa Văn miếu, bổ cho quan lại góp hơn 4.000 quan tiền. Vua nghe tin quở rằng: “Việc bổ góp không phải là chính thể, sao không tâu xin chỉ mà tự tiện làm?”. Sai Tham tri Hình bộ là Nguyễn Hoài Quỳnh và Tham tri Lễ bộ là Lê  Chính Lộ đến tuyên lệnh chỉ, rồi phát tiền kho trả lại. Trấn thần đều bị tội xuy. Nhân đó thông dụ cho các dinh trấn rằng từ nay xây dựng việc gì, có động đến của dân sức dân, đều phải trù tính trước mà tâu rõ, không được bổ góp.

Thả cho về hàng ngũ những biền binh Bắc Thành và Thanh Nghệ ứng triệu trước kia. Quân Thanh Nghệ thì đội trưởng trở lên thưởng cho mỗi người 2 tháng bổng, quân Bắc Thành thì đội trưởng trở lên thưởng cho mỗi người 3 tháng bổng, binh lính thì thưởng mỗi người 1 tháng tiền lương.

Tháng 9, thổ phỉ Hưng Hóa cướp bảo Bách Lẫm. Bảo thủ là Nguyễn Đình Hán đem dân phu đuổi bắt,  bắt được khí giới. Việc tâu lên, thưởng cho 200 quan tiền.

Cao Bằng dâng hai con ngựa đực.

Vua Chân Lạp là Nặc Chăn sai bầy tôi là ốc nha Vị Bôn Rạch đến xin phong. Vua y cho. Sai Tham tri Binh bộ là Ngô Nhơn Tĩnh làm Chánh sứ, Ký lục Vĩnh Thanh là Trần Công Đàn làm Phó sứ, mang sắc ấn phong Chăn làm quốc vương Cao Mên (ấn bạc mạ vàng, núm làm hình lạc đà; lễ tuyên phong làm tại thành gỗ La Bích; Lễ bộ soạn nghi chú tuyên phong để ban hành). Định ba năm một lần cống, bắt đầu từ năm nay. (Cống phẩm là 2 thớt voi đực, 2 tòa sừng tê, 2 chiếc ngà voi, 2 bình sơn đen, đậu khấu, sa nhân, sáp ong, cánh kiến, trần hoàng, mỗi thứ đều 50 cân. Sứ bộ gồm một chánh sứ một phó sứ, cứ tháng 4 tới Gia Định, thành thần ủy người đưa đến Kinh. Số người đi theo, đường bộ 10 người, đường biển 20 người). Rồi sai mộ dân Hán [Việt] lập làm hai đội Cường bộ và An bộ lệ vào thành La Bích để thông dịch tiếng Phiên.

Sai Thượng bảo thiếu khanh Phạm Nhữ Phong và Hàn lâm thị thư Nguyễn Công Định theo Hộ bộ Tham tri Nguyễn Đình Đức giúp làm công việc quan ải và khai mỏ ở Bắc Thành.

Đổi định thuế chiếu ở Phú Yên. (Dân Phú Yên mỗi năm phải nộp thảm vuông cù du, dân tráng mỗi người bốn đôi, lão tật một nửa, nay đổi định giảm bớt một phần tư).

Truy tặng Phó vệ úy vệ Ban trực tuyển phong hậu quân Thần sách là Đoàn Phước Tân làm Vệ úy khâm sai thuộc nội chưởng cơ; ấm thụ cho con là Đoàn Phước Giám làm thứ đội trưởng. (Phước Tân có công Vọng Các, năm Canh thân [1800] tòng chinh, chết ở trong quân).

Tặng Cai cơ trưởng chi Hậu chi Trung quân hành thủ ngự nguồn Thạch Thành là Nguyễn Văn Nguyện làm Khâm sai chưởng cơ. Nguyện tòng quân có chiến công, đến nay chết, đặc cách cho truy tặng.

Sai Chưởng cơ Mai Tiến Vĩnh giữ nguồn Thạch Thành.

Định quan thuộc và quân dịch cho Thuận Thành. (Thuộc liêu 6 người, lệnh sử thuộc 15 người, y ty 2 người, cục tượng 5 người, tự thừa và từ phu 6 người, binh một đội 50 người, thuyền miễn dịch 2 chiếc, thợ lái và thủy thủ 10 người).

Cho 15 sách hoang man Kha Hô thuộc Thuận Thành được nộp thay thuế trâu lợn bằng tiền (trâu 5 con thành tiền 50 quan; lợn 15 con thành tiền 45 quan) cũng như lệ man Trà Nương.

Sai Hộ bộ kiểm xét kho tàng ở Kinh, bộ trưởng mỗi năm bốn lần, bộ ty mỗi tháng hai lần. Chép làm lệ.

Lấy Phó vệ úy vệ Cường võ là Đỗ Văn Cận làm Phó quản cơ cơ Truy uy.

Thuyền buôn của người Hồng Mao Kê Lê Mân đậu ở Đà Nẵng. [Vua] sai Tham tri Hộ bộ Lê Viết Nghĩa và Giám thành sứ Trần Văn Học đến dò ý đến làm gì. Dụ rằng: “Người Hồng Mao không hiểu lễ phép luật lệ, bọn ngươi đi chuyến này nên đối đãi rộng rãi”. Rồi đưa [Kê Lê Mân] về Kinh, sai bọn Nguyễn Văn Chấn, Nguyễn Văn Thắng và Lê Văn Lăng (1. Đều người Pháp.) tiếp chuyện. Kê Lê Mân bày tỏ rằng chủ tàu là Áp Bột Miệt Lăng trước đây buôn bán ở Gia Định, bán nhiều súng ống cho nhà nước, nay túng tiền, xin tăng giá trả cho. Vua nói: “Bọn lái buôn giảo quyệt nước ngoài đã lấy có túng thiếu mà kêu xin thì triều đình ta giàu có bốn biển, há đáng so kè với chúng”. Bèn sai cấp cho 24.000 đồng bạc phiên, rồi bảo đi.

Dinh thần  Phú Yên  tâu rằng: “Hai nhà kho An Hòa và Xuân Đài lâu năm đã bị mục nát, xin thu tiền điền mẫu của dân hơn 6.500 quan (mỗi mẫu nhất đẳng 7 tiền, nhị đẳng 6 tiền, tam đẳng 5 tiền; ruộng mùa thu và thổ mỗi mẫu 3 tiền) để mua gỗ sửa chữa”. Vua y cho.

Định điều lệ thuyền vận tải.

1. Phép đo. (Đo tự tấm ván chắn nước ở đầu thuyền đến tấm ván chắn nước ở cuối thuyền được mấy trượng thước làm bề dài, chia đôi bề dài lấy giữa làm trung  tâm, rồi đo ở trung tâm từ ván mạn bên tả đến ván mạn bên hữu được mấy thước tấc làm bề ngang, đo từ cái thang ngang trở xuống được bao nhiêu thước tấc làm bề sâu).

2. Bài chỉ thuyền. (Các hạng thuyền bề ngang từ 5 thước trở lên đều cấp cho một tờ bài chỉ chua rõ bề dài, bề ngang, bề sâu bao nhiêu thước tấc, tên họ người chủ thuyền, người đo thuyền, cùng số trọng tải. Mỗi năm cứ đến tháng 10, các dinh trấn đều ủy người về Kinh nhận lĩnh bài chỉ đem về chia cấp cho các thuyền hộ sở tại để làm bằng).

3. Lệ trọng tải. (Các hạng thuyền Trường đà và thuyền công tư, bề ngang từ 7 thước đến 7 thước 5 tấc, lệ chở lương công 450 phương; từ 7 thước 6 tấc đến 7 thước 9 tấc, chở 550 phương; 8 thước đến 8 thước 5 tấc, chở 650 phương; từ 8 thước 6 tấc đến 8 thước 9 tấc, chở 750 phương;

9 thước đến 9 thước 5 tấc, chở 850 phương; 9 thước 6 tấc đến 9 thước 9 tấc, chở 1.000 phương; từ 10 thước đến 10 thước 5 tấc chở 1.200 phương; 10 thước 6 tấc đến 10 thước 9 tấc, chở 1.400 phương; 11 thước đến 11 thước 5 tấc chở 1.600 phương; 11 thước 6 tấc đến 11 thước 9 tấc, chở 1.800 phương; 12 thước đến 12 thước 5 tấc chở 2.000 phương; 12 thước 6 tấc đến 12 thước 9 tấc, chở 2.200 phương; 13 thước đến 13 thước 5 tấc chở 2.400 phương; 13 thước 6 tấc đến 13 thước 9 tấc, chở 2.600 phương; 14 thước đến 14 thước 5 tấc chở 2.800 phương; 14 thước 6 tấc đến 14 thước 9 tấc, chở 3.100 phương; 15 thước đến 15 thước 5 tấc chở 3.400 phương; 15 thước 6 tấc đến 15 thước 9 tấc, chở 3.700 phương; 16 thước đến 16 thước 5 tấc chở 4.000 phương; 16 thước 6 tấc đến 16 thước 9 tấc, chở 4.300 phương;

17 thước đến 17 thước 5 tấc chở 4.600 phương; 17 thước 6 tấc đến 17 thước 9 tấc, chở 4.900 phương; 18 thước đến 18 thước 5 tấc chở 5.200 phương; 18 tấc 6 tấc đến 18 thước 9 tấc, chở 5.500 phương; 19 thước đến 19 thước 5 tấc chở 5.800 phương; 19 thước 6 tấc đến 20 thước, chở 6.100 phương. Phàm số lương chở theo lệ chia làm 10 phần thì thuyền Trường đà được giảm 1 phần 10, thuyền tư được giảm 3 phần 10, cho chở lương tư để phòng bù hao và ăn dùng. Ví như thuyền chiều ngang 7 thước đến 7 thước 5 tấc, lệ chở lương công 450 phương, thì thuyền Trường đà được giảm 1 phần là 45 phương, còn thực chở 405 phương, thuyền tư được giảm 3 phần là 135 phương, thực chở 315 phương. Ngoài ra theo đó mà tính).

4. Chia đều lao dật. (Phàm thuyền vận tải, cứ một năm chở của công thì một năm được đi buôn. Như các hạng thuyền Trường đà và thuyền công tư từ sông Gianh trở vào, lệ chở lương ở Gia Định, thì thuyền Trường đà định năm Mậu thìn chở lương, năm Kỷ tỵ đi buôn, thuyền công tư năm Mậu thìn đi buôn, năm Kỷ tỵ chở lương; còn thuyền công tư từ sông Gianh trở ra lệ chở lương ở Bắc Thành, cũng chia làm hai hạng, một hạng năm Mậu thìn đi buôn, năm Kỷ tỵ chở lương. Ngoài ra lấy đó mà suy).

5. Rộng việc bồi nạn. (Các hạng thuyền lãnh chở lương công, đi biển bị gió bão mà phải vứt bớt đi, thì quan sở tại xét thực, nếu là chở cho Bắc Thành, thì chiếc nào là thuyền được ân ban, cứ mỗi số giảm là 12 phương 15 bát thì nhà nước chịu cho 10 phương, chủ thuyền phải chịu 2 phương 15 bát; chiếc nào được chở thuê, cứ số giảm là 85 thăng thì nhà nước chịu

75 thăng, chủ thuyền chịu  10 thăng. Ngoài ra lấy đó mà tính. Nếu là lãnh chở từ Gia Định đến Quảng Nam, thì chiếc nào theo lệ chở lương công 7 phần, cứ thiếu 10 phương, nhà nước chịu cho 7, chủ thuyền chịu 3; chiếc nào theo lệ chở lương công 9 phần, cứ thiếu 10 phương, nhà nước chịu 9, chủ thuyền chịu ).

6. Tiền thuê chở. (Tính theo số lãnh chở nhiều hay ít, đường biển xa hay gần làm mức khác nhau. Lương cứ 57 phương 9 thăng làm một thùng, chở từ Gia Định đến Kinh, cấp tiền mỗi thùng 3 quan; từ Bình Thuận 2 quan 6 tiền; từ Bình Hòa, 2 quan 2 tiền; từ Phú Yên, 1 quan 8 tiền; từ Bình Định, 1 quan 4 tiền; từ Quảng Ngãi, 1 quan; từ Quảng Nam, 6 tiền. Nếu bất kỳ có phát chở từ dinh trấn này đến dinh trấn khác, thì số tiền thuê đều lấy lệ đó mà suy. Chở hai lần cũng chiếu phát như lệ).

7. Gạo thuê chở. (Hai cửa biển Cừ Hà và Lý Hòa và các xã toàn chịu thuyền Trường đà, thường năm chuyên chở không thuộc lệ chia phen, nếu chở từ Bắc Thành đến Kinh, cứ mỗi 75 thăng lương thì cấp lương thuê 10 thăng, từ Thanh Bình và Sơn Nam hạ cũng thế; từ Thanh Hoa, 8 thăng; từ Nghệ An, 6 thăng; từ Quảng Bình, 4 thăng; từ Quảng Trị, 2 thăng. Các cửa biển từ Gia Định đến Triệu Phong, bất thần có chở, thì từ Quảng Trị ra Bắc cũng đều theo lệ thuê như trên. Duy các hạng thuyền lệ chở từ Quảng Nam trở vào mà xin chở từ Quảng Trị trở ra thì từ Quảng Trị đến Kinh, cứ mỗi thùng lương trả thuê 6 tiền; từ Quảng Bình, 1 quan; từ Nghệ An, 1 quan 4 tiền; từ Thanh Hoa, 1 quan 8 tiền; từ Bắc Thành, 2 quan 2 tiền).

8. Tiền nộp thay chở. (Các hạng thuyền ứng chở cứ một năm chở lương thì lại được một năm nộp tiền thuế để được đi buôn, đều chiếu theo số lương phải chở là 9 phần hay 7 phần, mỗi thùng lương nộp tiền 2 quan; ngoài ra theo thế mà tính).

9. Tiền thuế bến. (Các hạng thuyền bề ngang không đầy 5 thước mà chở lương cho nhà nước thì đều được miễn thuế. Thuyền ván, ngang từ 5 thước đến 5 thước 7 tấc, mỗi năm nộp tiền thuế 3 quan; từ 5 thước 8 tấc đến 6 thước 3 tấc, 4 quan; 6 thước 4 tấc đến 6 thước 9 tấc, 5 quan. Thuyền nan bề ngang 5 thước đến 6 thước 9 tấc, tiền thuế bằng nửa thuyền ván; 7 thước đến 7 thước 9 tấc, 10 quan; 8 thước đến 8 thước 9 tấc, 14 quan; 9 thước đến 9 thước 9 tấc, 18 quan; 10 thước đến 10 thước 9 tấc, 24 quan. Đến đây là cùng, không thuyền nan nào được quá 10 thước 9 tấc. Thuyền nghề cá, bề ngang từ

5 thước đến 6 thước 9 tấc, tiền thuế cũng như tiền thuế thuyền ván; 7 thước đến 7 thước 4 tấc, 7 quan; 7 thước 5 tấc đến 7 thước 9 tấc, 8 quan; 8 thước đến 8 thước 4 tấc, 9 quan; 8 thước 5 tấc đến 8 thước 9 tấc, 10 quan, 9 thước đến 9 thước 4 tấc, 11 quan; 9 thước 5 tấc đến 9 thước 9 tấc, 12 quan. Đến đây là cùng).

10. Cấm gian trá giả mạo. (Sở tại phái người đo thuyền, nếu sai 3 tấc thì bị 50 roi, cứ thêm mỗi 3 tấc lại xử thêm một bậc, tội tới 100 trượng là cùng. Nếu có ăn tiền thì khép vào tội “uổng pháp”, tính tang mà luận tội và truy tang vật trả lại vào nhà nước. Chủ thuyền nếu có dụng tình không thực thì sai từ 3 tấc đến 6 tấc, cũng tội như thế; từ 6 tấc trở lên, bị tịch thu cả thuyền và hàng hóa, nửa sung vào nhà nước, nửa thưởng cho người tố cáo. Còn như thuyền nào do lâu năm sửa chữa mà thang ngang thuyền có hơi rộng ra, thì cho làm đơn xin đo lại để đổi bài khác. Nếu thuyền đã cũ nát và chìm mất, cũng cho làm đơn xin treo chờ. Thảng hoặc có bán cho người khác, thì trong giấy phải nói rõ ràng, bề dài, bề ngang, bề sâu cùng số trọng tải, trình quan sở tại, lấy đủ giấy tờ. Phàm bài thuyền cấp xong rồi, số còn lại bao nhiêu, mỗi năm cứ đến tháng 10 phải kê khai đệ trình; nếu còn ít thì cho lãnh thêm để phòng cấp phát. Kẻ nào dám làm bài thuyền giả để đi buôn hay cho người khác thuê mượn một khi bị tố cáo bắt giải thì kẻ làm giả và kẻ thuê mượn đều bị tội chết, thuyền và hàng hóa thì nửa sung vào nhà nước, nửa thưởng cho người tố cáo bắt giải. Lại chủ thuyền lãnh chở, không được mượn người khác chở thay. Có 2, 3 chiếc thuyền thì cũng đều lãnh chở theo lệ chứ không được dùng một chiếc mà kiêm lãnh hay lãnh thay cho chiếc khác. Làm trái thì dù gặp sóng gió phải vứt bỏ bớt lương rồi cũng cứ theo nguyên số bắt đền, không được hưởng lệ xá).

Dựng điện Khôn Nguyên

Mùa đông, tháng 10, ngày mồng 1, tế đông hưởng.

Bắt đầu mở khoa thi Hương từ Nghệ An trở ra Bắc. Sai Tham tri Lễ bộ Nguyễn Gia Cát sung Đề điệu trường Nghệ An, Hiệp trấn Hưng Hóa Nguyễn Đình Tứ sung Giám thí; Tham tri Hình bộ Nguyễn Hoài Quỳnh sung Đề điệu trường Thanh Hoa, Đốc học Quốc tử giám Hồ Công Diệu sung Giám thí; Tham tri Lại bộ Phạm Đăng Hưng sung Đề điệu trường Kinh Bắc, Trị trung học sĩ Phạm Thích sung Giám thí; Tham tri Binh bộ Nguyễn Quang Diệu sung Đề điệu trường Sơn Tây; Thị trung học sĩ Vũ Trinh sung Giám thí; Tham tri Lễ bộ Lê Chính Lệ sung Đề điệu trường Sơn Nam thượng, Hiệp trấn Lạng Sơn Lê Duy Đản sung Giám thí; Tham tri Công bộ Nguyễn Khắc Thiệu sung Đề điệu trường Hải Dương, Phó đốc học Quốc tử Giám Nguyễn Viết Ưng sung Giám thí. Lấy đỗ Hương cống tất cả 62 người. (Trường Nghệ An: Hồ Sỹ Đề, Trần Ngọc, Dương Doãn Nguyên, Đinh Miễn, Nguyễn Trung Mậu, Hồ Sĩ Trinh, Nguyễn Đình Diễm, Trần Lễ, cộng 8 người. Trường Thanh Hoa: Lê Văn Luyện, Nguyễn Hữu Bình, cộng 2 người. Trường Kinh Bắc: Cao Huy Diệu, Nguyễn Văn Sưu, Nguyễn Ngọc Trác, Nguyễn án, Đàm Thận Hưu, Lê Gia Thắng, Nguyễn Huy Trinh, cộng 7 người; Trường Sơn Tây: Trần Bá Kiên, Nguyễn Đình Lương, Hoàng Bình, Dương Huy Kiều, Khuất Duy Cử, Trần Duy Trác, Nguyễn Đình Thẩm, Nguyễn Tiến Trị, Phạm Gia Tứ, Nguyễn Quốc Đống, Hạ Văn Đạt, Nguyễn Danh Quế, Phạm Quang Nguyên, Nguyễn Thiều, Nguyễn Tư Trực, Võ Viết Trường, Lê Duy Thanh, Võ Đình Tín, Nguyễn Duy Thanh,

Ngô Cao Lãng, cộng 20 người. Trường Sơn Nam thượng: Võ Huy Đạt, Hoàng Quốc Bảo, Dương Duy Hinh, Phạm Đình Đồ, Lê Sỹ Nguyên, Lê Đình Dư, Phạm Võ Phác, Nguyễn Văn Hán, Lê Thừa, Lê Trọng Phú, Nguyễn Khắc Gia, Nguyễn Hiếu Đức, Nguyễn Giản, Nguyễn Chí, Nguyễn Tú, Phạm Điển, Trần Liêu, Hồ Sỹ Diệm, Nguyễn Đình Phổ, Nguyễn Đình Niên, cộng 20 người. Trường Hải Dương: Lê Huy Triện, Phạm Văn Huyên, Nguyễn Chiểu, Đặng Huy Dư, Võ Trọng Đĩnh, cộng 5 người).

Vua thấy các nha môn hỏi việc hình, tra xét kiện tụng nhiều khi liên can dắt díu, đà lụy cho dân thường, bèn sắc từ nay thẩm cứu những án nặng thì giam kẻ yếu phạm, lập án tâu lên, còn những người liên can và chứng tá thì thả cho về làm ăn.

Lấy Khâm sai cai cơ Thuận Thành là Nguyễn Văn Vĩnh hành việc

Phó trấn.

Vệ úy vệ Ban trực là Nguyễn Văn Sự lạm thu tiền của quân, việc phát giác, bị giết.

Quan Bắc Thành tâu nói: “Ba huyện Tiên Lữ, Phù Dung và Nam Xang trấn Sơn Nam thượng, ba huyện Thanh Miện, Vĩnh Lại và Tứ Kỳ trấn Hải Dương, tiền thóc tô thuế năm ngoái đều nộp ở Sơn Nam hạ, đường sá xa cách, rất bất tiện cho dân xin cho đổi nộp ở kho trấn sở tại”. Vua y cho.

Chưởng cơ hành lưu thủ Bình Thuận là Võ Văn Lân chết. Văn Lân có công Vọng Các, cho 300 quan tiền.

Lấy Quản thủ Thiệu Thiên là Phan Tấn Quý làm Lưu thủ Bình Thuận.

Tháng 11, ở Sơn Nam hạ giặc nổi, vây phủ Thiên Trường. Tri phủ Nguyễn Lượng và cai đội Nguyễn Văn Đại đều chết trận. Quan Bắc Thành được tin báo, ngầm sai phó đội Mai Viết Hiệu nhập bọn, rồi sai phó quản thập cơ Tả quân là Ngô Văn Tham đem quân đánh dẹp. Viết Hiệu ngầm dụ bắt được bọn tướng giặc là Nguyễn Tường và đồng đảng hơn 20 người. Quan quân tiến đến Chân Định, giặc vỡ chạy, chém được hơn trăm thủ cấp và bắt được 18 tên. Việc tâu lên. Cho Viết Hiệu chức cai đội, ban cho mũ áo và 500 quan tiền, thưởng cho biền binh đi đánh 3.000 quan. Tặng Nguyễn Lượng làm Hàn lâm viện, Nguyễn Văn Đại làm Cai cơ, cho mỗi người được một người con tập ấm.

Cai bạ Vĩnh Trấn là Huỳnh Đức Ân ốm phải nghỉ việc. Lấy Thiêm sự Hình bộ là Trần Công Hòa thay.

Sai Vệ úy Thị trung là Huỳnh Công Lý kiêm quản quân Cửu dực.

Lấy Nguyễn Văn Thanh làm Vệ úy vệ Hùng cự, Tống Phước Liêu làm Phó vệ úy.

Cai bạ Trấn Định là Bùi Đức Mân, Ký lục là Nguyễn Tăng Địch  đều về cư tang. Lấy Đốc học Gia Định là Trương Chí Lý làm Cai bạ Trấn Định, Thiêm sự Hình bộ là Ngô Đình Giới làm Ký lục Bình Định.

Phó tướng Hữu quân Mạc Văn Tô về tập hợp lính cũ ở Gia Định được hơn 1.170 người, làm danh sách dâng lên. Sai biên thành đội ngũ, chia làm hai cơ.

Dựng thêm kho Xích Đằng ở Sơn Nam thượng. Thưởng cho binh lính 1.300 quan tiền.

Thóc kho Bình Định bị hao hụt nhiều, trấn thần bắt dân đền bù. Vua được tin, nói rằng: “Thóc ở kho hao là lỗi tại quan, sao lại trách đòi ở dân?”. Sai Lại bộ truyền chỉ nghiêm quở và cho xã dân nào đã trót nộp rồi sẽ được trừ vào thóc tô sang năm.

Đắp kỳ đài ở Kinh thành. Thưởng cho lính và thợ hơn 1.000 quan tiền.

Lấy Tham luận quân Chấn võ là Võ Văn Sỹ làm Tham hiệp Sơn Nam hạ, Tri bạ theo trấn Gia Định là Đặng Tiến Thiện làm Tham luận Kiên Giang, Thư ký là Nguyễn Văn Ngân làm Tham luận Long Xuyên.

Người Cổ Loa (tên xã, thuộc huyện Đông Ngàn) trấn Kinh Bắc là Nguyễn Thị Trúc tự xưng là công chúa nhà Lê, làm giả ấn tín mưu lãnh tiền kho Bắc Thành, việc phát giác, đem giết.

Lấy Cai cơ Nguyễn Đức Sỹ làm Giám thành phó sứ.

ấm thụ cho con Trung thủy dinh Võ Di Nguy là Võ Di Thiện làm Cai đội.

Tháng 12, dựng kho trấn Thanh Hoa. Sai trấn thần chi hơn 4.600 quan tiền để mua gỗ lim làm kho, miễn thuế thân cho hơn 150 người lính kho.

Người Sơn Vi trấn Sơn Tây  là Ma Văn Tư cùng với người Phú Yên là Nguyễn Bảo làm giả ấn tín, tự xưng là quan đi bắt giặc, lẻn tới mỏ đồng ở châu Mai Sơn trấn Hưng Hóa giết cướp hộ khai mỏ; bắt được đem giết.

Đắp mười đoạn đê mới ở Bắc Thành. (ở Sơn Nam thượng, một đoạn đê dài hơn 700 trượng ở xã Nga Khê huyện Nam Xang, một đoạn 49 trượng ở xã Xâm Thị huyện Thanh Trì, một đoạn hơn 100 trượng ở xã Văn La huyện Chương Đức, một đoạn hơn 140 trượng ở xã Hồi Trung huyện Kim Bảng, một đoạn hơn 230 trượng ở xã Lạc Trường, một đoạn 33 trượng từ xã Mễ Trường huyện Thanh Liêm đến xã Châu Cầu; ở Sơn Nam hạ, một đoạn hơn 70 trượng ở xã Đường Xâm huyện Chân Định, một đoạn hơn 300 trượng ở xã Sơ Lâm huyện Thượng Nguyên; ở Kinh Bắc, một đoạn hơn 86 trượng ở xã Phụng Công huyện Văn Giang). Tính tiền hết hơn 84.000 quan.

Lấy Nguyễn Văn Chính làm Phó vệ úy vệ Trung bảo nhị.

Dời dinh lỵ Quảng Nam đến xã Thanh Chiêm (thuộc huyện Diên Phước). Dinh lỵ Quảng Nam cũ (ở xã Hội An) chật hẹp, vua sai đình thần tìm nơi địa thế cao ráo sáng sủa, vẽ đồ dâng lên. Đình thần tâu xin đặt ở xã Thanh Chiêm. Bèn hạ lệnh dời dựng ở đấy.

Từ phi họ Nguyễn mất; tặng ý Thận Huy Gia Từ phi, táng ở Thiên Thai, dựng từ đường ở Kim Long. Phi là chị hoàng thái hậu, trước hầu Hiếu khang hoàng đế, sinh được hai con trai (Tôn Thất Hạo, Tôn Thất Mân) hai con gái (Ngọc Du, Ngọc Toàn). Gặp loạn năm Giáp ngọ, ẩn lánh ở dân gian. Khi ở Gia Định, sai người rước đến. Tới nay phi ốm, gặp lúc hoàng thái hậu se mình, vua chưa dám tâu. Kịp phi mất hoàng thái hậu mới hay tin, giận bỏ cơm. Vua thân đến thỉnh an. Hoàng thái hậu nói: “Thân già này có một người chị, khi ốm không được gặp mặt, vì thế ăn không ngon, ngủ không yên”. Vua quỳ ở dưới thềm yên ủi khuyên giải hồi lâu, hoàng thái hậu mới lại ăn cơm. Vua bèn trở về.

Sai phó đội Nội hầu nhất là Nguyễn Hữu Cổ kiêm quản đội Nội hầu nhị.

Bọn ác man Quảng Ngãi lại tụ họp hơn 300 người, đốt bảo Tượng Đầu. Sai Lưu thủ Nguyễn Văn Toản cùng Đô thống chế lãnh Tả quân phó tướng Phan Tấn Huỳnh đem quân đi dẹp.

Hộ tịch Bắc Thành làm xong. Có 23 phủ, 100 huyện, 848 tổng, 6.280 xã, thôn, phường, vạn, trại, sách. Số đinh thực nạp là 193.389 người. Số đinh trong sổ thường hành của triều Lê là 268.990 người, đến nay làm lại hộ tịch, dân nhiều người gian xảo, khai số không thực. Sổ dâng lên. Vua thấy số đinh kém đi không bằng lòng, nhưng nghĩ nước mới bình định, chính trị nên rộng rãi, nên tạm để đó.

Sai Lưu trấn thần Gia Định chia cấp sai thuyền cho bốn dinh, mỗi dinh 10 chiếc.

Ngày Giáp thân, vua yết lăng Hoàng khảo.

Ngày ất dậu, tế Chạp.

Phát trang phục cho nhạc công. (Nhạc công hát thờ ở các miếu, mỗi năm cứ sau ngày tế Chạp thì may phát cho 40 cái áo và 20 cái xiêm).

Lễ bộ dâng nghi chú tiết Trừ tịch và tiết Nguyên đán. (Lễ trừ tịch, vua đến nhà Thái miếu làm lễ, các quan văn võ từ ngũ phẩm trở lên bồi tế. Lễ Nguyên đán và lễ Mồng ba, cũng thế. ở miếu Triệu tổ và miếu Hoàng khảo, đều sai quan làm lễ [Trừ tịch]. Đêm ấy các quan văn võ từ tứ phẩm trở lên túc trực ở hai bên công thự tả hữu; các lễ quan chia nhau túc trực ở các miếu. Nhạc công hát thờ. Ngày Nguyên đán, vua đến Thái miếu và miếu Hoàng khảo làm lễ. Miếu Triệu tổ thì sai quan làm lễ. Lễ xong, vua đem các quan  đến cung Trường Thọ làm lễ chúc mừng. Lễ xong, vua ngự điện Thái Hòa nhận lễ chầu mừng. Lễ xong, các quan xin đến cung Khôn Đức lạy mừng. Ngày mồng 2 Tết, ở các miếu đều sai các quan đến làm lễ. Ngày mồng 3, vua đến nhà Thái miếu làm lễ. Miếu Triệu tổ và miếu Hoàng khảo thì sai các quan làm lễ). Sai chép làm lệ.

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển XXXIV – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Mậu thìn, năm Gia Long thứ 7 [1808] (Thanh Gia Khánh năm thứ 13), mùa xuân, tháng giêng, thưởng bạc lạng cho các quan viên túc trực: các quan văn võ từ tứ phẩm trở lên, đêm trừ tịch túc trực ở hai bên công thự tả hữu. Vua sai bọn Chưởng Thần võ quân Phạm Văn Nhơn, Đô thống chế Thị trung Nguyễn Văn Khiêm, Thượng bảo khanh Trần Đình Trưng lập danh sách dâng lên. Ngự phê ban thưởng từ trên nhất phẩm đến tòng tứ phẩm, theo thứ bậc khác nhau.

Hạ lệnh cho hoàng tử hoàng tôn tuổi đã lớn theo ban vào chầu mừng.

Ngày ất tỵ, tế xuân hưởng.

Gọi 5.500 người thuộc Ngũ quân và Tượng quân ở Bắc Thành và 1.000 người quân Thần sách ở Thanh Nghệ về Kinh.

Vua thấy địa thế Gia Định rộng lớn, sai đình thần bàn kỹ việc kinh lý để giữ gìn bờ cõi cho vững mạnh.

Bèn đổi Gia Định trấn làm Gia Định thành, dinh Phiên Trấn làm trấn Phiên An, dinh Trấn Biên làm trấn Biên Hòa, dinh Vĩnh Trấn làm trấn Vĩnh Thanh, dinh Trấn Định làm trấn Định Tường;

thuộc trấn Phiên An thì huyện Tân Bình làm phủ Tân Bình, tổng Bình Dương làm huyện Bình Dương, tổng Tân Long làm huyện Tân Long, tổng Phước Lộc làm huyện Phước Lộc, tổng Bình Thuận làm huyện Thuận An;

thuộc trấn Biên Hòa thì huyện Phước Long làm phủ Phước Long, tổng Tân Chính làm huyện Phước Chính, tổng Bình An làm huyện Bình An, tổng Long Thành làm huyện Long Thành, tổng Phước An làm huyện Phước An;

thuộc trấn Vĩnh Thanh thì châu Định Viễn làm phủ Định Viễn, tổng Bình An làm huyện Vĩnh An, tổng Bình Dương làm huyện Vĩnh Bình, tổng Tân An làm huyện Tân An;

thuộc trấn Định Tường thì huyện Kiến An làm phủ Kiến An, tổng Kiến Đăng làm huyện Kiến Đăng, tổng Kiến Hưng làm huyện Kiến Hưng, tổng Kiến Hòa làm huyện Kiến Hòa, hai đạo Long Xuyên và Kiên Giang cũng đặt hai huyện Long Xuyên và Kiên Giang, mỗi huyện đều đặt hai tổng.

Định ngạch thuế về tiền dung, tiền đầu quan, tiền điệu và gạo cước cho năm nội trấn và phủ Hoài Đức thuộc Bắc Thành. (Dân tráng hạng mỗi năm nộp tiền dung 1 quan 1 tiền, tiền đầu quan 1 tiền, tiền điệu 6 tiền, gạo cước 2 bát; hạng dân đinh nộp một nửa; chức sắc thì quan viên từ con quan tam phẩm các bộ viện ty trở lên, thủ hợp tại gia, nhiêu thân, nhiêu ấm, quan viên triều Lê cũ từ lục phẩm trở lên, tiến sĩ, tạo sĩ, hương cống triều Lê cũ cùng các loại binh lính, cung giám, phu trạm đều liệt vào hạng ngoại tiêu sai, được miễn phú dịch; quan viên tử con quan từ tứ phẩm đến thất phẩm, quan viên tử con quan triều Lê cũ từ tam phẩm trở lên, thì thuế xem như hạng dân đinh. Ngoài ra các hạng biệt tính (1. Đã chua ở trên.) thì thuế xem như tráng hạng).

Thuyền bị nạn của sai dịch nước Thanh là bọn Diệp Phương, Hoàng Phước đậu ở cửa biển Sa Kỳ. Dinh Thần Quảng Ngãi đem việc tâu lên. Vua sai cấp cho bạc lụa quần áo rồi đưa theo đường bộ về nước. Chủ thuyền là bọn Trần Hoan 8 người cũng cấp cho lương ăn cho đáp thuyền buôn mà về.

Lấy Thái Văn Minh làm Hiệp trấn Hưng Hóa.

Phó đô thống chế Trung dinh quân Thần sách là Nguyễn Vĩnh Thị chết. Vĩnh Thị có công Vọng Các, cho 2 cây gấm Tống, 200 quan tiền và 7 người mộ phu.

Triệu án trấn Quy Nhơn là Nguyễn Huỳnh Đức và Đốc trấn Thanh Hoa là Tôn Thất Chương về Kinh.

Kén dân ở hai xã Phù Bài và Thủy Ba làm lính. Dân Phù Bài hơn 500 người, dân Thủy Ba hơn 90 người, xưa nay vẫn lệ thuộc Nhà đồ để làm việc, thường sai đi bắt hổ. Đến nay mới kén bổ làm lính, dân Phù Bài hơn 300 người, dân Thủy Ba 50 người, biên thành bảy đội. Phù Bài trước có thuế sắt, nay miễn.

Phan Tấn Huỳnh tiến đánh bọn ác man, xin hạ lệnh cho dân ở ven núi sắm đồ binh khí, phụ lực với đồn bảo của quân. Vua y cho. Lại sai Lê Văn Duyệt đem binh đến đốc tiễu. Dụ rằng: “Bọn ác man quấy rối, không thể không đánh, nhưng đường lối hiểm dốc chưa dễ phá ngay được. Ngươi nên tùy liệu xử trí, để phục lòng chúng; không đánh mà khuất phục được người lại là thượng sách đó”. Khi Văn Duyệt đến nơi mật sai Vệ úy Lê Văn Từ

và Phó vệ úy Lê Kim Nhượng giả làm dư đảng Tây Sơn, lẻn vào sách

Man ở với chúng, nhân dò hỏi tình hình. Người Man nói với Từ rằng họ không có ý làm phản, nhưng khổ vì Phó quản cơ Lê Quốc Huy hà khắc sách nhiễu mãi, nên phải họp nhau mưu phản thôi. Từ về báo. Văn Duyệt liền bắt Quốc Huy, xử theo quân pháp, tâu xin chém. Từ đó dân Man về hàng nhiều.

Đặt chánh cai quản ty Giáo phường ở Thanh Nghệ, mỗi ty một người, để cai quản ca công, mỗi năm hai kỳ về Kinh để đàn hát trong kỳ lễ miếu hưởng (mỗi người được cấp tiền 2 quan gạo 2 phương).

Nguyễn Văn Nhơn ốm, ban cho nhục quế, trầm hương và long diên hương.

Đặt thêm miếu phu ở miếu nhà Lê. Lê Duy Hoán tâu nói: “Ba thôn xã Bố Vệ thì Kiều Đại là một, thế mà trước đây chuẩn định 100 miếu phu toàn lấy ở hai thôn Mật Sơn và Tạnh Xá, thôn Kiều Đại không dự. Nay xin cho 48 người dân thôn ấy cũng sung miếu phu, miễn trừ dao dịch, để đều được ơn”. Vua y cho.

Tướng giặc ở Kinh Bắc là Hoàng Hữu Nhơn họp đảng hơn bảy trăm người mưu làm loạn. Trấn thần chia quân đi bắt. Phủ lại Lạng Giang là Hoàng Thúc Đạt đem quân đi trước dẫn đường bắt được Hữu Nhơn. Quan quân theo sau, chém được hơn mười thủ cấp, bắt được giặc mười mấy người, còn thì vỡ chạy cả. Bắt được súng ống khí giới rất nhiều. Việc tâu lên. Thưởng cho biền binh 300 quan tiền, cho Thúc Đạt chức đề lại và thưởng 100 quan tiền.

Cải bổ quản phủ các phủ ở Bắc Thành. Quan Bắc Thành tâu rằng: “Trước đây chức quản phủ ở các phủ, đều lấy quản cơ ở trấn sung làm, quân lính đều làm binh thổ trước cả, hoặc có kẻ cùng bọn thổ phỉ thông đồng nên việc bắt giặc bất lực. Xin đổi chỗ mà thay bổ, cho mang theo cả số quân họ vẫn cai quản”. Vua y lời tâu.

Tướng giặc Sơn Nam hạ là Võ Đình Khanh họp đảng ở khoảng Thiên Trường và Nghĩa Hưng. Quan Bắc Thành được tin báo, sai ngay chánh quản thập cơ là Ngô Văn Ngữ đóng giữ trấn thành mà sai nhiếp trấn là Ngô Văn Tham cùng chánh thống Hậu đồn là Lê Công Lý đem quân chia đường tiến đánh. Lại sai chánh thống Tiền đồn là Nguyễn Văn Hưng, phó thống là Nguyễn Xuân quản xuất binh thuyền để tiếp ứng. Tham  đến Nghĩa Hưng, giao chiến với giặc chém được mấy đầu, giặc hơi lùi. Ngày hôm sau, giặc lại tràn đến trấn lỵ. Tham dẫn quân về, hết sức đánh giữ, quân giặc vỡ chạy. Quân của Lý đóng ở Thiên Trường bị giặc vây ba mặt. Lý chia quân xông đánh từ giờ dần đến giờ thân; giặc đánh rất dữ. Quản phủ Đặng Văn Trinh, Phó vệ úy Trương Công Lãm đều bị chết, binh sĩ tử trận hơn vài mươi người. Lý thu quân vào phủ thì gặp quân của Hưng và Xuân tiến đến, giặc lùi về sông Lác. Quan quân đuổi theo đến Đại An, bắt được Đình Thanh, chém được một trăm đầu. Giặc lại họp thuyền đậu ở ngã ba sông huyện Giao Thủy. Tham và Xuân đem quân thủy bộ tới đánh. Quân giặc nhảy xuống nước chết vô kể. Bắt được cờ ấn, súng ống khí giới và hơn ba chục chiếc thuyền. Bọn thổ hào Phạm Đức Hữu cũng đem dân đinh đón bắt, chém được một đầu giặc ở sông Văn Lang (tên xã, thuộc huyện Thư Trì). Việc tâu lên. Cho Đức Hữu làm phó tổng, thưởng tiền 500 quan.

ở Yên Quảng giặc nổi. án thủ Vạn Ninh là Phan Phương Khách đánh đuổi, bắt được tướng và đồ đảng giặc hơn hai chục người. Cho Phương Khách làm Tuyên úy sứ và thưởng cho 300 quan tiền.

Tha tô thuế năm nay cho [huyện] Tống Sơn.

Tháng 2, làm chùa Hàm Long.

Định lệ lễ dâng bạc. Hằng năm, trong các lễ Thánh thọ, Vạn thọ, Thiên thu, Thiên xuân, Nguyên đán, Đoan dương, ngày kỵ tháng 5 tháng 9, lệ định đồng niên dâng lễ bằng bạc: trên hàng nhất phẩm, mỗi người 5 lạng, chánh nhất phẩm 4 lạng, tòng nhất phẩm 3 lạng 5 tiền, chánh nhị phẩm 3 lạng) tòng nhị phẩm 2 lạng 5 tiền, chánh tam phẩm 2 lạng, tòng tam phẩm 1 lạng 5 tiền, chánh tứ phẩm 1 lạng, tòng tứ phẩm 9 tiền 5 phân, chánh ngũ phẩm 8 tiền 5 phân, tòng ngũ phẩm 8 tiền, chánh lục phẩm 7 tiền, tòng lục phẩm 6 tiền 5 phân, chánh thất phẩm 5 tiền 5 phân, tòng thất phẩm 5 tiền, chánh bát phẩm 4 tiền, tòng bát phẩm 3 tiền 5 phân, chánh cửu phẩm 2 tiền 5 phân, tòng cửu phẩm 2 tiền, vị nhập lưu 1 tiền 5 phân, tôn nhân phủ, hoàng tử, hoàng nữ, hoàng tôn 50 lạng, tả hữu cung tần 40 lạng, công tính 5 lạng, các chi công tính ở Bắc Thành 5 lạng, Tống Sơn 4 lạng, con cháu dòng dõi công thần 4 lạng, họ Lê 10 lạng, Hà Tiên 10 lạng, Thuận Thành 15 lạng. Lấy lễ Chính đán năm Kỷ tỵ bắt đầu. Từ chánh tứ phẩm trở xuống đếu vị nhập lưu, trong khoảng ba năm Kỷ tỵ, Canh ngọ, Tân mùi giảm cho 4 phần 10; cai đội, phó đội chưa coi quân và đội trưởng đều miễn hết.

ở Khoái Châu trấn Sơn Nam thượng giặc nổi. Hiệp trấn Nguyễn Khắc Khoan đương ở kho Xích Đằng lập tức cùng quản phủ Lê Đức Kế đem quân úp bắt. Đến Điềm Xá thì giặc bỗng nổi dậy, Khắc Khoan và Đức Kế cố sức đánh đều chết cả. Thành thần sai Chánh quản thập cơ Tả quân là Nguyễn Văn Xuân đem binh và voi tiến đánh. Giặc  bỏ trốn ban đêm. Xuân đuổi đến Vương Xá, bắt chém đồ đảng rất nhiều. (Điềm Xá, Vương Xá đều là tên xã, thuộc huyện Tiên Lữ).

Lấy Thiêm sự Hộ bộ là Nguyễn Quang Huyên làm Hiệp trấn Sơn Nam thượng.

Dân Man bảy sách đạo Cam Lộ đến cống.

Sai Vệ úy vệ Ban trực hữu là Mai Gia Cương đem quân bản bộ đi thú Thanh Hoa.

Triệu Hiệp trấn Thanh Hoa là Lê Bá Phẩm về Kinh; lấy Tham tri Hình bộ là Nguyễn Hoài Quỳnh thay.

Sai hai trấn Thanh Hoa và Nghệ An hằng ngày ghi công việc của trấn, mỗi tháng tâu lên một lần.

Quan Bắc Thành tâu rằng: “Xưa nay việc thu thóc tô của dân, khi thu thóc cứ lấy một thăng thóc nổi 2 thược làm mức. Năm nay thóc không được mùa, thử không đúng phép, xin cho cứ một thăng thóc nổi 1 phần 20 thì tạm cho thu nhận, để tiện cho dân”. Vua y cho. Sau Nghệ An cũng tâu xin như thế. Vua nói đó không phải là lệ thường, không cho. Bèn sai xay thành gạo chở vào Kinh.

Vua ngự ở điện Càn Nguyên xem các quân thao diễn.

Định số nhân viên cho Tả Hữu thừa ty, Chiêm hậu ty, Lương y ty của các thành dinh trấn cùng thuộc lại ty các đạo.

(Tả thừa ty có ba phòng Lại, Hộ, Lễ; Hữu thừa ty có ba phòng Binh, Hình, Công, cộng 6 phòng: Lại phòng coi phòng việc văn từ thư trát; Hộ phòng giữ việc sổ sách, tiền lương, thuế lệ, thu phát, vận tải; Lễ phòng giữ việc tế lễ, tán xướng, nghi chế, tân khách, xem thời tiết, ghi chép mưa gió hàng ngày, duy ở Bắc Thành thì việc ghi chép mưa gió chuyên do ty Chiêm hậu; Binh phòng giữ việc sổ sách, kiểm điểm binh số, đốc thúc công việc, kén chọn cấp phát binh lính, kiểm xét bến đò cửa ải, chạy trạm dịch; Hình  phòng giữ việc kiện tụng tra khám ; Công phòng giữ việc gỗ lạt, thợ thuyền, xây dựng cầu cống, đường sá, sông ngòi đê điều, Công phòng Bắc Thành và Gia Định lại theo làm công việc của Nhà đồ ở thành). Bắc Thành, Tả thừa ty thì câu kê, cai hợp, đều 5 người, thủ hợp 10 người, Hữu thừa ty thì câu kê, cai hợp đều 4 người, thủ hợp 8 người, số ty lại của hai thừa ty đều 200 người; Chiêm hậu ty thì câu kê, cai hợp đều 1 người, thủ hợp 2 người, ty lại 40 người; Lương y ty thì huấn khoa 2 người, y sinh 30 người. Gia Định, Tả Hữu thừa ty, mỗi ty đều câu kê 1 người, cai hợp 2 người, thủ hợp 6 người, ty lại 60 người; Lương y ty thì huấn khoa 1 người, y sinh 15 người. Hai thừa ty của Quảng Nam, Bình Định, Nghệ An, Thanh Hoa, Sơn Nam hạ, số câu kê, cai hợp, thủ hợp, ty lại và huấn khoa ty Lương y cũng như ở Gia Định, duy số y sinh ở ty Lương y thì giảm 1 phần 3; hai thừa ty ở Quảng Đức, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nghĩa, Phú Yên, Bình Hòa, Bình Thuận, Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Định Tường, Kinh Bắc, Sơn Tây, Hải Dương, Sơn Nam thượng, số câu kê, cai hợp, thủ hợp, huấn khoa ty Lương y cũng như Quảng Nam, Bình Định, Nghệ An, Thanh Hoa, Sơn Nam hạ, duy số ty lại ở hai thừa ty thì giảm 1 phần 6, hai thừa ty của Yên Quảng, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Cao Bằng, Hưng Hóa, số câu kê cũng như các dinh trấn khác, số cai hợp, thủ hợp ty lại và y sinh Lương y thì bằng một nửa các dinh trấn, còn huấn khoa ty Lương y thì bằng một nửa các dinh trấn, huấn khoa ty Lương y thì bớt đi; đạo Thanh Bình đặt ty thuộc lại, câu kê, cai hợp đều 1 người, thủ hợp 2 người, ty lại 30 người, nhân số ty Lương y cũng như Yên Quảng, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Cao Bằng, Hưng Hóa; hai đạo Long Xuyên và Kiên Giang, đặt ty thuộc lại, thủ hợp đều 1 người, ty lại đều 10 người.

Lưu thủ Quảng Bình là Lưu Phước Tường có bệnh, sai Phó đô thống chế Huỳnh Viết Toản thay làm việc dinh.

Lấy Vệ úy vệ Nghiêm dũng là Tôn Thất Bính làm Vệ úy vệ Hữu nhất thị trung, Vệ úy vệ Dương võ là Nguyễn Văn Soạn làm Vệ úy vệ Long võ.

Lấy Văn Nguyên làm Vệ úy vệ Trung nhất Thị trung, Trần Văn Cường, làm Phó vệ úy, Võ Công Thìn làm Vệ úy vệ Ban trực tiền, Nguyễn Đình Lân làm Phó vệ úy.

Đảng giặc ở Sơn Nam hạ lại họp quân vây phủ Kiến Xương. Bọn Ngô Văn Tham, Nguyễn Văn Hưng, Nguyễn Xuân đem quân thủy bộ đánh liên tiếp, cả phá giặc, bèn giải được vây cho phủ Kiến Xương. Đảng giặc chạy tản đi các ngả. Thủ ngự Trà Lý là Đặng Đình Hữu, thủ ngự Ba Lạt là Võ Đức Cát, thổ hào Thư Trì là Đỗ Trọng Toán, Lương Bá Uyên đều bắt được tướng và quân giặc đem nộp. Vua cho Đình Hữu, Đức Cát làm Cai đội, Trọng Toán, Bá Uyên làm Cai tổng ; thưởng hơn 400 quan tiền.

Ngày Giáp thân, tế Trời Đất ở đàn Nam giao.

Chia dân đội Hùng diêm ở Bình Định làm mười đội. Dân số đội Hùng diêm ở 12 ấp thuộc 2 huyện Phù Ly, Bồng Sơn của Bình Định là hơn 1.200 người. Vua sai Lê Chất chia làm 10 đội, mỗi đội 100 người trở lên. Lấy bọn cai đội tòng quân là Đặng Văn ất 10 người làm cai đội, bọn đội dân là Đặng Văn Quyến 10 người làm chánh đội trưởng.

Chuẩn định chánh phó vệ úy, tham quân, quản cơ, cai cơ, cai đội, tham luận ở các vệ cơ thuộc Tượng quân, mà do Tượng dinh cũ của quân Thần sách bổ sung thì trật ngang với quân Thần sách; từ nay về sau thuyên bổ thì cũng như các quân khác.

Nước Miến Điện đánh thành Xoang Mai [Chiang Mai] của nước Xiêm La, tướng Xiêm La là Phi Nhã Mai đầu hàng Miến Điện. Người Xiêm phát quân đi đánh. Quân đến Lục Khôn và Xa Gia (đều tên đất nước Xiêm), đều bị quân Miến Điện đánh bại. Tin ấy báo lên, vua sai trấn thủ Hà Tiên là Mạc Tử Thiêm mang thư của Lễ bộ  gửi cho Phi Nhã Phạt Lăng, mượn cớ để dò xem tình hình động tĩnh. Tử Thiêm sợ không dám đi. Lưu trấn thần Gia Định tâu lên. Vua tha tội, lại cho 3.000 đồng bạc phiên, rồi dụ rằng: “Ngươi ở lâu nơi biên trấn hiểu rõ tính tình người Man, việc này ngươi không đi thì không xong. Người Xiêm tất không hại ngươi đâu, đừng sợ!” Tử Thiêm bèn vâng mệnh đi. Lấy Mạc Công Du quyền lãnh việc trấn.

Dựng Văn miếu.

Vua cho rằng miếu cũ ở Long Đồ quy chế nhỏ hẹp, mới chọn đất ở An Ninh mà dời dựng. Sai hữu ty tính gỗ, gọi thợ, làm theo quy chế cao lớn, lấy ngày ất mùi tháng này khởi công. Bọn Tham tri Công bộ là Nguyễn Khắc Thiệu và Nguyễn Đức Huyên, Vệ úy vệ Long võ là Nguyễn Văn Soạn trông coi công việc. Quy chế của miếu thì chính đường, tiền đường, tả hữu tòng tự đường, đều một cái; đằng trước đặt cửa Đại Thành, bên tả là cửa Kim Thanh, bên hữu là cửa Ngọc Chấn; lại ở ngoài cửa Đại Thành đặt hai nhà, bên tả là nhà Sùng Văn (tức nhà Hữu văn ngày nay) bên hữu là nhà Dụy Lễ; phía tả miếu đặt nhà Tu Kính, phía sau miếu thì tả có nhà Thần Trù (1. Nhà bếp ), hữu có nhà Thần Khố (2. Nhà kho.); chu vi xây tường gạch, đặt ba cửa phía trước là cửa Văn miếu, tả là cửa Đạt Thành, hữu là cửa Quan Đức; phía ngoài tường trồng thông khắp cả. Mồ mả của dân bị lấn vào thì cho tiền dời đi nơi khác.

Tháng 3, ngày Đinh mùi, sửa sang các tôn lăng. Sai Quốc thúc Tôn Thất Thăng, Chưởng quân Phạm Văn Nhơn, Nguyễn Văn Nhơn, Nguyễn Đức Xuyên, Lê Chất, Đô thống chế Nguyễn Văn Khiêm, Trần Văn Năng chia nhau trông coi công việc. Vua thường đến xem. Thưởng cho các quân 8.000 quan tiền.

Lấy Ngô Văn Tham làm trấn thủ Sơn Nam hạ.

Đốc học Nghệ An là Nguyễn Danh Dương ốm phải nghỉ việc; lại sai Bùi Dương Lịch thay.

Lấy Võ Văn Châu làm Vệ úy vệ Cường uy quân Thần sách, Hồ Văn Thành làm Vệ úy vệ Ban trực hậu, Lê Văn Quân làm Vệ úy vệ Phấn võ, Nguyễn Văn Long làm Phó vệ úy vệ Hùng cự nhị Tượng quân.

Hơn 80 chiếc thuyền giặc Tề Ngôi bị người Thanh đuổi bắt, trốn chạy đến ngoài biển Yên Quảng, Thành thần sai chánh thống Hữu đồn Tiền quân là Bùi Văn Thái, Phó thống Tả đồn là Nguyễn Văn Trị đem binh thuyền tiến đánh, chánh quản thập cơ quân Thần võ là Trần Văn Thìn đem quân bộ đến Hải Dương tiếp ứng, Chưởng dinh Trương Tấn Bửu làm Điều bát nhung vụ. Bọn giặc xâm phạm sông Bạch Đằng, áp đánh trấn lỵ Yên Quảng. Trấn thủ Lê Văn Vịnh cùng với Nguyễn Văn Trị đánh lui được giặc, chém được hơn mười đầu giặc và bắt được già trẻ hơn sáu chục người. Giặc bèn đem thuyền chia đậu ở các hải phận Hải Dương, Thanh Hoa và Nghệ An. Thành thần tâu lên. Vua lo thổ phỉ liên lạc với hải phỉ, bèn sai Tống Phước Lương quản lãnh binh thuyền tiến đánh, lại sai Thiêm sự Lại bộ là Ngô Vị theo làm việc giấy tờ ở trong quân.

Kinh kỳ có mưa đá.

Thuyền trưởng Hồng Mao là Tô Lô Xuy La Môn đáp chở hơn năm trăm khách buôn người Thanh, bị nạn bão đến đậu ở cửa Đà Nẵng. Dinh thần Quảng Nam tâu lên. Sai cấp tiền gạo cho khách buôn bị nạn rồi cho đưa theo đường bộ trở về nước Thanh. Lại thấy Tô Lô Xuy La Môn cứu giúp nạn nhân, thưởng cho 300 phương gạo rồi bảo đi.

Tham tri Hộ bộ Nguyễn Thành Chẩn chết. Cho 2 cây gấm Tống, truy cấp cho 3 tháng lương.

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển XXXV – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Mậu thìn, Gia Long năm thứ 7 [1808], mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, tế hạ hưởng.

Dâng tên hiệu các lăng của các vua các hậu đời trước:

Lăng Triệu tổ Tĩnh hoàng đế [Nguyễn Kim] gọi là lăng Trường Nguyên (truyền văn rằng Tĩnh hoàng hậu hợp táng ở đó); lăng Thái tổ Gia dụ hoàng đế [Nguyễn Hoàng], gọi là lăng Trường Cơ; lăng Gia dụ hoàng hậu gọi là lăng Vĩnh Cơ;  lăng Hy tông Hiếu văn hoàng đế [Nguyễn  Phước Nguyên] gọi là lăng Trường Diên; lăng Hiếu văn hoàng hậu gọi lăng Vĩnh Diên; lăng Thần tông Hiếu chiêu hoàng đế [Nguyễn Phước Lan] gọi là lăng Trường Diên; lăng Hiếu chiêu hoàng hậu gọi là lăng Vĩnh Diên; lăng Thần tông Hiếu triết hoàng đế [Nguyễn Phước Tần] gọi là lăng Trường Hưng; lăng Hiếu triết hoàng hậu gọi là lăng Vĩnh Hưng, cũng là lăng Quang Hưng; lăng Anh tông Hiếu nghĩa hoàng đế [Nguyễn Phước Thái] gọi là lăng Trường Mậu; lăng Hiếu nghĩa hoàng hậu gọi là lăng Vĩnh Mậu; lăng Hiển tông Hiếu minh hoàng đế [Nguyễn Phước Chu] gọi là lăng Trường Thanh; lăng Hiếu minh hoàng hậu gọi là lăng Vĩnh Thanh; lăng Túc tông Hiếu ninh hoàng đế [Nguyễn  Phước Chú] gọi là lăng Trường Phong; lăng Hiếu ninh hoàng hậu gọi là lăng Vĩnh Phong; lăng Thế tông Hiếu võ hoàng đế [Nguyễn Phước Khoát] gọi là lăng Trường Thái; lăng Hiếu võ hoàng hậu gọi là lăng Vĩnh Thái; lăng Duệ tông Hiếu định hoàng đế [Nguyễn Phước Thuần] gọi là lăng Trường Thiệu; lăng Hiếu khang hoàng đế [Nguyễn Phước Luân] gọi là lăng Cơ thánh.

Vua tôn chuộng đạo nho, rất chú ý việc lễ nhạc, từng hỏi Lễ bộ rằng : “Thiên tử thân tế Văn miếu, sau ba tuần hiến rượu có tiết “ẩm phước thụ tộ” (1. Uống rượu và ăn thịt để tỏ ra được thần ban Phước.) thì ở trong sách Lễ có không?” Nguyễn Gia Cát thưa rằng: “Không có. Thần xem Hội điển nhà Minh nhà Thanh thì tiết này là chỉ đặt ra cho quan đứng để thay vua mà thôi”. Vua khen phải. Nhân dụ bầy tôi rằng: “Trong Văn miếu trước có tượng, hiệu là Văn Tuyên vương. Trẫm nghĩ rằng tước vương tuy trọng, nhưng không hợp nghĩa tôn thầy, tượng tuy cổ thật, song gần như là khinh nhờn. Đó là vì khi bắt đầu gây dựng còn noi theo chế độ các đời trước, chưa rỗi chỉnh đốn lại. Nay bàn lễ xét văn là trách nhiệm ở trẫm, bọn khanh nên hiểu ý trẫm, tâu bày việc đó cho trẫm nghe”. Bầy tôi xin theo chế độ nhà Minh, đổi làm bài vị, xưng là Chí thánh tiên sư Khổng tử cho hợp lễ ý. Vua cho là phải.

Sai Lễ bộ bàn định quy thức Văn miếu ở các thành dinh trấn. (Quy chế miếu thì chính đường ba gian bốn chái, tiền đường năm gian hai chái, phía hữu dựng đền Khải thánh (2. Miếu thờ cha mẹ sinh ra Khổng tử.) ba gian hai chái). Phàm nhà cửa, biển ngạch, bài vị, đồ thờ, cho đến nghi tiết tế tự, đều chép làm giáp lệnh để ban hành.

Bọn giặc ở Sơn Nam thượng vây phủ ứng Thiên. Thành thần được tin báo, sai án phủ Hoài Đức là Nguyễn Văn Xuyến, Vệ úy vệ Giản võ là Nguyễn Văn Thiện đem quân đánh bắt. Giặc chạy sang Thượng Phước. Quản thủ Thường Tín là Võ Văn Thân đón đánh phá được. Được vài ngày giặc lại vây phủ Khoái Châu, quân Cai vệ đội Tiền bảo nhị là Nguyễn Văn Trượng tiến họp với quân của Xuyến. Trượng gặp giặc ở Phù Dung, tung quân đánh dữ, chém được vài đầu giặc. Quân giặc sợ tan chạy. Quan quân thừa thắng đuổi đánh, giải được vây cho phủ Khoái Châu. Bọn Xuyến và Trượng bèn đem quân về.

Giảm bớt tô thuế năm nay cho các thành dinh trấn.

Chiếu nói: “Thương dân trọng nông là việc làm chính trị đầu tiên. Năm nay thóc tô các địa phương đều giảm cho 3 phần 10. Duy bốn dinh Quảng Đức, Quảng Nam, Quảng Trị, Quảng Bình là dân ở giáp Kinh kỳ, việc sai dịch hơi nặng, thì thuế thân cũng cho giảm bớt như thế.

Triệu Lê Văn Duyệt về.

Vua thấy bọn giặc ở Bắc Thành phiến động, muốn cử đại binh đi đánh dẹp, nên gọi Duyệt về. Duyệt cho rằng giặc Man mới bình, hãy lưu lại chừng một tháng để chia đặt đồn bảo, làm kế phòng ngự. Trước sai Chưởng cơ Nguyễn Văn Giám đem việc vào tâu. Rồi Duyệt đem quân về, lưu Phan Tấn Huỳnh đóng giữ.

Triệu Phó trấn Thanh Hoa là Nguyễn Đức Thành và Lưu thủ Bình Hòa là Nguyễn Đắc về Kinh. Lấy Nguyễn Văn Trí làm Phó đô thống chế Hữu dinh quân Thần sách, đem quân năm dinh và bốn đội Thắng uy đi thú Thanh Hoa, Quản cơ cơ Hòa thắng là Nguyễn Văn Quế làm Lưu thủ Bình Hòa.

Thổ tù Sơn Âm ở Thanh Bình là Quách Tất Thúc làm phản, họp đảng hơn 3 nghìn người vây đồn Gián Khẩu. Quản đạo Lương Văn Vân chạy báo cho Thanh Hoa. Đốc trấn Tôn Thất Chương sai Vệ úy Ban trực là Mai Gia Cương đem 300 quân đóng giữ Thanh Bình và sai Văn Vân đem quân đi đánh dẹp. Bọn giặc lui giữ Yên Trị, chia làm ba đạo vây phủ Thiên Quan. Quản phủ Đào Văn Thành chống giữ để đợi viện binh. Tôn Thất Chương lại sai Vệ úy Cung võ là Lê Văn Sách, Phó vệ úy Hổ uy là Phạm Văn Xuân đem binh đến họp. Văn Vân tự đem binh của đạo tiến lên. Văn Thành thấy có viện binh đến, xuất binh giáp chiến, chém được hơn hai chục đầu giặc. Giặc thua to, bỏ cả khí giới, tranh nhau sang sông, chạy đến Yên Trị, dựa thế núi cố thủ. Quan quân đánh không được. Việc báo lên. Sai Chưởng hậu quân Lê Chất quản lãnh đại binh đi đánh. Thị trung học sĩ Lý Gia Du làm Tham tán quân vụ, Phó tướng Trần Quang Thái đem 50 chiếc binh thuyền đi theo. Lại sai Trấn thủ Nghệ An Trần Công Lại theo Chất đi đánh giặc và sai Quyền thủ Quảng Bình là Huỳnh Viết Toản thay lãnh việc trấn Nghệ An, Phó thống Hậu đồn tả quân là Lê Văn Luân Quyền thủ Quảng Bình. (Sơn Âm, Yên Trị, đều là tên xã, thuộc huyện Phụng Hóa).

Cấp lương hàng ngày cho phu trạm ở Thanh Nghệ. Vua cho là ở Thanh Bình hiện có phiến loạn, phu trạm chạy giấy khó nhọc, nên đặc biệt cấp lương.

Miễn dao dịch cho dân bảy phường ấp dinh Quảng Bình (4 ấp Tráng Tiệp, Hữu Tùng, Tả Tiệp, Tả Thắng; 3 phường Thuận Trạch, Chính An, Hữu Cai). Dân bảy phường này tổ tiên đều là người Thanh Nghệ, buổi quốc sơ dựng làm cơ đội thuyền, cho lệ vào đạo Lưu Đồn, chia giữ các đường hiểm yếu ở Trường Sa và Linh Giang (Buổi quốc sơ gọi người Thanh Nghệ là người Kinh, là người bản xứ). Những người già yếu tàn tật thải ra đều cho miễn lao dịch. Mùa hạ năm Tân dậu, lựa những người tinh tráng lập làm chín đội Thắng uy. Năm Gia Long thứ 2, đổi làm một vệ, những người già yếu ở dân lại phải chịu lao dịch. Đến nay bọn cai đội Nguyễn Văn Nguyệt và Phạm Công Tín viện lệ xin tha; lại thấy dân tản cư nhiều, cho gọi về hết, để bổ sung vào số binh thiếu của vệ. Vua đều y cho.

Tháng 5, đảng giặc ở Sơn Nam thượng lại nổi lên ở ứng Thiên và Khoái Châu, thế rất dữ. Thành thần lại sai Nguyễn Văn Xuyến cùng bọn Nguyễn Văn Hưng, Nguyễn Xuân chia đường đi đánh bắt. Văn Xuyến dẫn quân đến Kim Bảng, đánh giặc ở Phù Đề (tên xã), chém được tướng giặc và đồ đảng mười mấy đầu. Giặc cả thua chạy. Hưng và Xuân đến Khoái Châu, đánh nhau với giặc cũng thắng. Giặc chạy đến Sơn Nam hạ, tụ tập nhau ở các huyện ý Yên và Vọng Doanh. Ngô Văn Ngữ sai người do thám được tình hình của giặc, báo cho Thanh Hoa phát binh họp đánh, bèn dẹp yên.

Lấy Phó vệ úy vệ Chính võ là Trương Văn án làm Vệ úy vệ Tả bảo nhất.

Lấy Cai đội Tiền quân là Võ Văn Phượng quyền quản vệ Tiền bảo nhất, Nguyễn Văn Trượng quyền quản vệ nhị, Cai cơ Đỗ Văn Huy quyền sung Phó vệ úy vệ nhị, Chưởng cơ Nguyễn Văn Tải quyền quản hai vệ Minh uy và Túc uy.

Quảng Đức, Bình Định, Phú Yên bị hạn, lúa má tổn hại nhiều. Các dinh thần đem việc khám xét về số tổn hại tâu lên. Bầy tôi bàn 10 phần tổn 4 thì giảm cho 2 phần thuế, tổn 5 giảm cho 3 phần, tổn 6 giảm cho 4 phần, tổn 7 giảm cho 5 phần, tổn 8 giảm cho 6 phần, tổn 9 giảm cho 7 phần, tổn cả thì cho toàn miễn. Vua đặc ân chuẩn cho ruộng nào tổn từ 7 phần trở lên đều được miễn hết, còn thì y theo lời nghị.

Lê Chất đến Thanh Hoa, trước hết sai Quản phủ Thiên Quan Đào Văn Thành và Tri phủ Nguyễn Kim Giám chiêu tập các thổ tù, lấy uy đức của triều đình mà dụ khiến họ quy thuận. Khi tới Thanh Bình thì bọn thổ tù Cao Viết Miệt, Quách Công Chuyên, Quách Công Cát, Quách Công Quán, phụ đạo Quách Tự Tào, Quách Công Giá, 35 người đều đến quân thứ đầu hàng. Chất khoản đãi rất hậu, ý muốn để chiêu dụ Tất Thúc, nhưng Tất Thúc không chịu ra. Chất bèn chia quân làm ba đạo tiến đánh. Tất Thúc chạy trốn. Đuổi đến Sơn Âm, đốt trại rồi trở về. Chất nhận xin dùng bọn thổ tù phụ đạo quy phụ ấy, lập làm bốn thuận  hiệu tiền, tả, hậu, hữu, mỗi hiệu đặt chánh phó hiệu để cai quản. Vua giao xuống cho bầy tôi bàn, đều nói nên theo lời xin. Vua nói: “Bọn ấy mà cho lập danh hiệu riêng, sau này tất cùng nhau kết đảng, nên phòng ngừa ngay khi mới chớm, không nên nuôi cho lớn dần. Chi bằng chỉ trao cho chức hàm, sai giữ lấy đất để giữ chức phiên thuộc thôi”. Bèn cho bọn Cao Viết Miệt, Quách Công Chuyên 12 người làm phòng ngự sứ, bọn Quách Công Cát, Quách Tự Tào 10 người làm phòng ngự đồng tri, bọn Quách Tử Quán, Quách Công Giá 13 người làm phòng ngự thiêm sự. Chất lại đem danh sách thổ tù ở hai phủ Thiệu Thiên và Thanh Đô trấn Thanh Hoa là bọn Nguyễn Đình Đăng, Phạm Thúc Kiêm, Cao Viết Hùng, Lê Phi Giáp, Lang Công Hiển, Cẩm Bá Thiều, Văn Vi Kim, bọn phụ đạo là Cao Viết Chiêu, Hà Công Quán, Lê Phi Mại, Lê Phi Hợp, hơn 60 người dâng lên. Đặc biệt cho họ chức phòng ngự sứ, phòng ngự đồng tri và phòng ngự thiêm sự theo thứ bậc khác nhau.

Thổ phỉ ở Kinh Bắc cướp phủ Thuận An, Trấn thủ là Phạm Tiến Tuấn đem quân cùng giặc giao chiến ở các xã Bảo Khám và Thanh Hoài, thắng trận, đuổi chúng đến xã Bình Ngô. Vệ úy vệ Giản võ là Nguyễn Văn Thiện do Bắc Thành phái đem quân vừa tới, cùng hợp đánh. Giặc bỏ hết súng ống khí giới mà chạy.

Giặc biển Tề Ngôi đến cướp ở vùng sông Giá huyện Tiên Minh. Chưởng dinh Trương Tấn Bửu sai Chánh thống Thập cơ Trần Văn Thìn đem quân đi đánh. Thìn khinh suất tiến quân, bị giặc đánh úp. Tấn Bửu lại sai Chánh thống Hữu đồn là Bùi Văn Thái đến cứu viện, cùng giặc giao chiến phá được. Giặc dong thuyền chạy.

Thổ phỉ ở Mỹ Lương trấn Sơn Tây đánh úp bảo Cao Bộ. Phó đội thủ bảo là Nguyễn Danh Gia chống đánh, bị chết. Thành thần sai quyền quản vệ Tiền bảo nhị là Nguyễn Văn Trượng đem quân đánh dẹp. Giặc nghe tin quân đến, chạy sang Lâm Thao. Trượng đuổi theo kịp, bắt và chém được giặc rất nhiều.

Thổ phỉ ở Tiên Hưng trấn Sơn Nam hạ họp thuyền lẻn vào cửa biển Trà Lý, cướp bảo Diêm Hộ huyện Thanh Quan. Cai cơ thủ bảo là Nguyễn Bá Huề đem quân đánh, bắt được tướng giặc là Ninh và hơn bốn chục đồ đảng.

Các đám giặc ở Bắc Thành đã tạm bình, thành thần thấy quan quân các đạo đi đánh giặc trước sau hơn ba chục trận, bèn xét thứ tự công trạng, chia làm bốn bậc, lập danh sách tâu lên. Thưởng 30.000 quan tiền. Sai thành thần theo thứ bực mà cấp. Những người chết trận thì cấp tuất theo lệ.

Truy tặng Chưởng cơ quản vệ Minh uy là Lê Văn Tự làm Phó đô thống chế, Hiệp trấn Sơn Nam thượng là Nguyễn Khắc Khoan làm Hữu phó đô ngự sử Đô sát viện, Phó vệ úy vệ Tiền bảo nhị là Trương Công Lãm và Quản thủ Khoái Châu là Lê Đắc Kế làm Vệ úy, Quản phủ Xuân Trường là Đặng Văn Trinh làm Phó đồn Cai cơ, bọn Cai cơ Nguyễn Văn Quán, Trần Phước Tín, Dương Văn Lân, Huỳnh Văn Huề, Hà Văn Châu, Nguyễn Văn Hổ làm Chánh quản cơ, bọn Cai đội Lê Văn Hảo, Phan Văn Thi, Nguyễn Văn Diêu, Nguyễn Văn Thường làm Cai cơ ; bọn Cai đội Nguyễn Văn Thi, Nguyễn Văn Nhiêu, quyền sai cai đội Nguyễn Quân, phó đội Trần Văn Truật, Nguyễn Danh Gia, đội trưởng Trần Văn Sỹ, Ngô Công Vỵ hơn 30 người thì tặng chánh hiệu úy, cai đội, phó đội theo thứ bậc khác nhau.

Quan Bắc Thành lại tâu: “Vừa rồi giặc giã gây việc, bốn xã Cổ Tiết, Đồng Kỷ, An Vị, Lệ Bảo trấn Sơn Nam hạ, sáu tổng Cổ  Trai, Kỳ Vỹ, Cẩm Khê, Phú Khê, Kinh Khê, Tử Đôi trấn Hải Dương, có nơi thì dò thăm tin giặc để báo quan, có nơi thì xuất thóc để giúp quân, đều là biết yêu việc nghĩa làm việc công, mong gia ơn thưởng để tỏ khuyến khích”. Vua nhận lời tâu. Thưởng cho xã Cổ tiết 500 quan tiền, các tổng Cổ Trai, Kỳ Vỹ đều 100 quan, ba xã Đồng Kỷ, An Vỵ, Lệ Bảo bị giặc tàn phá thì hoãn cho binh dao 2 năm. Bọn tổng trưởng xã trưởng Đoàn Đăng Lộc, Phạm Trữ 14 người đều cấp cho bằng sắc.

Trước là giặc giã ở Bắc Thành mượn tiếng tôn nhà Lê nên dân ngu nhiều người bị mê hoặc. Nguyễn Văn Thành sai Trần Hựu làm bài hát “Điểm mê”, dùng lời quốc âm để hiểu thị. Khi ấy trong hạt lại có người làm bài hát “Tố khuất” quy cho bọn  quan lại tham nhũng nên sinh giặc. Thành lại sai sở tại rộng mở hiểu dụ. Từ đó lòng dân mới yên.

Những người công tính ở Thanh Hoa và Bắc Thành hơn 140 người về Kinh chầu hầu. Vua ban thưởng cho quần áo và tiền gạo theo thứ bậc. Rồi cho bọn Nguyễn Hựu Thanh, Nguyễn Hựu Thự 69 người làm đội trưởng, sai họ về mộ dân ngoại tịch làm thuộc binh, lệ thuộc quan địa phương sai khiến, hằng tháng cấp cho tiền gạo (mỗi người tiền 2 quan, gạo 1 phương 15 bát).

Quan Bắc Thành là bọn Nguyễn Văn Thành, Trương Tấn Bửu, Phạm Như Đằng, Đặng Trần Thường dâng sớ trình bày năm điều: ) Dẹp giặc cướp cho yên dân.) Truy sùng điển thờ.) Tăng lương cho quan lại để dưỡng liêm.) Định niên khóa để xét công quan lại.) Thông hành tiền Gia Hưng cho dân tiêu dùng được dồi dào. Việc giao xuống cho bầy tôi bàn bạc. Nguyễn Văn Nhơn cho rằng các thành thần ở đấy lâu ngày, hiểu rõ sự thể, nên những lời trình bày đều có thể thi hành được.

Vua nói: “Một khoản tăng lương, có chỗ bất tiện, vì lộc là máu của dân, triều đình dùng để đãi kẻ có tài năng, há nên khinh thường quá lạm. Trẫm thường xem các đời toàn thịnh trước kia đều định lộc có phép, đến sau suy kém mới bóc lột dân để cung cấp cho quan, bọn nhũng lạm rất nhiều, cuối cùng sinh ra biến loạn, lẽ nào lại lấy đó làm khuôn phép mà không phòng tệ lớn dần”. Bèn bỏ khoản tăng lương, còn các điều khác cho châm chước thi hành.

Định lệ may cấp quần áo và mũ da cho hai thuyền An Lão (Hai thuyền An Lão hầu chực ở Nguyên miếu, áo quần cứ 5 năm một lần may cấp cho, mũ da thì rách nát mới đổi).

Sai dinh Quảng Nam kén chọn 600 người tinh tráng trong dân biệt nạp sắt sống (Biệt nạp sắt sống có tám xã thôn, số dân 1.530 người), biên bổ là 12 đội, vẫn cho ở quê quán làm ăn, khi có việc mới gọi.

Giặc biển Tề Ngôi lại đến cướp các ấp Hoàng Châu, An Phong (thuộc huyện Nghiêm Phong) trấn Yên Quảng. Trấn thần sai quản cơ Võ Văn Kế đem binh đi đánh, chém được vài đầu giặc, bắt mười mấy người, giặc tan chạy. Tống Phước Lương chia sai binh thuyền đi tuần xét, đánh bại quân giặc ở cửa Liêu, bắt được bọn giặc là Nguyễn Văn Thung 7 người và 4 chiếc thuyền. Thế giặc cùng quẫn. Đồ đảng là bọn Lương Kim Ngọc, Trần Thế Dịch đem 2 chiếc thuyền và hơn 70 người thủy thủ vào đầu thú ở Nghệ An. Trấn thần tâu lên. Vua sai tha tội và cho an tháp ở phố Thanh Hà.

Tháng 6, lại lấy Lưu Phước Tường làm Lưu thủ Quảng Bình, triệu Lê Văn Luân về Kinh.

Đổi chức chánh cai huyện các huyện thuộc Quỳ Châu và Trà Lân làm cai huyện, phó cai huyện làm ký huyện. Trấn thần Nghệ An thấy bọn chánh phó cai huyện ở bốn huyện thuộc phủ Trà Lân (Kỳ Sơn, Hội Nguyên, Tương Dương, Vĩnh Hòa) và hai huyện thuộc phủ Quỳ Châu (Trung Sơn, Thúy Vân) làm việc lâu ngày, nên tâu xin ban sắc cho họ. Vua y cho. Nhân hạ lệnh đổi chức cho hợp với quan chế.

ở Quảng Nam giặc nổi, cướp bóc dân cư và thuyền buôn. Đình thần sai Cai đội Cao Văn Tiềm dò bắt, bắt được đầu đảng là tên Hội và bè lũ rất nhiều. Dân các xã Ngọc Sơn, Tiên Mỹ cũng bắt được bọn giặc đem nộp. Thưởng cho Văn Tiềm 150 quan tiền và dân các xã 100 quan.

Hoãn việc kiếm nộp cây gỗ cho dân Nghệ An. Vua thấy năm hạn dân đói nên hoãn cho.

Định lại thuế dầu biệt nạp ở Nghệ An. Dân Nghệ An phải biệt nạp dầu sơn, không phải là thổ sản. Trấn thần đem việc tâu lên, bèn định lại, cho nộp dầu nước (Lệ trước, mỗi người mỗi năm nộp 10 bát dầu sơn, đổi lại cho mỗi năm nộp 15 bát dầu nước).

Giảm thuế vải cho dân Vu Đảo [Hòn Khoai, đảo Phú Quý] thuộc Bình Thuận. Vu Đảo có 11 thôn, ở xa ngoài biển, đất xấu dân nghèo, chuyên trồng lúa đỏ và khoai nương để sống. Năm ất mão mới lập làm đội biệt nạp vải trắng, cứ hằng năm phải nộp thuế bằng vải. Đến nay, vua cho là nặng, sai châm chước định giảm cho. (Lệ trước tráng hạng mỗi người nộp 7 tấm vải, lão tật 4 tấm, nay giảm cho tráng hạng nộp 4 tấm, lão tật 2 tấm 15 thước).

Bỏ thuế nón trắng cho dân Bình Định (Dân đội nón trắng có 20 người, lệ nộp thuế nón trắng mỗi người 1 chiếc) và tuyển dân làm lính.

Bọn Phó tướng Trung quân là Nguyễn Văn Vân, Lưu thủ Biên Hòa là Nguyễn Văn Triêm, Cai bạ Phiên An là Nguyễn Công Hạc, đốc suất những thuyền vận tải ở Gia Định về Kinh, nhiều thuyền bị mục dò nước. Vua nghe tin quở rằng: “Thuyền ghe vận tải đường biển là của cải nhà nước ở đó. Bọn ngươi không hay xem xét, nhỡ có sự bất trắc thì không hỏng việc ư”. Hạ lệnh đánh roi để khiển trách.

Sai trấn thủ Nghệ An là Trần Công Lại trở về trấn, triệu Huỳnh Viết Toản về Kinh.

Thả các quân ở Bắc Thành về. Trong khi đi đường, ai đau ốm thì sai quan sở tại cấp cho thuốc men, lại phát cho tiền gạo đủ dùng.

Đặt thêm trạm Thuận Biên ở Bình Thuận.

Tên giặc trốn ở Tuyên Quang là Hoàng Phong Bút họp đảng ở Tụ Long (tên đất, thuộc châu Vị Xuyên) mưu lại nổi loạn. Trấn thần dò biết tin, sai Vệ úy vệ Trinh võ là Lê Văn Thái đem binh cùng với thổ tù là Ma Sĩ Trạch vây bắt, chém được quân sư ngụy là Cam, tiên phong là Thiều, bắt được đồ đảng rất nhiều. Quan Bắc Thành đem việc tâu lên. Ban mũ áo cho Văn Thái và Sĩ Trạch, lại cất Sĩ Trạch làm Tuyên úy đại sứ và thưởng cho biền binh đi đánh 300 quan tiền, cho thổ tù thổ binh 1.000 quan tiền.

Tháng 6 nhuận, hạ lệnh từ nay, ngày mồng 1 và ngày rằm tháng nhuận thì miễn thiết triều.

Vua đến Thai Dương xem lũy cũ của giặc Tây Sơn. Rồi đi thăm Trung Đan, quan La Duy, An Tiêm, đến sông Thạch Hãn, (Trung Đan, La Duy, An Tiêm, Thạch Hãn đều là tên xã thuộc tỉnh Quảng Trị), ngắm xem hình thế, cùng bầy tôi bàn đào kênh mới. Vài ngày vua trở về, ban tiền cho các quân theo hầu theo thứ bậc khác nhau.

ấm thụ cho Xuân Hoán là con Hồ Xuân Quang tham mưu Vọng Các làm nho học huấn đạo.

Giảm thuế thân cho dân Lạc Thổ đạo Thanh Bình. Đời Lê trước thuế thân của dân Lạc Thổ mỗi người là 1 quan 2 tiền; đến đời Ngụy Tây thu bội 3 lần, nặng quá dân không chịu nổi. Đến nay bèn hạ lệnh cho nộp theo lệ cũ, cũng bằng dân hai huyện Yên Hóa và Phụng Hóa.

Phố chợ ở ngoại thành Nghệ An thất hỏa, cháy lan ra hơn 280 hộ. Mỗi hộ được cấp một phương gạo.

Ký lục Bình Thuận là Hồ Tiến Chân vì hà khắc bị bãi chức; lấy Thiêm sự Công bộ là Hoàng Đình Hóa thay làm Ký lục.

Hiệp trấn Nghệ An là Hoàng Ngọc Uẩn dâng sớ xin về quê thăm cha mẹ. Vua y cho. Lấy Cai bạ Quảng Ngãi là Ngô Đình Siêu làm Hiệp trấn Nghệ An, Thiêm sự Lại bộ là Nguyễn Hữu Thận làm Cai bạ Quảng Ngãi.

Vét sông Dương Xuân. Vua tới xem, thưởng tiền cho biền binh theo thứ bậc khác nhau.

Trấn thủ Sơn Nam thượng là Võ Doãn Văn thiện tiện thả tù trộm cướp và chiếm ruộng đất của dân xiêu tán. Việc phát giác. Sai trói giải về Kinh trị tội. Lấy Phó thống Tiền đồn là Nguyễn Xuân làm Trấn thủ Sơn Nam thượng.

Lấy Thiêm sự Hình bộ là Hoàng Tử Cao làm Hiệp trấn Sơn Tây, Tri phủ Khoái Châu là Nguyễn Văn Lễ làm Hiệp trấn Cao Bằng.

Lấy Phạm Văn Tín làm Vệ úy vệ Thắng uy Thị nội.

Vua thấy địa phương Thanh Bình đã tạm yên ổn, xuống chiếu cho Lê Chất đem quân về.

Triệu Quản đạo Thanh Bình là Lương Văn Vân và Tham hiệp Nguyễn Bảo về Kinh; lấy Vệ úy Kiên uy là Đào Duy Dụng, Tham hiệp Nghệ An là Thái Văn Nguyên thay chân. Lại lấy Tri phủ Đức Quang là Nguyễn Văn Uyên làm Hiệp trấn Nghệ An.

Thổ phỉ Thái Nguyên vây bảo Bắc Cạn. Trấn thủ Nguyễn Đình Tuyển phát binh đánh dẹp, chém được hơn sáu chục đầu giặc. Việc tâu lên. Thưởng cho 2.000 quan tiền.

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển XXXVI – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Mậu thìn, Gia Long năm thứ 7 [1808], mùa thu, tháng 7, ngày mồng 1, tế thu hưởng.

Vua rước hoàng thái hậu đi xem đánh cá ở sông Dương Xuân.

Xuống chiếu lấy Quảng Đức, Quảng Nam, Quảng Trị, Quảng Bình làm bốn dinh trực lệ, đổi dinh Quảng Ngãi làm trấn Quảng Ngãi, dinh Bình Định làm trấn Bình Định, dinh Phú Yên làm trấn Phú Yên, dinh Bình Hòa làm trấn Bình Hòa, dinh Bình Thuận làm trấn Bình Thuận.

Ban ấn đồng cho các dinh trấn từ Quảng Bình trở về Nam. (Dinh thì khắc chữ “Mỗ dinh chi chương”, trấn thì khắc chữ “Mỗ trấn chi chương”, gồm năm chữ).

Triệu Tống Phước Lương về Kinh. Sai Bắc Thành giải tù giặc biển là bọn Trương á Nhị, Mông Kiến Sinh, 37 người sang nước Thanh.

Nước Chân Lạp sai sứ đến dâng sản vật địa phương và dâng biểu xin cho thuyền buôn các nước thông tới Nam Vang. Vua bảo Hộ bộ rằng: “Người Hán [Việt] và người Di buôn bán với nhau, vốn là để cho nơi có thông với nơi không, nhưng bờ cõi có giới hạn thì trong ngoài cũng phải nghiêm phòng”. Sắc rằng phàm thuyền buôn của người Thanh hay người Chà Và muốn đi Nam Vang để đổi chác hàng hóa đều cho, duy người Gia Định thì phải có bằng cấp  của thành mới được đến buôn, tự vượt riêng nơi quan tấn thì cấm không cho.

Định lại phép duyệt tuyển. (Phàm chức sắc, người nào đã kính được nhận sắc son, bằng son, chiếu ban, chỉ sai, chỉ truyền và giấy công đồng phó, cùng là kính được nhận bằng son về từ chỉ của cung Trường Thọ hay ý chỉ của cung Khôn Đức, thì đều phải đến kỳ tuyển đem trình xét, không có thì trở về tráng hạng. Duy người làm quan xa hoặc đi thú xa thì được miễn. Các quan viên văn võ, từ tứ phẩm trở lên, và quan viên dự công Vọng Các từ cửu phẩm trở lên, thì các con đều được ghi làm quan viên tử; quan viên tử con quan văn võ nhất, nhị, tam phẩm và quan viên tử con công thần Vọng Các, đều được miễn binh dao và thuế thân; quan viên tử con quan văn võ tứ phẩm chỉ miễn binh dao thôi. Người dân đến tuổi và dân mới trở về quê quán mà tuổi 18, 19 thì ghi làm hạng tráng, hạng quân, hạng dân mới tục. Người có nhà ở hay ở ngụ thì ghi làm hạng gia cư hay ngụ cư. Tuổi 55 trở lên đến 60 tuổi thì xã trưởng phải dẫn đến trường để ứng tuyển, quan khâm mạng xét tuổi và diện mạo để cho làm lão hạng hay lão nhiêu. Phàm người mang tật thì cho làm hạng nhiêu tật, hạng tàn tật. Tuổi từ 30 trở lên đến 55, mà thân hình lùn bé, không đầy 3 thước trở xuống, cho làm hạng tiểu nhiêu. Các cục tượng thì không dự lệ tuyển. Những hạng lão và tật do Binh bộ xét nghiệm đúng thực thì chuẩn cho được miễn trừ hẳn. Các vật cung ứng ở tuyển trường thì cứ chiếu mỗi tên trong sổ mà đóng 10 đồng tiền, trong số đó lấy 1 đồng làm tiền giấy sổ giao xuống).

Duyệt tuyển từ Quảng Nam trở về Nam đến Gia Định. Sai bọn Chưởng quân Nguyễn Văn Nhơn, Hình bộ Nguyễn Tử Châu, Phó đô thống chế Huỳnh Viết Toản, Tham tri Công bộ Nguyễn Khắc Thiệu, Vệ úy Thị trung Huỳnh Công Lý, Tham tri Công bộ Lê Cẩn, Vệ úy Thị trung Trần Đăng Long, Tham tri Công bộ Nguyễn Đức Huyên, Lưu thủ Phú Yên Lê Văn Vạn, Ký lục Bình Hòa Kiều Công Tuấn, Lưu thủ Bình Định Vương Văn Học, Cai bạ Quảng Nam Nguyễn Tường Vân, Lưu thủ Quảng Nam Tôn Thất Huyên, Cai bạ Quảng Đức Trương Minh Thành, cộng 14 người, chia đi các nơi. Còn ba dinh Quảng Đức, Quảng Trị, Quảng Bình, mùa màng đương bận, hoãn sang năm sẽ làm.

Đắp đập Hà Trữ (tên phường, thuộc huyện Phú Lộc). Vua thấy đất ấy gần biển, thường bị nước mặn thấm vào, sai Giám thành phó sứ Nguyễn Đức Sĩ cùng với dinh thần Quảng Đức đi xem xét đo đạc, đắp đập để ngăn [nước mặn], nông dân lấy làm tiện lợi.

Sửa Nguyên miếu.

Định lệ Bắc Thành chi cấp lương bổng cho biền binh lưu thú. (Phàm người dự có lương bổng mỗi tháng tiền 1 quan 5 tiền, gạo 1 phương 15 bát trở lên, thì không kể tháng đủ hay tháng thiếu, đều tính tháng cấp phát; tháng nhuận thì mỗi tháng chỉ phát tiền 1 quan, gạo 1 phương. Người chỉ có gạo 1 phương mà không có tiền thì tháng nhuận cũng cho chiếu phát, tháng thiếu thì khấu đi 1 ngày).

Vua thấy [đạo] Thanh  Bình thuộc về Thanh Hoa mà sổ binh lại thuộc về cơ Ngũ kích Tượng quân Bắc Thành, việc gọi phát không tiện, bèn sai thành thần theo số quân ba cơ Tiền Hậu Hữu quê ở Thanh Bình là 450 người, biên làm hai cơ Hữu Hậu, đổi đi thú ở Thanh Hoa; còn hơn 1.500 người quê ở các trấn thuộc Bắc Thành thì chia bổ làm ba cơ Tiền Trung Tả của Bắc Thành.

Hạ lệnh cho bốn dinh trực lệ từ nay chức huyện lệnh có khuyết thì dinh thần chọn cử, rồi đem tên tâu lên.

Đổi cho Chưởng Tượng chính Nguyễn Đức Xuyên làm Khâm sai chưởng Tượng quân lãnh Tượng chính.

Dinh thần Quảng Trị tâu rằng ba đội Tráng nhất, Tráng nhị, Tráng tam thuộc dinh ấy số binh kén có ít, xin mộ thêm dân ngoại tịch bổ sung.

Vua y cho.

Sai Phó vệ úy vệ Thần uy là Phạm Văn Châu kiêm Quản năm đội

Chấn sai.

Lấy Tham quân Lê Xuân Nghi làm Cai bạ Định Tường.

Tha thuế diêm tiêu và thuế thân năm nay cho đội Hùng diêm ở Bình Định. Vua thấy dân đội về Kinh làm việc và được sai đi việc quân ở Thanh Bình nên miễn cho.

Định lệ cấp lương cho lính mộ ở Bắc Thành. Trước đây các viên biền ở Bắc Thành mộ lập các hiệu đội nghĩa binh (các đội Kiên nhất, Kiên nhị, ở Binh tào; các đội Kiên hùng, Kiên thắng ở Hình tào, và các đội Tuần thành, Châu mã, Phong vân, Minh nghĩa, Phấn nghĩa, Toàn nghĩa, Cường nghĩa, Tín nghĩa, Thuận nghĩa, Trung nghĩa, Quy nghĩa, Chương nghĩa, ứng nghĩa, Chiêu nghĩa, Dực nghĩa, Dũng nghĩa, Hùng nghĩa, Hoài nghĩa, Kiên trung, Tương sai, Phấn dũng, Dương nghĩa, Hiệu nghĩa, ba chi Thuận nghĩa, Đồng nghĩa, Phấn nghĩa và ba hiệu Nghĩa thuộc) chưa có lương tháng, vì thế quan Bắc Thành tâu xin. Đặc biệt chuẩn cho phàm những người theo làm việc công ở thành ở trấn được sai khiến đi đóng giữ ở các đồn bảo thì cấp cho tiền gạo hằng tháng. (Quyền sai cai đội mỗi tháng tiền 1 quan 5 tiền, gạo 1 phương 15 bát; từ đội trưởng đến binh lính, thì tiền 1 quan, gạo 1 phương).

Khai mỏ bạc ở Thanh Hoa. Mỏ ở ba động Lò Thượng, Lò Hạ, An Khương thuộc châu Lang Chánh. Bọn người nước Thanh là Cao Hoành Đức, Hoàng Quế Thành xin khai, mỗi năm nộp thuế 100 lạng bạc.

Vua y cho.

Quan Bắc Thành tâu nói : “Trước đây lệ định các phủ lỵ đều chọn những chỗ đường sá trung độ, địa thế xung yếu ở những huyện kiêm lý của phủ mà lập. Các phủ Thiên Trường, Kiến Xương, Thái  Bình, Nam Sách, Hạ Hồng đã chọn đất dời phủ lỵ đến rồi. (Thiên Trường trước ở Nam Chân, dời sang Giao Thủy ; Kiến Xương trước ở Thư Trì, dời sang Vũ Tiên ; Thái Bình trước ở Phụ Dực, dời sang Đông Quan; Nam Sách trước ở Thanh Lâm, dời sang Chí Linh ; Hạ Hồng trước ở Gia Lộc, dời sang Tứ Kỳ). Nay còn các phủ lỵ Kinh Môn, Lỵ Nhơn, Tiên Hưng, Quốc Oai, Từ Sơn, Thường Tín, xin cũng lần lượt cho dời. (Kinh Môn trước ở Kim Thành, dời sang Giáp Sơn ; Lỵ Nhơn trước ở Nam Xang, dời sang Bình Lục ; Tiên Hưng trước ở Duyên Hà, dời sang Thần Khê; Quốc Oai trước ở Phượng Trì, dời sang Thụy ứng ; Từ Sơn trước ở Vinh Kiều, dời sang Thạc Quả ; Thường Tín trước ở La Phù, dời sang Hà Hồi. Phượng Trì, Thụy ứng đều là tên xã thuộc huyện Đan Phượng; Vịnh Kiều, Thạc Quả đều là tên xã thuộc huyện Đông Ngàn; La Phù, Hà Hồi đều là tên xã thuộc huyện Thượng Phước). Lại phủ Đoan Hùng kiêm lý [huyện] Tam Dương, mà phủ lỵ thì đóng ở Tây Quan, xin lấy Tây Quan làm phủ kiêm lý mà do tri huyện Tây Quan đổi bổ đi tri huyện Tam Dương”. Vua đều nghe theo.

Văn miếu làm xong. Ngày Bính tuất đặt thần vị Tiên sư [Khổng tử]. Sai Lễ bộ rước thần tượng chọn nơi đất sạch ở trong miếu chôn đi. Các bài vị tứ phối, thập triết, tiên hiền, tiên nho, bày theo thứ bậc thờ ở tả hữu và hai bên giải võ đông tây. Chế đồ thờ, định nhạc chương (dùng nhạc nhà Minh, tấu sáu lần). Văn vật một phen đổi mới rực rỡ. (Chính giữa miếu bày thần vị Chí thánh tiên sư Khổng tử; thờ phối phía đông : Phục thánh Nhan tử,

Thuật thánh Tử Tư tử ; thờ phối phía tây : Tôn thánh Tăng tử, á thánh Mạnh tử ; dãy bên đông thờ các tiên triết : Mẫn tử, rồi đến Nhiễm tử, Đoan Mộc tử, Trọng tử, Bốc tử ; dẫy bên tây thờ các tiên triết : Nhiễm tử, Tể tử, Nhiễm tử, Ngôn tử, Chuyên Tôn tử; giải võ bên đông thờ 31 vị tiên hiền, 17 vị tiên nho; đầu là Đạm Đài tử Diệt Minh, rồi đến Nguyên tử Hiến, Nam Cung tử Quát, Thương tử Cồ, Tất Điêu tử  Khai, Tư Mã tử Canh, Hữu tử Nhược, Vu Mã tử Thi, Nhan tử Tân, Tào tử Tuất, Công Tôn tử Long, Tần tử Thương, Nhan tử Cao, Nhưỡng tử Tứ Xích, Thạch tử Tác Thục, Công Hạ tử Thủ, Hậu tử Xử, Hề tử Dung Điểm, Nhan tử Tổ, Câu tử Tỉnh Cương, Tần tử Tổ, Huyện tử Thành, Công Tổ tử Câu Tư, Yên tử Cấp, Nhạc tử Khái, Địch tử Hắc, Khổng tử Trung, Công Tây tử Điểm, Nhan tử Chi Bộc, Thi tử Chi Thường, Tần tử Phi, rồi đến tiên nho là Tả tử Khâu Minh, Cốc Lương tử Xích, Cao Đường tử Sinh, Mao tử Trành, Đỗ tử Tử Xuân, Vương tử Thông, Âu Dương tử Tu, Châu tử Đôn Di, Trình tử Di, Trương tử Tái, Dương tử Trung Lập, Châu tử Hy, Lục tử Cửu Uyên, Thái tử Thầm, Hứa tử Hành, Trần tử Hiến Chương, Vương tử Thủ Nhơn; giải võ bên tây thờ 31 vị tiên hiền, 16 vị tiên nho: đầu là Bật tử Bất Tề, rồi đến Công Dã tử Tràng, Công Triết tử Ai, Cao tử Sài, Phần tử Tu, Công Tây tử Xích, Lương tử Chiên, Nhiễm tử Nhu, Bá tử Kiền, Nhiễm tử Lý, Tất Điêu tử Đồ Phụ, Tất Điêu tử Xá, Thương tử Trạch, Nhâm tử Bất Tề, Công tử Lương Nhu, Công tử Khiêm Định, Khiêu tửu Đan, Hãn Phụ tử Hắc, Vinh tử Cân, Tả tử Nhơn Sính, Trịnh tử Quốc, Nguyên tử Cang, Liêm tử Khiết, Thúc Trọng tử Hội, Cống Tây tử Dư Như, Khuê tử  Tốn, Trần tử Cang, Cầm tử Trương, Bộ Thúc tử Thừa, Thân tử Trành, Nhan tử Khoái; rồi đến tiên nho : Công Dương tử Cao, Phục tử Thắng, Khổng tử An Quốc, Đổng tử Trọng Thư, Hậu tử Xương, Hàn tử Dũ, Hồ tử Viên, Trình tử Hạo, Thiệu tử Ung, Tư Mã tử Quang, Hồ tử An Quốc, Lã tử Thổ Khiêm, Trương tử Thức, Chân tử Đức Tú, Tiết tử Huyên, Hồ tử Cư Nhơn).

Lấy sở miếu cũ làm đền Khải thánh. (Gian chính giữa đền là vị Khải thánh công ; thờ phối bên đông: các tiên hiền Nhan thị và Khổng thị ; thờ phối bên Tây : các tiên hiền Tăng thị và Mạnh Tôn thị ; dãy bên đông thờ tiên nho : Trình thị Hướng, rồi đến Thái thị Nguyên Đình ; dãy bên tây thờ tiên nho : Châu thị Tùng, rồi đến Châu thị Phụ Thành).

Hạ lệnh cho Văn miếu các địa phương đều đặt thần vị Tiên sư để thờ. Nơi nào trước có thần tượng thì chọn chỗ đất sạch mà chôn đi.

Đốc trấn thần Thanh Hoa dâng sớ tâu về công trạng của những người dự việc bắt giặc ở Thanh Bình. Hạ lệnh cho Quản phủ Thiên Quan là Đào Văn Thành làm Vệ úy vệ Nhuệ phong, Tri phủ Nguyễn Kim Giám làm Điển quân vệ Thần võ, đều giữ bản chức mà lãnh việc phủ. Thưởng cho biền binh 2.600 quan tiền, cho thổ tù thổ binh 400 quan tiền. Người chết trận được tiền tuất và truy tặng theo thứ bậc khác nhau. Bọn Lương Văn Vân và Mai Gia Cương tuy có chiến công, nhưng không biết ngăn cấm quân lính cướp bóc, đều không được dự thưởng.

Tháng 8, tế thu ở Văn miếu. Vua thân làm lễ.

Lấy Cai bạ Quảng Đức là Trương Minh Thành làm Hữu tham tri Hộ bộ, Thị trung học sĩ Lý Gia Du làm Cai bạ Quảng Đức.

Lấy Phó vệ úy vệ Uy võ là Trần Phước Trung làm Vệ úy vệ Dương võ, Nguyễn Văn Lượng làm Phó vệ úy vệ Uy võ, Cai cơ Đặng Hữu Chất làm Vệ úy vệ Thành võ.

Lấy Cai cơ Nguyễn Văn Thiêm làm Thủ ngự Hải Vân quan, Tri bạ Trần Đại Nghĩa làm Hiệp thủ cửa Eo.

Lấy Hàn lâm chế cáo Trần Vân Đại làm Thiêm sự Lại bộ, Tri phủ Ngô Lương Uyển làm Hàn lâm chế cáo.

Triệu Thống quản đồn Xiêm quân là Nguyễn Văn Tồn đem bọn trưởng chi trưởng hiệu quân sở bộ về Kinh. Đến nơi, thưởng cho tiền theo bực khác nhau, ở hơn một năm rồi cho về.

Lấy Nguyễn Văn Thành làm Quản cơ cơ Hữu tiệp Tiền quân, Trần Văn Muộn làm Phó quản cơ cơ Trung tiệp, Lê Huy Tích làm Phó quản cơ cơ Hậu kính.

Vua rước hoàng thái hậu đi xem thủy quân đua thuyền.

Miễn binh dao cho dân thợ đúc ở Quảng Ngãi, sai lệ theo Nhà đồ để làm việc.

Ban sắc và mũ áo cho bọn Huỳnh Văn Linh, Cai đội đội An bộ và Trần Quang Lượng, Cai đội đội Cường bộ ở nước Chân Lạp, theo thỉnh cầu của vua Phiên Nặc Chăn.

Thổ phỉ ở Kinh Bắc hơn 500 người cướp bóc ở ba xã Tiên Lục, Mỹ Lộc, Hoàng Hà thuộc phủ Lạng Giang. Bọn thổ hào Trần Thế Hanh, Trần Bá Liêu, Nguyễn Bá Điều tự đem đinh tráng đón đánh, bắt được 4 đồ đảng và chém được hơn năm chục thủ cấp. Thành thần tâu công trạng. Thưởng cho 500 quan tiền và 15 tấm nhiễu.

Thành thần Gia Định tâu rằng : “Danh hiệu phủ huyện ở các trấn đã thay đổi, xin đặt mỗi huyện một tri huyện để làm việc huyện”. Vua theo lời. Sai xem xét địa thế để lập các huyện nha. Lại thấy buổi đầu mới chia đất, công việc nên theo đơn giản, sắc rằng các đạo Long Xuyên, Kiên Giang, Đông Khẩu, Đồng Môn, Hưng Phước, Trấn Giang thuộc về địa giới huyện nào thì không phải đặt huyện nha nữa, vẫn cho quản đạo kiêm lý công việc của huyện.

Hạ lệnh cho các thành dinh trấn đạo đều xét trong hạt giá gạo đắt rẻ, tình hình công việc làm ruộng và nắng mưa thế nào, mỗi tháng tâu một lần, duy sáu trấn ngoại ở Bắc Thành thì ba tháng tâu một lần.

Hạ lệnh cho hai bộ Hộ Binh họp làm sổ đinh điền ở bốn dinh trực lệ.

Cho phép thiêm sự sáu bộ từ nay được lên điện tâu việc.

Dân ở hai thôn Tân Khánh và Lâm An thuộc đạo Long Xuyên kiện nhau về ruộng. Thành thần Gia Định thấy hai thôn đều không có sổ điền, ruộng thì ở Tân Khánh mà Lâm An thì trưng trước, lâu mãi không giải quyết xong, bèn đem việc tâu lên. Vua nói : “Tân Khánh tuy chưa có sổ điền, nhưng địa giới hai thôn ấy đã định rõ rồi thì Lâm An sao có thể tranh được”. Hạ lệnh lấy ruộng ấy cho về Tân Khánh.

Định rõ điều cấm về bưu chính. Phàm các thành dinh trấn giải đệ đồ vật công, hay nhân việc công mà phát trạm thì không được quá 30 người. Nếu vật nhiều thì dùng binh để hộ tống. Nhà trạm lấy ấn chương làm tín, ai dùng triện riêng hay bắt riêng, nếu là quan thì xử biếm, dịch mục mà nghe theo thì xử tội đồ. Người sai phái nếu dọa nạt đòi cấp một phu trạm trở lên thì xử 100 roi. Duy việc quan hệ quân cơ, có tin hỏa tốc thì phải phát ngay, không câu nệ lệ này.

Tướng giặc ở Sơn Nam hạ là Phạm Duật ra thú. Hạ lệnh tha tội, thả cho về. Nhân hạ lệnh cho Bắc Thành từ nay có giặc giã ra thú đều cho khoan tha. Do đó đảng giặc ra đầu thú rất nhiều.

Sai Phó đô thống chế Đào Văn Lương Quản thủy quân Nghệ An.

Quảng Bình bị lụt, người và súc vật chết đuối nhiều. Sai dinh thần phát thóc kho cho dân nghèo vay, mỗi người 3 hộc.

Tháng 9, trấn thần Nghệ An tâu nói: “Số muối và mây nước ở trong kho trấn tích trữ đã lâu năm, xin từ nay hai hạng thuế ấy cho dân được nộp thay bằng vải và tiền.” (Muối nộp thay bằng tiền, mỗi người 6 quan, mây nước nộp thay bằng vải, mỗi người 2 tấm). Vua y cho.

Lấy Nguyễn Hữu Trung làm quản cơ cơ Tả hùng quân Thần võ, Nguyễn Văn Chiêm làm phó quản cơ cơ Hậu hùng.

Binh mười đội của cơ Võ lực ở Sơn Nam hạ trốn và chết mất nhiều, sai dồn làm bốn đội, mỗi đội đặt một cai đội để quản suất.

Bắt đầu đặt chức Tổng trấn thành Gia Định. Triệu Nguyễn Văn Trương về, lấy Nguyễn Văn Nhơn làm Tổng trấn Gia Định, Trịnh Hoài Đức làm Hiệp tổng trấn. Ban ấn Tổng trấn thành Gia Định (ấn bạc núm hình sư tử).

Lấy Quản cơ Võ Văn Kế làm Trấn thủ Yên Quảng.

Lấy tiến sĩ triều Lê là Nguyễn Tuấn Lý làm Đốc học Kinh Bắc, hương cống Lý Trần Tấn làm Trợ giáo.

Lấy Vệ úy Hữu bảo là Phạm Danh Văn và Phạm Văn Lý làm Chưởng cơ, Phó vệ úy Lê Quang Tích làm Phó quản cơ Hữu thắng.

Dinh thần Quảng Nam tâu nói: “Dân ở nguồn Hữu Bang mỗi năm phải nộp 1.000 cân nhựa trám, xin cho theo như lệ nguồn Ô Da, mỗi 100 cân nhựa trám nộp thay bằng 5 quan tiền”. Vua y cho.

Mùa đông, tháng 10, ngày mồng 1, tế đông hưởng.

Sửa đắp thành trấn Sơn Tây.

Sai Thượng bảo khanh Trần Đình Trưng và Thị thư Nguyễn Khoa Minh họp nhau làm công việc cửa quan và khai mỏ ở Bắc Thành.

Sai lấy hương cống bổ tri huyện ở các huyện. Tri huyện ở Bắc Thành có khuyết, thành thần dâng sớ xin cử những người từ hàn để sung bổ.

Vua không cho, bảo các quan hầu rằng : “Chức huyện lệnh là bực thầy bực tướng của dân, có thể dùng những người tẹp nhẹp được ư? Nay những người mới đỗ hương cống còn chưa bổ quan, cho họ thử việc hành chính trị dân, cứ chọn ở đấy”. Bèn hạ chiếu cho Bắc Thành và Thanh Nghệ đều lấy hương cống mà bổ tri huyện. Và dụ cho họ biết ý dụng người của triều đình để họ giữ gìn nề nếp quan trường, thận trọng danh phận. Rồi ban cho phẩm phục và cho binh đưa đi nhậm chức. Từ đó việc chọn huyện lệnh càng trọng.

Sai Đô thống chế  Thủy quân Tống Phước Lương, Vệ úy Thị trung Trần Đăng Long, Thiêm sự Lễ bộ Nguyễn Đình Khoan đáp 50 chiếc thuyền ô đi Gia Định rước quan tài Duệ tông Hiếu định hoàng đế và quan tài Mục vương Anh duệ hoàng thái tử. Sai thành thần Gia Định đem quan thuộc đưa tới bến. Các dinh trấn từ Bình Thuận đến Quảng Đức đều đặt hương án ở cửa biển bái tống. Hoàng tử thứ hai là Thiếu úy Hy, hoàng tử thứ ba là Tuấn, chiêu dung là Lâm thị và Nguyễn thị, Tống quốc công phu nhân là Lê thị, Thái sư Tôn Thất Đồng, Thiếu phó Tôn Thất Chí, Tôn Thất Xuân, Thái phó Tôn Thất Huy, Tiền quân Tôn Thất Hội và những người Tôn thất chết ở Gia Định, đều đem quan tài về chôn.

Lấy Phó vệ úy Lê Tấn Bửu làm Giám đốc cục Đúc tiền ở Bắc Thành.

Chuẩn định từ nay các nha môn hỏi việc hình, phàm các án nặng thì phủ huyện kết nghĩ trước, thượng ty địa phương xét lại, Hình bộ thẩm duyệt, nếu có chỗ khác nhau thì đem cả hai thuyết tâu lên. Còn những tội hơi nhẹ thì nha môn sở tại phải xử trí ngay, không được giam giữ khổ dân.

Sai Tham tri Công bộ Nguyễn Đức Huyên, Vệ úy Phấn dực Phạm Văn Tường theo Tống Phước Lương đi Gia Định, coi việc chế tạo 60 chiếc thuyền ô và thuyền lê.

Đặt đồn Thủy quân Bắc Thành ở Nông Giang (thuộc huyện Duyên Hà). Thành thần là Nguyễn Văn Thành đi kinh lược các trấn, xem địa thế, đặt đồn thủ, thấy sông Nông Giang là nơi giáp giới Sơn Nam thượng, Sơn Nam hạ và Hải Dương, xin dời đồn thủy ở Hàm Giang đến đấy. Lại đặt bảo Thụy Anh ở Sơn Nam hạ, bảo Xuân Cát ở Hải Dương, đều giữ những nơi trọng yếu để nghiêm việc phòng bị. Vua đều theo lời.

Lấy Khâm sai chưởng cơ chánh thống Hậu đồn quân Thần võ là Nguyễn Văn Hưng làm Chánh quản thập cơ Ngũ hùng Ngũ dũng.

Hạ lệnh cho nước Chân Lạp nộp trả các ấn thông hành ngự tứ. Các lái buôn Chân Lạp thì dùng ấn của quốc vương.

Nguyễn Huỳnh Đức tâu xin khai khẩn hơn 30 mẫu ruộng hoang ở trại Phương Lang huyện Phù Ly. Vua y cho và cho miễn thuế.

Tháng 11, truy tặng Tống quốc Công phu nhân là Lê thị làm Quốc phu nhân, thụy là Thục thận (năm Minh Mệnh thứ 13 [1832], gia tặng là Quy quốc nhất phẩm phu nhân). Lại sai dựng từ đường ở An Quán, thờ ba đời của Quốc phu nhân.

Sai đình thần chọn cử quan ty sáu bộ để bổ thư ký, cai án, tri bạ các dinh trấn.

Sai Lưu thủ Tống Phước Ngoạn và Thượng bảo thiếu khanh Phạm Nhữ Phong sung chức chánh phó sứ sang Xiêm. (Tặng Phật vương 2 cân kỳ nam, 3 cân quế 100 tấm lụa, 300 tấm the, 100 tấm vải đen, cho vua thứ hai 1 cân kỳ nam, 2 cân quế, 50 tấm lụa, 200 tấm the, vải đen và vải trắng đều 50 tấm).

ấm thụ cho cháu Tôn Thất Khê là Tôn Thất Lễ làm đội trưởng, cho cháu Chưởng dinh Tống Hữu Thanh là Tống Hữu Danh làm thứ đội trưởng, cấp cho tự điền và mộ phu để giữ việc thờ tự.

Lấy Cai đội Nguyễn Văn Nguyệt làm Phó vệ úy vệ Thắng uy; cho Cai đội Lê Quang Hiến làm Cai cơ.

Lấy Lưu thủ Quảng Bình là Lưu Phước Tường làm Trấn thủ Kinh Bắc, Phó thống Hậu đồn Tả quân là Lê Văn Côn làm Lưu thủ Quảng Bình.

Phước Tường xin cho hơn 30 người cựu thuộc là biền binh thượng đạo đóng thú Nghệ An và Quảng Bình được  đi theo để sai khiến. Vua y cho.

Lấy Hàn lâm viện Nguyễn Văn Diên làm Thiêm sự Hộ bộ, Nguyễn Văn Thịnh làm Thiêm sự Công bộ, Võ Văn Nho làm Thiêm sự Binh bộ, Tham luận Trương Văn Trinh làm Hàn lâm viện thị thư, Tri bạ Nguyễn Văn Ngôn làm Hiệp thủ đạo Cam Lộ.

Sai Thiêm sự Hộ bộ là Nguyễn Công Tiệp đem Lệnh sử ty sáu bộ đi thanh tra tiền thóc các trấn thuộc Bắc Thành.

Lấy Thiêm sự Hộ bộ là Phan Tiến Thiện làm Hiệp trấn Kinh Bắc, Tri phủ Thái Bình là Hoàng Xuân Tú làm Tham hiệp. Trước đây Hiệp trấn Thái Văn Minh và Tham hiệp Nguyễn Văn Huỳnh lấy thóc kho 15.000 hộc. Đến khi Minh đổi đi Hưng Hóa, Lê Minh Huy thay làm Hiệp trấn, Hoàng mưu với Huy thu bội thóc của dân đem đền vào số thiếu đó. Việc phát giác.

Vua sai thành thần xét trị, lấy bọn Tiến Thiện thay chân. Sau án dâng lên, Minh và Hoàng đều bị tội chết. Huy bị bãi chức; quân và lại coi kho đều bị tội đồ.

Tháng 12, hạ lệnh từ Quảng Bình tới Bình Thuận hằng ngày ghi công việc của trấn, mỗi tháng tâu lên một lần.

Bình Hòa bị lụt.

Nghệ An đói. Trấn thần tâu xin hoãn bắt lính trốn, xét kiện vặt và đòi nợ tư. Vua đều theo lời, lại hạ lệnh hoãn thu cả các thuế tô dung năm nay.

Sai Hộ bộ Nguyễn Kỳ Kế và Tham tri Lại bộ Phạm Đăng Hưng hội tính số thóc gạo chứa kho trong ba năm từ Gia Định trở ra đến Thanh Bình, tâu lên vua biết.

Cho Nguyễn Hữu Tú chức hàm Hàn lâm. Cha Hữu Tú là Nguyễn Hữu Tôn, tiên tổ xưa là người huyện Chương Đức trấn Sơn Nam, theo Thái tổ vào trấn phương Nam, nhập tịch ở xã Mậu Tài huyện Phú Vang. Hữu Tôn sau thờ tiên triều, làm quan đến Lại bộ tri Kinh diên, kiêm Binh bộ Hình bộ và coi Tàu vụ. Hữu Tú đã được tập ấm bổ Hàn lâm viện, đến khi Tây Sơn nổi loạn, cùng chịu sai dịch với dân. Đến nay Hữu Tú đem việc tâu bày, nên có lệnh này.

Cho Vệ úy Nguyễn Văn Ngoạn là con Chưởng Trung quân Nguyễn Văn Trương lấy công chúa Ngọc Châu, Vệ úy Phạm Văn Tín là con Chưởng Hữu quân Phạm Văn Nhơn lấy công chúa Ngọc Quỳnh, Vệ úy Trương Phước Đặng là con cai cơ Trương Phước Tuấn lấy công chúa Ngọc Anh tiền hồi môn mỗi công chúa đều 30.000 quan, ghi làm lệ.

Cho nội giám Hà Đình Vịnh làm nội đội trưởng, suất các đội Hùng địch.

Cho dân Thanh Hoa và Thanh Bình đến vụ hạ sang năm thóc tô được nộp thay bằng tiền để tiện cho dân.

Ngày Quý mão, vua yết lăng Cơ Thánh.

Ngày Giáp thìn, làm lễ tế Chạp.

Tham tri Lại bộ kiêm quản Trường đà là Phạm Đăng Hưng dâng sổ hội kê về các hạng thuyền ghe năm nay của các dinh trấn. (Thuyền 3.460 chiếc, được ơn miễn thuế 78 chiếc, ứng việc vận tải 425 chiếc, được miễn vận tải 2.957 chiếc. Tiền nộp thay vận tải và tiền thuế bến hơn 17.700 quan. Từ nay lấy việc dâng sổ hội kê làm thường lệ).

Lễ bộ tâu rằng: “Trước nay đầu năm khai ấn duyệt binh, cuối năm yết lăng, tế chạp và khóa ấn, đều để tới kỳ mới chọn ngày lành. Nay xin lấy ngày nhất định”. Vua nghe lời tâu, chuẩn định mỗi năm cứ ngày mồng 7 tháng giêng thì khai ấn, sai quan xuất binh, ngày 13 tháng chạp yết lăng, 14 tế Chạp, 25 khóa ấn. Lấy sang năm là năm Kỷ tỵ bắt đầu.

Bãi chức Tri phủ hai phủ Trà Lân, Quỳ Châu và chức Tri châu châu Quy Hợp. Trước là lệ định phủ đặt quản phủ, châu đặt thủ ngự. Năm ngoái trấn thần tâu xin quyền đặt tri phủ tri châu. Đến nay bãi đi.

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển XXXVII – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Kỷ tỵ, Gia Long năm thứ 8 [1809] (Thanh Gia Khánh năm thứ 14), mùa xuân, tháng giêng, ngày  Mậu thìn, tế xuân hưởng,.

Lấy Cai bạ Quảng Ngãi là Nguyễn Hữu Thận làm Hữu tham tri Lại bộ. Tham quân quân Thần sách là Trịnh Văn Thành làm Cai bạ Quảng Ngãi, Thiêm sự Hộ bộ là Trương Văn Ngoạn làm Ký lục Bình Thuận, Tri phủ Hà Trung  là Mai Đức Giai làm Thiêm sự Công bộ.

Quan Bắc Thành tâu rằng: “Dòng sông Đình Ngọ (tên xã) thuộc huyện Duyên Hà bị úng tắc đã lâu, xin lấy dân khơi đào cho thông với sông Hưng Na huyện Quỳnh Côi để lợi việc nông”. Vua y theo.

Quan Bắc Thành lại nói: “Thế nước sông Nhĩ Hà chảy xói, bờ sông ở Phước Tâm và Kiên Nghĩa (hai thôn thuộc phủ Hoài Đức) nên xây mỏ kè để chống nạn nước, xin lấy các quân ra làm”.

Vua nói: “Nhà nước nuôi quân cốt để phòng khi  có việc, sao lại động việc gì cũng bắt làm mệt nhọc”. Bèn sai thuê dân làm, chi tiêu 37.900 quan.

Thổ phỉ Hải Dương cướp ở tổng Yên Lãng (thuộc huyện Đông Triều), thổ hào là Nguyễn Đức Hậu đem dân chống đánh, chém được 9 đầu giặc, bắt được tướng giặc tên là Sĩ. Tổng Minh Nông (thuộc huyện Phù Ninh) trấn Sơn Tây cũng có thổ phỉ đi cướp bóc, thổ hào là Đinh Đăng Bạch và Đinh Văn Chiêu đem dân đuổi bắt được tướng giặc tên là Đinh chém đi. Dư đảng chạy tan hết. Thành thần đem việc tâu lên. Cho Đức Hậu và Đăng Bạch làm Phó tổng, Văn Chiêu làm Cai tổng và thưởng cho dân phu 500 quan tiền.

Trấn thủ Sơn Nam hạ là Ngô Văn Tham ốm được nghỉ việc; lấy Chánh quản thập cơ Tả quân là Nguyễn Văn Xuân làm trấn thủ Sơn Nam hạ:

Đặt Đê chính ở Bắc Thành, sai Binh bộ Đặng Trần Thường làm Tổng lý, Tham tri Công bộ là Nguyễn Khắc Thiệu làm Tham lý. Trước nay công việc đê điều thuộc về Hộ tào, thành thần cho rằng công việc hộ rất bề bộn, sợ khó kiêm coi được, tâu xin đặt quan để giữ việc ấy. Vua bèn cho Thường và Thiệu lãnh làm. Dụ rằng: “Sông có đê, đời sống của dân quan hệ ở đó, bọn ngươi phải kính cẩn nhé!”.

Chuẩn định đê điều các trấn thuộc Bắc Thành cứ tháng 10 hằng năm các quan phủ huyện trấn phải lần lượt đến khám, quan Đê chánh khám lại. Đê nào nên sửa đắp thì xét định công trình lớn hay nhỏ, thành thần xét công trình nhỏ thì giao cho phủ huyện lấy dân ở những nơi thế nước đến được mà làm, công trình lớn thì sai người hiệp cùng trấn thần thuê dân làm; đều khởi công vào khoảng hai tháng giêng và hai, hạn tới tháng tư thì xong. Quan Đê chánh khám đúng thực, do thành thần làm sổ vẽ đồ tâu lên.

Quan Bắc Thành tâu rằng: “Năm ngoái ở Sơn Nam hạ và Thái Nguyên giặc nổi, nhân dân sở tại có người dò báo đúng thực, có người ra sức chặn bắt, xin khen thưởng cho”. Vua sai chép danh sách, cho bọn Trịnh Công Tuần, Dương Đình Trượng, Nguyễn Phú Thuật, Nguyễn Đức Huy hơn mười người làm cai đội, đội trưởng, cai tổng, phó tổng, theo thứ bực khác nhau, và thưởng tiền 800 quan.

Đặt kho Hưng Phước ở Biên Hòa. Vua thấy Hưng Phước là nơi quan quân đi lại phải qua, nên chứa sẵn để phòng chi cấp. Bèn sai xây kho Khu My (tên đất), rồi thu thóc tô ở huyện Phước Yên chứa trữ vào đó.

Quảng Bình đói, sai phát thóc kho cho dân nghèo vay.

Đổi dựng miếu Lê Thánh Tông. Vua cùng bầy tôi bàn rằng: “Nước ta từ triều Lê về trước, từ châu Ô châu Lý vào Nam còn là đất Chiêm Thành. Lê Thánh Tông bình được Chiêm Thành, mở đất tới Phú Yên, dời dân đến ở, công mở mang đất đai thực bắt đầu từ đấy. Trước kia dựng miếu thờ là để nhớ công, nay nên nhân cũ mà sửa mới để làm nơi sùng tự”. Bèn sai họp thợ xây dựng, hơn một tháng thì miếu làm xong. Đặt 10 người miếu phu, lấy dân Phú Xuân sung vào, mỗi năm hai mùa xuân thu lấy ngày nhâm sai quan đến tế.

Làm duyệt tuyển ở ba dinh Quảng Đức, Quảng Trị và Quảng Bình.

Sai Vệ úy Thị trung là Trương Phước  Đặng, Tham tri Hộ bộ là Lê Viết Nghĩa, Phó đô thống chế quân Thần sách là Nguyễn Văn Trí, Tham tri Binh bộ là Nguyễn Quang Diệu, Vệ úy Hùng cự là Trần Văn Trí, Tham tri Hình bộ là Lê Bá Phẩm, chia nhau đi làm. Trước kia theo phép duyệt tuyển năm Gia Long thứ 2, người dân thân hình lùn bé không đầy 3 thước 5 tấc thì làm hạng tiểu nhiêu; năm thứ 7 lại định không đầy 3 thước mới cho là tiểu nhiêu, quan tuyển trường bèn đưa hạng tiểu nhiêu lần trước trở về tráng hạng. Đến nay sai để hết ở hạng tiểu nhiêu và chuẩn định từ nay về sau hễ người dân thân hình từ 3 thước trở xuống thì cho làm tiểu nhiêu. Nhân đó dụ cho bọn Phước Đặng rằng: “Phép tuyển duyệt của nhà nước vốn để biết rõ số dân mà chia đều phú dịch, chứ không phải lấy người già yếu để hư trương con số làm gì. Bọn ngươi nên cẩn thận đấy”.

Quan Bắc Thành tâu rằng: “Văn Miếu ở thành từ triều Lê về trước đem Sĩ Vương và Châu An tòng tự. Xét trong Sử ký thì Sĩ Vương dùng thi thư để hóa tục nước, đem lễ nhạc để hóa lòng người, văn hiến của nước ta bắt đầu từ đấy, Châu An thì thanh bạch giữ tiết, lý học tinh thông, là vị đại nho ở đời, cho nên các đời đều nêu rạng mà đặt vào hàng tòng tự ở Văn Miếu. Nay xin tùy bệ hạ quyết định”.

Vua giao xuống cho bầy tôi bàn, mọi người đều cho rằng Văn Miếu ở Kinh sư, Sĩ vương và Châu An chưa liệt vào hạng tòng tự. ở thành nên lấy Kinh sư làm chuẩn. Vua theo lời. Lại sai Lễ bộ xét lại điển thờ, thấy Sĩ vương và Châu An đều đã có đền thờ, cho dân sở tại giữ việc thờ cúng, tha dao dịch cho 61 người. (Đền thờ Sĩ vương ở hai xã Lũng Khê, Tam á trấn Kinh Bắc, cho 50 người dân tạo lệ; đền thờ Châu An ở xã Huỳnh Cung trấn Sơn Nam, cho 11 người dân tạo lệ).

Sai Tống Phước Lương và Nguyễn Đức Huyên đốc suất binh và thợ đóng thêm 30 chiếc thuyền ô.

Dựng miếu Đô thành hoàng ở bên hữu Kinh thành. (Chính vị là thần Đô thành hoàng, ở tả vu là các thần thành hoàng ở Gia Định, Quảng Đức, Quảng Nam, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Bình Hòa, Bình Thuận, Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà Tiên, ở hữu vu là các thần thành hoàng ở  Bắc Thành, Thanh Hoa, Nghệ An, Sơn Nam thượng, Sơn Nam hạ, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Thái Nguyên, Yên Quảng, Hưng Hóa, Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang). Đặt miếu phu 15 người, lấy dân Phú Xuân sung vào, mỗi năm hai mùa xuân thu lấy ngày canh sai quan đến tế.

Sửa đắp thành trấn Sơn Nam thượng.

Ban mũ áo cho các huyện lệnh ở bốn dinh trực lệ. Vua cho rằng huyện lệnh là chức gần dân, muốn lựa chọn cẩn thận; bốn dinh ở gần kinh kỳ, vua muốn xem xét được để phân biệt người hay người dở, bèn vời bọn Ngô Công Nghi, Nguyễn Đức Tế 28 người, sai hai bộ Lại Lễ khảo xét. Bọn Nghi lời lẽ đều có thể dùng được, đặc biệt ban cho mũ áo rồi cho về.

Tháng 2, tha tô thuế năm nay cho huyện Tống Sơn.

Ban phẩm phục cho các thiêm sự sáu bộ.

Hạ lệnh cho Bình Định mỗi năm phải nộp ống tre phun lửa 3.000 chiếc.

Trấn thủ Hải Dương là Trần Công Hiến và Trấn thủ Cao Bằng là Nguyễn Văn Đạo vì có cha mẹ già xin về thăm. Vua y cho. Sai Chánh quản thập cơ Hậu quân là Ngô Văn Ngũ quyền lãnh việc trấn Hải Dương, Vệ úy Cường võ là Lê Văn Thái quyền lãnh việc trấn Cao Bằng. Rồi Công Hiến về đinh ưu (1. Đinh ưu: Về nhà chịu tang cha mẹ.), cho tiền 100 quan.

Tướng giặc ở Kinh Bắc là tên  Tri ngụy xưng thống lãnh Tiền dinh, tướng giặc ở Hải Dương là Nguyễn Đình Thanh ngụy xưng là Trung quân, tướng giặc ở Sơn Nam là tên Nam ngụy xưng là Tham mưu, họp đảng ở hai huyện Gia Định, Lang Tài, thủ hợp Tả đồn quân Thần võ là Nguyễn Đức Trạch sai người thuộc hạ là Nguyễn Văn Đát, Nguyễn Văn Yển, Nguyễn Văn Thế nhập vào bọn giặc để báo quan quân vây bắt, bắt được tên Tri tên Nam và đồ đảng hơn mười người. Việc tâu lên. Vua cho Đức Trạch làm Tri huyện, bọn Văn Đát làm Đội trưởng. Đình Thanh sau ra thú. Vua cho rằng năm ngoái có chiếu cho kẻ phạm tội ra thú thì được miễn nên đặc biệt tha cho.

Tướng giặc ở huyện Tiên Hưng trấn Sơn Nam hạ ngụy xưng Tiên phong là tên Ngạnh, ngụy xưng Tả dũng là tên Xuân, bị quan quân đánh dẹp, lẻn trốn ở xã Tĩnh Xuyên (thuộc huyện Thư Trì). Phủ lại là Lê Quý Tín, thổ hào là bọn Nguyễn Duy Lân, Đào Bùi Kha, báo dẫn lính phủ đến bắt được tên Xuân và đồ đảng 4 người. Việc tâu lên. Cho Quý Tín làm Đề lại và bọn Duy Lân làm Xã trưởng, đều cấp cho bằng son.

Tướng giặc ở huyện Bảo Lộc trấn Kinh Bắc tên là Thân Vạn Đồng và Lê Đắc Lộc họp đảng ở trại Cửu Đẩu. Thành thần sai Quản cơ cơ Tiền tiệp Trung quân là Võ Văn Ngữ, Phó quản cơ cơ Hậu kính là Lê Huy Tích đóng ở bảo Tam Dị (tên xã) để phòng bị. Lính bảo là Thân Bá Huy dò được chỗ ở của giặc, báo cho bọn Huy Tích vây bắt, bắt được Đắc Lộc và đồ đảng 6 người. Việc tâu lên. Cho Bá Huy làm Thứ đội trưởng.

Bỏ thuế tốc hương cho thôn Chi Quan (thuộc huyện Kỳ Anh) trấn Nghệ An. Thôn Chi Quan mỗi năm phải nộp 140 cân tốc hương. Đến nay nhân dân đi lấy không được, hạ lệnh miễn trừ cho.

Bói lại ngày tế Giao. Trước bói được ngày Đinh mùi, vì vua khó ở nên mới bói lại.

Trấn thần Thanh Hoa tâu rằng: “Kho ở trấn và kho ở đạo Thanh Bình, lương chứa đầy dẫy, xin đều dựng kho lợp tranh để chứa thóc tô mùa hạ năm nay”. Vua y cho.

Đặt 25 lò gạch ngói, lấy dân Quảng Đức hơn 700 người để ứng dịch, mỗi tháng cấp cho tiền gạo.

Sai Phó đô thống chế Thủy quân là Đào Văn Lương quản 30 chiếc thuyền để chuyển vận sản vật ở Bắc Thành, Vệ úy vệ Dương võ là Trần Phước Trung và Quản cơ cơ Hậu thủy là Cao Công Giang quản hơn 40 chiếc thuyền để chuyển vận cây gỗ ở Nghệ An, nộp về Kinh.

Quản cơ cơ Trung trấn Bắc Thành là Thái Bá Hùng cùng với Đội trưởng Nguyễn Đắc Tài báo dẫn quan quân đi bắt được thái bảo ngụy tên là Địch và đồ đảng hơn hai chục người. Việc tâu lên. Vua ban mũ áo cho Bá Hùng và thăng Đắc Tài làm cai đội, thưởng tiền 600 quan.

Người Man ở bảy sách Cam Lộ vào cống.

Nước Vạn Tượng sai sứ dâng thư nói: “Dân ở Trấn Ninh trước theo Chiêu Nội lánh nạn ở đất Trà Lân, nay xin chiêu tập trở về”. Khi sứ đến Nghệ An, trấn thần không nhận thư mà đem việc tâu lên. Vua dụ bầy tôi rằng: “Dân Trấn Ninh xiêu dạt ở đất Trà Lân đã lâu, dần đã có cách sinh sống, thích yên ở, ngại dời đi là thường tình của người ta, sao lại còn bắt dời đi? Trấn thần khước đi là phải. Nước Vạn Tượng là nước thần thuộc của ta, theo lệ năm nay phải cống, cống thì không đến mà lại muốn trả lại dân xiêu dạt, thế là ý gì?. Bèn sai trấn thần gửi thư hỏi. Vạn Tượng sợ hãi, lại sai sứ đến tạ. Sứ đến. Vua triệu vào yết kiến, hỏi về phong tục chính sự nước ấy. Sứ giả đem tình trạng đáp. Vua lại hỏi: “Quốc vương ngươi thích cái gì?”. Sứ giả nói: “Thích trống trận”. Khi trở về, đãi yến rất hậu, lấy hai chiếc trống trận ban cho.

Lấy Phó trưởng chi chi Hùng kiến trấn Thái Nguyên là Dương Như Đình làm Chánh trưởng chi, Trưởng hiệu hiệu Hữu hùng là Đinh Quang Châu và Cai đội là Ngô Đình Chấn làm Phó trưởng chi, theo trấn sai phái.

Dời dinh lỵ Quảng Trị đến xã Thạch Hãn, mở vào ruộng công rất nhiều, sai lấy ruộng công ở ấp bên cạnh là xã Câu Kinh cấp cho. (Dinh lỵ cũ ở phường Tiền Kiên huyện Đăng Xương. Thạch Hãn, Câu Kinh đều là tên xã, thuộc huyện Hải Lăng).

Tháng 3, đặt ba trường diễn bắn súng, họp các quân Thị trung và Thần sách diễn thi. Mười vệ quân Thị trung chia làm tả hữu hai trường, tả trường sai Đô thống chế quân Thần sách là Lê Văn Phong, Tham tri Binh bộ là Nguyễn Quang Diệu, Thiêm sự là Nguyễn Đình Chất làm Giám khảo, hữu trường sai Phó tướng quân Thần võ là Trần Quang Thái, Tham tri Binh bộ là Ngô Nhơn Tĩnh, Thiêm sự là Bùi Công Kim làm Giám khảo. Quân Thần sách thì một trường, sai Vệ úy Thị trung là Trương Phước Đặng, Tham tri Binh bộ là Võ Danh Trung, Thiêm sự là Hoàng Trọng Mộ làm Giám khảo. Đều duyệt xem ai trúng ai không để định thưởng phạt.

Tướng giặc ở huyện Từ Liêm trấn Sơn Tây ngụy xưng là Giám quân, sách nhiễu tiền gạo của dân. Thổ hào xã Minh Tảo là Nguyễn Hữu Châu đem dân bắt giải nộp. Thành thần đem việc tâu lên. Cho Hữu Châu làm cai tổng, thưởng tiền 300 quan.

ở Thái Nguyên giặc nổi. Vệ úy vệ Trương võ là Đỗ Thiên Thẩm, Phó trưởng chi chi Hùng kiên là Đinh Quang Châu đánh giặc ở phố Bắc Linh, chém được 20 đầu, đóng ở Chợ Chu. Bọn giặc xông ra bao vây. Trấn thủ Nguyễn Đình Tuyển đem quân đến cứu. Bọn Thiên Thẩm nghe quân viện đến, mở bảo giáp đánh, chém được Tả tướng giặc là Triệu Văn Thanh (người Thanh), Hữu tướng giặc là Nông á Bính (người Nùng) cùng 82 đầu đồ đảng, bắt sống được 18 người, thu được khí giới rất nhiều. Việc tâu lên. Thưởng cho biền binh 2.000 quan tiền.

Hạ lệnh thuộc binh do các quản quan ở Gia Định đã lập đều lưu ở ngạch cũ, thu lấy thuế thân, từ nay về sau không được mộ thêm nữa.

Vua nhớ Tả chi Trần Xuân Trạch và Hữu chi Nguyễn Kim Phẩm ứng nghĩa có công, cho các cháu gọi bằng chú bác là bọn Trần Xuân Thành, Trần Thế Quyền, Nguyễn Kim Diệu, Nguyễn Kim Huy được miễn phú dịch. Lại thấy thuộc tướng là Trần Xuân Cách và Hà Văn Đản đều chết trận, miễn phú dịch cho con hay cháu gọi bằng chú bác đều một người. Anh của Trạch là Trần Xuân Hiệp đem hài cốt Trạch về chôn, sai thành thần Gia Định cho tiền kho 100 quan và một cây gấm Tống, cho thuyền đưa về.

Sai Chánh  thống Hậu đồn quân Thần võ quản thập cơ Hùng dũng là Nguyễn Văn Hưng kiêm Chánh quản cơ Hậu hùng. Vua thấy Chánh phó thống đồn ngũ quân, từ trước chưa có binh bản quản, tới lúc có việc sai khiến chưa được đắc lực, nên sai Hưng quản suất cơ Hậu hùng để làm binh bản quản. Hạ lệnh cho quan Bắc Thành từ nay về sau Chánh phó quản thập cơ, hoặc Chánh phó quản cơ ở các quân có khuyết, đều làm biểu tâu lên, đợi chỉ chọn bổ.

Sai Tham tri Lại bộ là Nguyễn Hữu Thận sung Chánh sứ tuế cống (hai lần cống năm Đinh mão, năm Kỷ tỵ) sang nước Thanh, Cai bạ Quảng Bình là Lê Đắc Tần, Thiêm sự Lại bộ là Ngô Vị sung Giáp ất phó sứ. (Hành nhân 9 người, lục sự 2 người, thư ký 4 người, điều hộ 1 người, thông sự 2 người, đi theo hầu 15 người). Dụ rằng: “Bọn người vâng mệnh đi sứ, từ lệnh phải cẩn thận cho trọng quốc thể”.

Lưu thủ Quảng Ngãi là Nguyễn Văn Toản ốm được nghỉ việc. Lấy Đô thống chế quân Thần sách kiêm phó tướng Tả quân là Phan Tấn Huỳnh hành chức Lưu thủ Quảng Ngãi.

Lấy Cai cơ Nguyễn Văn Hương làm Vệ úy vệ Võ bảo nhất quân Thần võ, Bùi Văn Trung làm Quản cơ cơ Hữu kiên Quảng Ngãi.

Nguyễn Hữu Nghiễm tâu xin mộ thuộc binh, theo trấn Thanh Hoa sai phái. Nguyễn Hữu Toản và Nguyễn Hữu Thanh cũng xin mộ thuộc binh theo trấn Cao Bằng sai phái. Vua đều y cho.

Quan Bắc Thành tâu rằng: “Xưa nay việc mộ lính, ai mộ được 50 người thì cho làm quyền sai cai đội, nay các đội mới lập phần nhiều mộ không đủ số, vậy mộ được 10 người trở lên thì xin cho quyền Cai đội trưởng. Kẻ phạm tội ra thú cũng cho ứng mộ”. Vua không chuẩn. Dụ rằng: “Việc  mộ lính lấy một đội làm suất, nếu không thành đội thì sao lại cho bừa. Kẻ phạm tội ra thú thì cho về làng mạc làm ăn là được rồi”.

Ngày Tân mùi, tế Trời Đất ở đàn Nam giao.

Ngày Giáp tuất, xa giá đi tuần Quảng Trị, sai Nguyễn Văn Khiêm coi giữ Kinh thành.

Ngày ất hợi, xa giá đến Quảng Trị, xem quân dân xây đắp lỵ sở, nhân đó, bàn về hình thế hồi lâu. Ngày Canh thìn, hồi loan.

Dựng hai kho Quảng Thịnh, Quảng Chừ, thưởng cho các quân 2.000 quan tiền.

Đắp đê ở Bắc Thành. Đặng Trần Thường và Nguyễn Khắc Thiệu tâu rằng: “Đê điều các trấn Sơn Tây, Kinh Bắc, Sơn Nam thượng đều bị sụt lở, nên đắp ba đoạn đê mới khác và đắp thêm hai đoạn đê cũ, xin thuê dân làm. Còn các đoạn khác thế nước chảy không xói lắm có thể chống đỡ được thì bắt dân sở tại ra sức sửa đắp”. Vua y lời tâu. (Trấn Sơn Tây một đoạn đê mới, từ xã An Lão Thị huyện Yên Lạc đến xã Kim Đà huyện Yên Lãng, dài 1.282 trượng 8 thước 4 tấc; trấn Kinh Bắc, một đoạn từ xã Đông Dư huyện Gia Lâm đến xã Kim Quan dài 637 trượng 8 thước 7 tấc; trấn Sơn Nam thượng, một đoạn từ xã Đội Xuyên huyện Nam Xang đến xã Như Trác dài 508 trượng 1 thước. Đê cũ ở Sơn Nam thượng, một đoạn ở xã Nho Lâm huyện Kim Động dài 125 trượng, một đoạn xã Quỳnh Trân huyện Duy Tiên dài 18 trượng. Tính giá tiền là 87.000 quan).

Vua thấy Gia Định thành và Bắc Thành mỗi năm quan lịch từ Kinh ban ra, phu trạm chuyển đệ khó nhọc, chuẩn định cho hai thành mỗi năm cứ đến thượng tuần tháng 4 đều ủy cho ty Chiêm hậu về Kinh lãnh bản thảo lịch sang năm, đem về viết rõ rồi khắc in. Đến thượng tuần tháng 10 lại ủy người đem bìa lịch vào cho Khâm thiên giám đóng ấn. Lại thấy từ Bình Hòa trở ra, từ Thanh Hoa trở vào, theo lệ cũ thì cứ đến ngày mồng 1 tháng 12 ban lịch, rồi sau đó các bộ thần mới gửi đi, bèn hạ lệnh cho các dinh trấn từ nay ủy người đến lĩnh, đến ngày ấy ban cấp một loạt.

Chia đội Tiểu sai ra làm tám đội.

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển XXXVIII – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Kỷ tỵ, Gia Long thứ 8 [1809], mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, tế hạ hưởng.

Sắp đắp đường quan ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và Bình Hòa. Vua cho rằng đường cũ quanh co xa xôi không tiện, bèn sai Nguyễn Huỳnh Đức và Lê Chất đi trông coi công việc, lấy dây đóng nắn thẳng lại, phát dân sửa đắp, hoãn bắt lính, đình kiện vặt, hễ chỗ nào mở vào nhà dân và phần mộ thì chi tiền cấp cho. Ven đường thì trồng cây thích hợp.

Phạm Như Đăng vào chầu, dâng sớ nói: “Vài năm nay vì thiếu người, hạ thần được vâng làm Hình tào ở Bắc Thành. Cúi nhận thấy một phương Bắc Thành tài lực bằng nửa thiên hạ. Gần đây kiện tụng ngày nhiều, tài lực ngày hao, trăm họ nhôn nhao, không được yên nghiệp. Đấy vẫn là lỗi ở bọn thần không làm trọn chức, nhưng cũng bởi dân mới phụ về, chưa thấm đức hóa, quan dựa đó mà thêm nhiễu, lại theo đó mà làm gian, tệ hại trăm mối, dân không chịu nổi, kẻ giàu không giữ được của, kẻ nghèo phần nhiều lưu vong, bèn khiến những lũ bất bình nhân đó phiến hoặc. Năm ngoái giặc cướp nổi khắp, phải nhọc sức quân mới dập tắt được, nhân dân dần dần trở lại làm ăn. Nay lòng dân mong yên như đói mong ăn, khát mong uống. Nên đương lúc này rộng suy nhân chính để cho thiên hạ được nhờ ân trạch. Vả Bắc Thành cách Kinh sư hơi xa, tình dưới không thông được đến trên, nỗi đau khổ chưa có thể đạt lên hết được. Cúi mong bệ hạ bắt chước phép tuần thú đời xưa, nhân thăm địa phương xem phong hóa, làm lợi, bỏ hại, mở mới cho tai mắt, định yên cho tâm trí, để ai ai đều biết thánh triều coi dân như một, không phân trong ngoài. Tự nhiên dân nâng đội như mặt trời mặt trăng, thân yêu như với cha như với mẹ, vui vẻ hướng theo, không sinh lòng khác, cốt để bồi thêm nguyên khí, mở mang thái bình; để lại Phước tốt cho ức muôn năm không cùng hẳn là ở dấy”. Nhân điều trần 12 việc như sau:

1. Mở kinh diên để tiến giảng. (Đạo trị nước của đế vương đời xưa đều chép trong sách, cúi xin sau khi muôn việc đã rảnh, sáu ngày ngự tới kinh diên một lần, sai nho thần thay đổi tiến giảng, tìm lấy gốc thịnh trị).

2. Đặt khoa mục để kén học trò. (Tìm nhân tài thì lấy khoa mục làm đầu, là để ngăn sự cầu may mà tiến và chọn được chân tài. Xin định phép khoa cử, cứ tý ngọ mão dậu thì thi Hương, thìn tuất sửu mùi thì thi Hội, làm thường thức lâu dài).

3. Bàn xét hình ngục. (Nay ở Bắc Thành việc hình ngục ứ đọng rất nhiều, xin ban điều luật định trình hạn cho quan biết mà giữ, dân biết mà theo).

4. Xử án nặng. (Những vụ án về nhân mạng, trộm cướp có tang chứng rõ ràng, thì xét trị ngay; nếu việc còn mờ tối, nên để đợi xét ra, không được cho là trọng án mà tự bắt tra, làm lụy cho kẻ bình dân).

5. Đặt Đô sát viên ngự sứ ở Bắc Thành. (Phàm quan lại không theo pháp luật, kẻ quyền thế ức hiếp người dưới, việc nhỏ thì xét xử ngay, việc lớn thì đàn hặc tâu lên, cho nghiêm phép làm quan; cuối năm kiểm duyệt các án do thành trấn đã xét, nếu có việc oan thì xét lại).

6. Cấp ruộng lương điền cho lính giản ở Bắc Thành. (Năm Gia Long thứ 1, lệ định cấp tiền phụ dưỡng cho lính giản mỗi tháng một quan, nay xin lấy công điền công thổ của dân cấp cho 5 mẫu, không đủ thì lấy công điền thổ ở ấp láng giềng mà cấp, lại không đủ thì lấy công điền công thổ ở huyện bên mà cấp, và bỏ tiền phụ dưỡng đi. Các quản quan gần đây phần nhiều nhân việc bắt đóng góp, xin nghiêm cấm để trừ thói tệ lâu ngày).

7. Kén nghĩa binh. (Phàm các nhà chiêu mộ nghĩa binh đều phải chọn những người tinh nhanh khỏe mạnh để phòng dùng đến, không được lấy người già yếu sung bổ mà mạo chi tiền lương).

8. Coi trọng sức dân. (Nay phủ lỵ các trấn sửa xây gần xong, sau này có nơi nào nên sửa chữa việc nhỏ thì báo ở thành, việc lớn thì tâu lên, không được khinh dùng sức dân).

9. Thu tô thuế. (Cai trưng cai lại ở trường thuế, ở thành thì ủy sai liêu thuộc Hộ tào, các trấn thì ủy sai thuộc ty, không được khinh thường mà ủy tư nhân;  đòi hỏi ngoại ngạch và mưu đồ lợi riêng, đều cấm).

10. Xét dân xiêu dạt. (Phàm dân các xã xiêu tán, phủ huyện phải đem việc báo lên trấn, trấn sai người hội khám, thành thần làm sổ tâu lên, đều lấy mười ngày làm hạn, không được chậm trễ; nếu phủ huyện báo cáo không thực và lại thuộc dìm đi để sách nhiễu thì có tội).

11. Chiêu tập dân xiêu dạt. (Phàm dân các xã xiêu tán, xin hạ lệnh cho quan trấn phủ huyện để ý yên ủi khiến trở về; nơi nào hộ khẩu hằng năm tăng lên thì hậu thưởng để khuyến khích).

12. Răn cấm nơi cửa ải bến đò. (Từ trước tới nay đánh thuế cửa ải và bến đò, cứ 40 phần thì lấy 1, đã thành phép không nặng không nhẹ. Gần đây những kẻ vụ lợi tranh nhau trưng thầu, vật rẻ mà định giá đắt, hàng nhẹ mà đòi thuế nặng, dân buôn thường thường than vãn, xin nghiêm răn cấm).

Sớ dâng lên. Vua rất khen ngợi. Đến khi bệ từ, lại dâng biểu xin cử Hồ Công Thuận là Tri phủ Tĩnh Gia, Trương Công Vi là Tri phủ Kiến Xương làm Thiêm sự Hình bộ sung làm việc tào. Vua y cho.

Đưa quốc trưởng nước Nam Chưởng là Chiêu Ôn Mãnh sang nước Thanh. Trước đây Ôn Mãnh mất nước, chạy sang đầu ngụ ở châu Chiêu Tấn.  Khi vua lấy được Bắc Hà; Ôn Mãnh đến hành tại bái yết. Vua cho rằng nhà nước mới định, chưa rỗi tính việc xa xôi, khiến trở về châu Chiêu Tấn, và dụ bảo trấn thần để cho được tự do đi lại. Sau Ôn Mãnh cùng với người trong châu là Đèo Quốc Uy có hiềm khích, nhân đêm trốn đi. Châu trưởng sai thuộc hạ là Phìa Trại đi tìm không được, nói dối là Ôn Mãnh đã chết đường rồi. Năm ngoái Ôn Mãnh tới trấn bày kêu. Thành thần làm biểu  đưa Ôn Mãnh về Kinh. Vua bàn với bày tôi rằng: “Ôn Mãnh theo về ta là muốn mượn thanh thế để lấy lại nước thôi. Làm cho nước mất dấy lên mối đứt nối lại vẫn là lòng nhân của vương giả, nhưng đem quân đi xa, chỗ được không bù chỗ mất. Ôn Mãnh đã từng nhận sắc ấn của nhà Thanh chi bằng ta đưa về nhà Thanh, để cho nhà Thanh mưu tính. Nếu người Thanh nhận thì Ôn Mãnh có chỗ trở về, bằng không nhận thì ta cũng có chỗ nói được. Bèn sai gửi thư cho nhà Thanh, và đưa Ôn Mãnh đến cửa ải Lạng Sơn để chờ. Người Thanh cho rằng Ôn Mãnh không hay tự lập bèn khước từ mà thu lại sắc ấn.

Vua lại sai thành thần cho Ôn Mãnh ở châu Chiêu Tấn và cho 100 lạng bạc, 200 quan tiền. Rồi Ôn Mãnh bị bệnh chết.

Cấp lương ăn cho tù tội, từ tội đồ tội lưu đến trảm giảo giam hậu, mỗi tháng cấp cho mỗi người 10 thăng gạo, sở tại hằng năm làm sổ tâu lên; người bị giam xét chưa kết tội thì không ở lệ này.

Gọi 3.000 người ở ngũ quân Bắc Thành về Kinh.

Triệu Nguyễn Duy Hòa và Trần Văn Tuân về Kinh chờ chỉ. Hòa trước làm Hiệp trấn Sơn Nam thượng, Tuân làm Ký lục Bình Định, đều bị tội phải miễn chức. Nguyễn Văn Thành dâng sớ nói hai người này có tài khí kiến thức, xin cho lục dụng. Vua theo lời xin nên triệu đến.

Chánh thống lãnh thượng đạo Thanh Hoa là Hà Công Thái tâu rằng Quách Tất Thúc và Trịnh Vân trốn xa vào rừng núi, tự xin ủy người đi dò các nơi tìm bắt. Vua dụ rằng: “Xem tờ tâu của người đủ thấy tấm lòng thành khẩn. Duy bọn Quách Tất Thúc đương cùng nên phải trốn lánh, không có nơi nhất định, trẫm đã cho các quan địa phương để ý đề phòng. Ngươi nên  đóng giữ địa hạt mình, đề phòng nghiêm nhặt, không cần ra ngoài địa phận để tìm bắt”. Hơn một tháng, Tất Thúc sai con là Tất Toại lẻn tới Thanh Hoa thú tội, trấn thần gửi thư gọi về, nhưng Tất Thúc dùng dằng, cuối cùng không chịu ra.

Lưu thủ Quảng Nam là Tôn Thất Huyên tự tiện thả tù ăn cướp và dung túng cho quân đánh bạc, việc phát, giáng làm Cai cơ. Cai bạ Nguyễn Tường Vân và Ký lục Lê Văn Hậu vì thất sát bị giáng làm Thiêm sự.

Lấy Vệ úy Ban trực là Nguyễn Cửu Khoáng làm Lưu thủ Quảng Nam, Thiêm sự Lại bộ là Nguyễn Xuân Tình làm Ký lục.

Phục chức cho Trần Văn Tuân làm Cai bạ.

Đặt thêm kho thuốc súng và kho Nội đồ gia.

Sai Quản cơ cơ Tiền thủy là Nguyễn Văn Hạnh, Quản cơ cơ Hậu thủy là Cao Công Giang chở gỗ đá ở Thanh Hoa về Kinh.

Cấm quan dân không được mua bán dân Man làm nô. Dân nguồn Chiên Đàn ở Quảng Nam có người đi cướp người Man ở nguồn Đà Bồng thuộc Quảng Ngãi đem bán cho bình nhung Trần Đắc Xiêm. Vua nghe tin, cho rằng Đắc Xiêm không biết pháp luật, đánh 50 roi, thả người Man về. Lại ra lệnh cấm, trái lệnh thì tội đồ.

Lấy Đông các học sĩ Nguyễn Du làm Cai bạ Quảng Bình, Hàn lâm thị thư Nguyễn Khoa Minh làm Thiêm sự Hộ bộ sung việc Hộ tào Bắc Thành.

Hiệp trấn Sơn Nam hạ là Trần Quang Tĩnh ốm phải nghỉ việc. Phục chức cho Nguyễn Duy Hòa làm Hiệp trấn Sơn Nam hạ. Dụ rằng: “Điều cốt yếu của người làm quan là phải trong sạch siêng năng, ngươi nên cố gắng”.

Quan tài Duệ tông Hiếu định hoàng đế từ Gia Định đưa về, thành thần đem việc tâu trước. Vua bàn đến Quảng Nam rước, sai bọn Phạm Văn Nhơn, Trần Văn Trạc, Lê Quang Định đi trước. Xuống chiếu dụ lại dân ở Quảng Nam rằng: “Quảng Nam sát gần Kinh sư triều đình lấy làm quận chân tay. Từ khi lấy lại đến nay, lễ thăm địa phương còn thiếu, sự tình u ẩn hà dễ nhất nhất rõ hết! Nay Tử cung Duệ tông Hiếu định hoàng đế chở từ Gia Định về, trẫm thân hành đem bầy tôi đi đón. Đặc sai các đại thần đi trước, nhân dân địa phương ai có sự gì oan khuất, làm đơn kêu sẽ do đại thần duyệt tâu để rõ ẩn tình của dân. Ngày xa giá đến, quan quân dân chúng không được tiến dâng gì cả”.

Sai Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Khiêm, Đặng Đức Siêu, Phạm Đăng Hưng, Lê Viết Nghĩa lưu giữ Kinh thành.

Ngày Canh tuất, xa giá bắt đầu từ Kinh sư ra. Ngày Giáp dần đến Quảng Nam. Vua đem bầy tôi đón quan tài Hiếu định hoàng đế ở cửa biển Đại áp, buổi sớm buổi hôm vua thân làm lễ điện.

Tháng 5, ngày Nhâm tuất, quan tài đến Kinh. Dựng trước điện lợp tranh ở bến sông Hương, đặt quan tài ở đó, sai Tôn Thất Bính sớm hôm làm lễ điện. Thưởng cho thủy quân hơn 2.000 quan tiền, sai Tống Phước Lương theo thứ bậc chia cấp. Phát các quân xây đắp sơn lăng và các sơn phần. Thưởng hơn 4.000 quan tiền. Sai thành thần Gia Định triệt hết vật liệu ở miếu cũ, đốt sạch đi.

Tháng 6, ngày Quý mão, an táng ở lăng Trường Thiệu (ở núi La Khê). Trước ngày an táng vua nghỉ chầu bảy ngày, bố cáo trong ngoài, cấm xử xét việc hình án và cấm âm nhạc, hát xướng, mặc áo màu đỏ màu tía, và cưới xin trong bảy ngày.

Ngày Canh tý, kính cáo Thái miếu. Ngày Nhâm dần, tế tổ điện và tế khiển điện, đều sai Tôn Thất Thăng làm lễ. Hôm ấy an táng (phụ để mộ thái sư Tôn Thất Đồng ở phía bên hữu). Tế ngu, vua thân làm lễ.

Để mộ Mục Vương ở Long Hồ, mộ Anh duệ hoàng thái tử ở Dương Xuân. Ngày an táng, vua thân hành đi đưa.

Các quan tài của hoàng  hai là Thiếu úy Hy, hoàng ba là Tuấn, Thiếu phó Tôn Thất Chi, Tôn Thất Xuân, Thái phó Tôn Thất Huy, Tiền quân Tôn Thất Hội, đều sai Lễ bộ trị việc tang. Ngày an táng sai hoàng tử hoàng tôn đến đưa. Cho mộ phu theo thứ bậc.

Tổng trấn Bắc Thành là Nguyễn Văn Thành dâng biểu tiến sách Đại học diễn nghĩa, đại lược nói: “Sách Đại học là phép người xưa dạy người ở bực đại học và là nguồn vực truyền dạy của thánh môn đại cương của sách là: “Minh đức tân dân chỉ chí thiện” [Sáng đức mình, mới đức dân, đều đến chỗ chí thiện], mục của nó là: “Cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” [Xét cùng lễ vật, biết đến nơi, thực ý, ngay lòng, sửa mình, tề nhà, trị nước, bình thiên hạ]. Cái đạo cùng lẽ ngay lòng, sửa mình trị người, thực đủ ở đấy. Nhà Nho đời Tống là Chân Đức Tú làm sách Diễn nghĩa, nhà Nho đời Minh là Khâu Tuấn bổ thêm, đều để sáng rõ những điều cốt yếu, sách trước đã suy từ điều cốt yếu về sáng đức mình để làm gốc cho việc mới đức dân, sách sau thì nêu những điều cốt yếu về mới đức dân để thu thành công về sáng đức mình. Trong đó đầu tiên là lấy lời dạy rõ ràng của thánh hiền, tham hợp với sự tích xưa nay, lại phụ thêm những lời phát minh của các tiên nho, chia từng điều, tách từng sợi, thể dụng đều đủ, không những có thể để giảng ở chốn kinh diễn mà những người học giả đều cần phải biết. Nhưng vì sách ấy nhiều quyển nhiều pho mà người buôn nước Thanh ít đem sang, nên từ trước đến nay người học giả ít được thấy. Nay thánh thượng dùng võ công dẹp yên thiên hạ, đem văn giáo mở mang thái bình, muốn đưa người đời đến chỗ không đâu hơn nữa, hạ thần nhân thấy đức ý bèn đem sách ấy để khắc, khắc xong, in thành một bản để tiến lãm. Cúi xin ban cho in ra phát hành, khiến người trong nước đều biết ý thánh thượng muốn nêu ra, để cho nhà nhà cùng truyền, người người cùng đọc, đối với phép dạy dân hóa tục, tin chắc rằng bổ ích không nhỏ vậy”.

Lấy Vệ úy vệ Uy võ là Bùi Công Điền đóng giữ bảo Hà Trung.

Sai Phó quản cơ cơ Hữu thủy là Lê Văn Duyên chở gỗ đá ở Quảng Nam về Kinh, để dựng các cửa Kinh thành: thưởng cho các quân 4.800 quan tiền.

Trấn thần Thanh Hoa tâu rằng: “ở trấn sửa sang thành trì kho tàng lấy 6.000 dân làm việc, nay đến mùa làm ruộng, xin hãy cho về, khi làm ruộng xong sẽ lại đến làm”. Vua theo lời tâu.

Định trình hạn thuế sản vật biệt nạp ở Bắc Thành. Lệ cũ mỗi năm thu thuế thổ sản, cứ tháng 7 năm nay bắt đầu đến tháng 7 sang năm thì xong. Đến nay thành thần  xin chia mỗi năm làm hai hạn, từ tháng 7 đến tháng 12 làm một hạn, trưng thu đúng ngạch, cuối năm làm sổ. Lại xin chế triện gỗ cấp cho các Tổng trưởng và các Xã trưởng mỗi người một cái, phàm thừa hành việc công thì dùng làm tin. Vua đều y cho.

Thả quân Thần sách ở Thanh Nghệ về, sai trấn thần thưởng cho mỗi người 3 quan tiền.

Sửa hành cung Sơn Nam thượng.

Định lại lệ cấp lương điền cho quân lính. Năm Gia Long thứ 5 [1806] chuẩn cấp lương điền cho các vệ đội thuyền Thị trung, Trung hầu, Chấn uy, Nội trực, Tiểu sai, Thị trà, Loan nghi, Tả vệ, Hữu vệ, Nội hoàng kiếm, Nội thủy, Phấn dực, mỗi người 1 mẫu, ngoài ra đều không được dự. Đến nay sai đình thần đem hết dinh vệ cơ đội các quân  trong ngoài chia làm ba hạng, đều lấy công điền sở tại cấp cho. (Mười vệ Thị trung, tám đội thuyền Trung hầu nhị, tam, tứ, ngũ, lục, thất, bát, cửu, ba đội Chấn uy nhất, nhị, tam, các đội của vệ Nội trực, các đội của đội Tiểu sai, đội Thị trà, đội Loan nghi, ba đội Tả vệ, Hữu vệ, Nội hoàng kiếm, mười đội của vệ Chấn dực Nội thủy, ba vệ Thị tượng, các đội Nội mã, Tả mã, Hữu mã, Tư thiện, Thị hành, Thị nội, Trung cần thị nội, Nội cần thị nội, Nội sai, Ngoại trù. Tân nhị, lương điền mỗi người 1 mẫu, quân Thần sách, Trung dinh vệ Long võ; Tiền dinh vệ Ban trực tiền, Tả dinh vệ Ban trực tả, Hữu dinh vệ Ban trực hữu, Hậu dinh vệ Ban trực hậu, năm cơ thủy quân, năm đội Kiên thủy, lương điền mỗi người 9 sào; Trung quân hai vệ Trung bảo nhất, nhị, Tiền quân hai vệ Tiền bảo nhất nhị, Tả quân hai vệ Tả bảo nhất, nhị, Hữu quân hai vệ Hữu bảo nhất, nhị, Hậu quân hai vệ Hậu bảo nhất, nhị; quân Thần võ, hai vệ Võ bảo nhất, nhị; quân Chấn võ, hai vệ Chấn bảo nhất, nhị, Tượng quân, hai vệ Hùng cự, nhất, nhị, các cơ của Tượng quân; Trường thọ cùng, hai đội Thị trà, đội Thủ kiệu nhất, đội Phiên nhự nội; cơ Kiên thuận, các đội Cửu dực; Trung quân, năm đội Trung sai; Tiền quân, năm đội Tiền sai; Tả quân, năm đội Tả sai; Hữu quân, năm đội Hữu sai; Hậu quân, năm đội Hậu sai, ba đội Kiên dũng; Tượng quân, năm đội Hùng sai; sáu bộ các đội thuộc Kiên, lương điền mỗi người 8 sào).

Bọn Tống Phước Ngoạn, Phạm Nhữ Phong, Mạc Tử Thiêm tự nước Xiêm về. Người Xiêm nhận đưa thư  nói rằng nước ấy cùng Miến Điện đánh nhau, xin giúp cho 3 vạn quân thủy và quân bộ, quân bộ tiến từ Ai Lao, quân thủy do Hải Tây đến hội. Vua triệu bầy tôi bàn, dụ rằng: “Nước Xiêm cùng nước ta giao hiếu với nhau, nghĩa không thể không cứu được. Nhưng quân bộ đi theo thượng đạo, nghìn khe muôn núi, lặn trèo khó nhọc, ta không nỡ xua quân trong nước để phục dịch cho người phương xa. Thủy quân ta vốn đã tập quen, nếu dùng đường biển thì tiện. Đường biển có hai lối: một lối đi từ Lục Khôn Xa Gia Lục [có thể là 洛坤 Nakhon Si Thammarat] để hội với quân Xiêm thì chứa lương đóng quân nên ở chỗ nào? Một lối qua hải đảo các nước Chà Và Hồng Mao [] thẳng tới nước Miến Điện thì phải mượn đường ở người, nên nói thế nào? Phàm muôn dặm dấy quân là việc lớn của nước, phải nên xem xét kỹ càng, rồi sau mới có thể hành động được. Nay thư của người Xiêm nhiều chỗ phân rõ ràng. Vậy hạ lệnh cho Lại bộ làm thư hỏi xem. Mà trước hãy đem quân Kinh đến đóng ở Gia Định cho đông để chờ”. Thư người Xiêm lại nói nếu nước ấy có sự khẩn cấp thì xin cho sứ đi theo đường Ai Lao. Vua nói: “Ai Lao không phải là đường sứ đi. Không cho”.

Sai Đô thống chế quân Thần sách là Trần Văn Năng quản 1.000 binh năm dinh, Đô thống chế lãnh phó tướng quân Chấn võ là Trần Văn Tín quản 400 lính vệ Chấn bảo, đi thú ở Gia Định, theo thành thần điều độ. Bọn Văn Năng đến nơi, Xiêm La lại phục thư nói rằng quân Miến Điện đã bãi rồi. Quân ta không phát nữa. Rồi hạ lệnh lưu Văn Tín ở lại thành, triệu Văn Năng về. Thưởng cho quân lính 3.000 quan tiền, từ Phó đội trở lên đều thưởng 1 tháng lương.

Lấy Phó vệ úy vệ Tuyên uy Hậu quân là Tống Văn Tri làm Phó vệ úy vệ Hổ uy, đi thú Cao Bằng.

Dinh thần Quảng Bình tâu xin rỡ bỏ gỗ kho cũ ở Thanh Hà và Động Hải, tạm dựng kho tranh ở Trung Thị (tên xã) để chứa thóc tô năm nay. Vua y theo.

Thả các cục tượng Quảng Nam và Nghệ An về, thưởng cho cai đội thợ đóng thuyền mỗi người 15 quan tiền, cai đội thợ đánh dây thuyền và thợ cưa mỗi người 10 quan, các cai quan thủ hợp mỗi người 7 quan, thợ mỗi người 6 quan. Cho mỗi người một chiếc áo hẹp tay.

Cấp hạn ra thú cho phạm nhân trốn ở Bắc Thành. Thành thần tâu nói “đảng giặc ở các trấn trốn tránh còn nhiều, xin cho thêm hạn ra thú”.

Chiếu báo rằng: “Năm ngoái giặc cướp nổi lên, đã bị quan quân đánh dẹp. Sợ tội trốn lánh, nhiều người đến nỗi mất làm ăn, trẫm rất thương tình, cho nên phàm tướng giặc đảng giặc nếu biết thực tình ra thú thì đều tha tội để chúng đổi dữ theo lành, cùng nhau ở yên làng mạc. Nay gia hạn cho 3 tháng nữa, để kẻ nhầm nhỡ đều được tự đổi mới. Duy kẻ nào phạm ăn cướp án mạng thì không được tha”.

Phó vệ úy Ban trực là Mai Văn Thành tham nhũng, việc phát, giáng làm cai đội.

Sai Thị trung học sĩ Vũ Trinh làm Chánh sứ sang nước Thanh chúc mừng (Khánh tiết ngũ tuần của vua Thanh), Thiêm sự Binh bộ là Nguyễn Đình Chất, Thiêm sự Công bộ là Nguyễn Văn Thịnh sung Giáp ất phó sứ. (Phẩm vật: ngà voi 2 đôi, sừng tê 4 tòa, trừu, the, lụa, vải đều 100 tấm).

Ban mũ áo cho bọn Cai cơ Nguyễn Viết Bảo, Vệ úy Trần Đăng Long, Tôn Thất Bính, Nguyễn Văn Phân, Nguyễn Văn Soạn, Trương Văn Phượng, Huỳnh Công Lý.

Lấy Võ Quý Dĩnh sung Hàn lâm viện.

Bọn giặc trốn ở Thái Nguyên lẩn trốn ở châu Định Hóa. Trấn thủ Nguyễn Đình Tuyển sai biền binh thuộc trấn cùng với dân huyện Phú Lương đón triệt các đường trọng yếu, chém được tướng giặc tên là Đoài và đồ đảng hơn ba chục thủ cấp, bắt sống hơn hai chục người. Thưởng cho quân và dân 400 quan tiền.

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển XXXIX – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Kỷ tỵ, Gia Long năm thứ 8 [1809], mùa thu, tháng 7, ngày mồng 1, tế thu hưởng.

Dựng hành lang tả hữu, dực lang và trường lang. Một ngày, buổi chiều hôm, người làm việc đã ra rồi, vua tới xem công sở, thấy một người nằm ngủ ở trên xà nhà. Người tả hữu vội vàng gọi dậy. Vua e người ấy sợ mà ngã, ngăn không cho gọi. Bảo người ấy xuống. Nhìn ra thì là Nguyễn Đức Thu làm Vệ úy coi việc ở đấy. Vua cười rồi cho đi. Đầy tháng làm xong, thưởng cho lính và thợ 8.000 quan tiền. Lại thấy dân các đội Hùng diêm, Sinh thiết ở Bình Định làm việc đã lâu, thưởng cho 2.000 quan tiền.

Triệu Cai bạ Bình Định là Trần Tấn Bửu về Kinh, lấy Thiêm sự Hộ bộ là Nguyễn Văn Diên làm Cai bạ Bình Định.

Lấy Quản thủ đạo Đông Khẩu là Nguyễn Huy làm Trấn thủ Vĩnh Thanh, Ký lục Biên Hòa là Nguyễn Xuân làm Cai bạ, Thiêm sự Binh bộ là Hoàng Trọng Mộ làm Ký lục Biên Hòa, Quản cơ Nguyễn Văn Lân làm Quản thủ đạo Đông Khẩu.

Lấy Trần Ngọc Quản sung Hàn lâm viện.

Lại sai Nguyễn Văn Hanh chở gỗ ở Nghệ An về Kinh. Dụ rằng: “Hiện nay cuối mùa gió nước, thuyền ghe vượt biển, phải nên theo thuận tiện, không nệ chậm chóng”.

Miễn thuế thân cho dân sở Phú Quốc.

Hạ lệnh rằng các hiệu đội Mộc đĩnh ở Gia Định lấy nhiều gỗ cây ở Quang Hóa chở về Kinh, cấp cho tiền 4.500 quan, gạo 3.000 phương, miễn thuế ván thuyền hai năm Canh ngọ và Tân mùi; số thuế năm trước còn thiếu tha hết.

Vua lại nghĩ Quang Hóa đường xa, vận chở khó nhọc, phát 300 người lính ở thành và 30 chiếc thuyền để giúp đỡ, thưởng tiền 300 quan, gạo 300 phương và vải 100 tấm.

Ba huyện Quảng Trị thường có nạn cọp. Lấy hơn 200 người dân các xã Phù Bài và Thủy Ba đi bắt hổ, thưởng 100 quan tiền.

Sai quan Bắc Thành kiểm duyệt sổ quân. Phàm binh lính các vệ đội đủ mà chánh phó viên có khuyết thì theo lệ mà cất bổ. Nếu số lính không đủ mà chánh viên khuyết đã có phó viên, phó viên khuyết đã có chánh viên, thì không được nhất khái xin bổ khuyết. Cai đội cai án quyền sai thì đợi có công trạng mới được thăng bổ.

Nguyễn Văn Bình là Chưởng cơ Vọng Các vì tuổi già xin hưu trí, cho mũ áo và cho mộ thuộc binh 40 người.

Thái trưởng công chúa Ngọc Huyên mất. Chúa là con gái cả Thế tông Hiếu võ hoàng đế (1. Thế tông Hiếu võ hoàng đế là Nguyễn Phước Khoát.), gả cho Chưởng dinh quận công Nguyễn Cửu Thống (con Ngoại tả chưởng dinh quận công Nguyễn Cửu Thông), cuộc biến năm Giáp ngọ, chúa ở lại Thuận Hóa, ở lẫn với nhà chùa, người ta quen gọi là ni cô Vân Dương, từng sai con rể là Nguyễn Đức Tuấn đi dò tin giặc, viết thư kín gởi đến Gia Định để báo. Khi vua đã lấy được Kinh thành, bèn làm nhà cho chúa ở Vân Dương, đến nay chúa mất; sai Tống Phước Lương, Ngô Nhơn Tĩnh chi tiền kho để trị tang và dùng nhà ở ấy làm từ đường để thờ.

Cho Tổng nhung cai cơ Nguyễn Văn Triệu làm Khâm sai chưởng cơ, Cai đội Nguyễn Văn Thảo làm Cai cơ.

65 chiếc thuyền vận tải của Bắc Thành gặp gió ở ngoài phần  biển Nghệ An, thủ ngự cửa Luật Hải [cửa Sót] lấy thuyền đánh cá của dân đưa dẫn vào cửa biển. Thưởng cho hơn 200 quan tiền.

Đặt đồn Eo ủng ở Nghệ An. Trấn thần tâu nói: “Huyện Quỳnh Lưu tiếp giáp huyện Ngọc Sơn trấn Thanh Hoa, núi rừng rộng vắng, thường có giặc cướp trộm phát. Xin đặt bảo Eo ủng để cùng với bảo Hoàng Mai làm thanh ứng cho nhau”. Vua theo lời xin. Sai lấy một Phó vệ úy đem hơn 100 quân đóng giữ.

Tháng 8, chuẩn định từ nay, tế Mậu ở đàn Xã Tắc, tế Đinh ở Văn Miếu, cứ ba năm một lần vua thân hành đến tế. (Tế đàn Xã Tắc dùng ngày mậu về mùa xuân và mùa thu trong  những năm tý, mão, ngọ, dậu; tế Văn Miếu thì dùng ngày đinh về mùa xuân và mùa thu những năm sửu, thìn, mùi, tuất), còn các năm khác thì sai quan đại thần tế thay.

Vua cùng Lê Chất bàn về đạo dùng người, dụ rằng: “Từ xưa bầy tôi có kẻ ngay thẳng đền ơn nước, cũng có kẻ gian nịnh làm hại nước, nên đạo dùng người thực phải cẩn thận”.

Hạ lệnh cho Quảng Bình lấy dân in và nung gạch ngói, rồi vì nước to nên bãi.

Thuyền buôn của Ngô Ngạnh là người Xiêm gặp gió bão dạt vào bến Đà Nẵng, cấp cho  200 phương gạo.

ấm thụ cho cháu Chưởng dinh Tôn Thất Tráng là Tôn Thất Giảng làm Thứ đội trưởng để giữ việc thờ Tráng. Trước là Tôn Thất Hoán là ngành thứ mạo nhận tập ấm. Việc phát, lấy lại bằng, cho Giảng được tập ấm.

Thả cho năm quân ở Bắc Thành về, sai thành thần thưởng cấp mỗi người 6 phương gạo.

Hạ lệnh cho Bắc Thành lấy đất hạng nhì và đá đỏ đá đen ở Lãm Sơn (tên núi) huyện Đông Triều chở về Kinh.

Làm ống thông hơi bằng tre cho kho ở Kinh. Vì kho chứa nhiều thóc bị mốc mục và mọc mộng, bèn sai làm ống tre đặt ở các kho cho lúa có lỗ thông khỏi hấp hơi mà mốc.

Vệ úy Thị trung là Văn Nguyên sai riêng quân lên rừng lấy gỗ và dung túng cho người dưới quyền xuống các làng sách nhiễu. Việc phát, đánh 70 roi và bãi chức.

Định điều lệ ngạch thuế cho thuyền buôn Hà Tiên, Xiêm La, Hạ Châu [Singapore].

1. Thuyền buôn Hà Tiên và Xiêm La, trung tâm bề ngang từ 6 thước đến 6 thước 9 tấc, đánh thuế cảng vào bực ba hạng ba, tiền 40 quan; từ 7 thước đến 7 thước 9 tấc, đánh thuế vào bực hai hạng ba, tiền 50 quan; từ 8 thước đến 8 thước 9 tấc, đánh thuế vào bực nhất hạng ba, tiền 60 quan; từ 9 thước đến 9 thước 9 tấc, đánh thuế bực ba hạng nhì, tiền 80 quan; từ 10 thước đến 10 thước 9 tấc, đánh thuế bực hai hạng nhì, tiền 100 quan; từ 11 thước đến 11 thước 9 tấc, đánh thuế bực nhất hạng nhì, tiền 120 quan; từ 12 thước đến 12 thước 9 tấc, đánh thuế bực ba hạng nhất, tiền 150 quan; từ 13 thước đến 13 thước 9 tấc, đánh thuế bực nhì hạng nhất tiền 180 quan; từ 14 thước đến 14 thước 9 tấc, đánh thuế bực nhất hạng nhất, tiền 210 quan.

2. Thuyền buôn Hà Tiên và Xiêm La, bề ngang từ 6 thước đến 6 thước 9 tấc, chở bán thoi sắt Hà Sung 2.000 cân, hoặc phiến gang 4.000 cân; ngang từ 7 thước đến 7 thước 9 tấc, thoi sắt 2.500 cân hoặc phiến gang 5.000 cân; ngang từ 8 thước đến 8 thước 9 tấc, thoi sắt 3.000 cân hoặc phiến gang 6.000 cân, ngang từ 9 thước đến 9 thước 9 tấc, thoi sắt 4.000 cân hoặc phiến gang 8.000 cân; ngang từ 10 thước đến 10 thước 9 tấc, thoi sắt từ 5.000 cân hoặc phiến gang 10.000 cân; ngang từ 11 thước đến 11 thước 9 tấc, thoi sắt từ 6.000 cân hoặc phiến gang 12.000 cân; ngang từ 12 thước đến 12 thước 9 tấc, thoi sắt 7.500 cân hoặc phiến gang 15.000 cân; ngang từ 13 thước đến 13 thước 9 tấc, thoi sắt 9.000 cân hoặc phiến gang 18.000 cân; ngang từ 14 thước đến 14 thước 9 tấc, thoi sắt 10.500 cân hoặc phiến gang 21.000 cân, các hạng thuyền trên đây chở bán đúng như lệ thì cho được mua tơ, kén, lụa, vải, đường cát, đường phổi, đường phèn, lại trừ thuế cảng cho. Nếu chở bán không như lệ thì chỉ cho mua tạp hóa và lại đánh thuế.

3. Sắt Hà Sung 100 cân trị giá 6 quan tiền, phiến gang 100 cân trị giá 3 quan tiền, lấy làm giá thường của nhà nước.

4. Thuyền buôn Hà Tiên và Xiêm La, trung tâm ngang từ 15 thước trở lên thì chiếu theo lệ thuế cảng của thuyền buôn Hải Nam.

5. Thuyền buôn của Hạ Châu đến buôn ở các trấn thì chiếu theo lệ thuyền buôn của Ma Lục Giáp [Malacca] và Chà Và mà đánh thuế.

6. Vàng, bạc, muối, gạo, tiền đồng, kỳ nam, trầm hương đều cấm không được mua bán.

7. Các hàng quý như ngà voi, sừng tê, đậu khấu, sa nhân, nhục quế, hồ tiêu, gỗ vang, gỗ mun, gỗ hồng, thuyền buôn Hà Tiên và Xiêm La có mua để chở về thì cứ chiếu giá mua, cứ mỗi 10 quan tiền phải nộp thuế hàng 5 tiền. Nếu chở đi các trấn để bán lại cho người bản địa thì miễn thuế.

8. Thuyền buôn Hà Tiên và Xiêm La đã vào trước cửa biển trấn nào, đã chở bán thoi sắt phiến gang hoặc đã nộp thuế cảng rồi, mà lại đi sang trấn khác để buôn bán thì phải lãnh văn bằng của quan sở tại, để khỏi phải chịu thuế lần nữa. Đến ngày trở về chỉ cho mỗi người được mua 1 phương gạo.

9. Khi thuyền buôn Hà Tiên và Xiêm La vào cửa, quan sở tại đều chiếu văn bằng mà kiểm xét số người trong thuyền, khi trở về lại kiểm đúng số, cấp văn bằng cho về. Nếu có chở kèm người bản quốc, không kể trai gái già trẻ, tức thì bắt giữ trị tội. Chủ thuyền chở kèm thì xử 100 trượng, đồ 3 năm; người trong thuyền đều bị 50 roi. Người trong thuyền mà chở kèm cũng bị tội trượng và tội đồ, chủ thuyền bị 60 trượng, những người khác đều bị 50 roi; tài vật đều sung công. Người ở trong thuyền ai phát giác thì được miễn tội mà hàng hóa cũng không mất. Nếu người ngoài phát giác thì lấy tiền tang vật của người phạm tội thưởng cho 100 quan.

10. Các thuyền buôn Hà Tiên, Xiêm La và Hạ Châu chỉ được đi thông thương từ bốn trấn ở Gia Định cho đến Quảng Ngãi là thôi.

11. Những dân buôn ở các thành dinh trấn cùng người Thanh ngụ ở nước ta không được tự tiện đi đến Xiêm La và Hạ Châu buôn bán.

12. Phép đo thuyền dùng thước đồng của nhà nước làm chuẩn, đo từ mảnh ván chắn nước ở đầu thuyền đến mảnh ván chắn nước ở cuối thuyền, được bao nhiêu trượng thước là chiều dài; chia đôi lấy giữa làm trung tâm, ở chỗ trung tâm đo từ mặt ngoài ván che bên tả đến mặt ngoài ván che bên hữu được bao nhiêu thước tấc là ngang, phần lẻ không kể.

13. Các trấn cứ chiếu số các thuyền buôn đến buôn chịu thuế trong một năm, đến cuối năm làm sổ hai bản giáp ất, do quan cai tàu chuyển tâu lên).

Chia các biền binh ngạch cũ của hai đội Nội hầu làm hai đội nhị và tam. Lấy người huyện Tống Sơn cùng những người rút về ở đội Hữu hầu và đội An lão để bổ sung. (Đội nhị 61 người, đội tam 64 người, mỗi tháng cấp lương mỗi người 1 quan 5 tiền và 1 phương gạo).

Vua thường lo đến đời sống của dân, khi có quan ở ngoài vào chầu thì vời hỏi về công việc làm ruộng, mưa nắng thế nào, giá gạo đắt rẻ. Đến nay lại hạ lệnh cho các trấn phủ huyện hỏi khắp dân gian về thời tiết cấy gặt vụ mùa vụ chiêm và về đất nên trồng những cây gì, làm sớ kê rõ tâu lên.

Thành thần Gia Định tâu rằng: “Lỵ sở Định Tường ở tại Mỹ Tho, xuống cửa biển thì hơi gần, lên đầu nguồn thì hơi xa, xin chọn một nơi đường đi lên xuống đều nhau để dời đến”. Vua cho rằng nơi ấy liền với sông cái, trên nắm Đông Khẩu, dưới thông với các tấn, không đâu tốt hơn đấy”. Không y lời xin.

Thành thần lại tâu rằng: “Thành trấn chật hẹp, xin cho dựng kho tàng ở trong thành, dựng hành cung và các sảnh thự ở ngoài thành”. Vua y cho.

Tham luận Tả quân là Phan Văn Tải tố cáo Lê Văn Duyệt thiết lập bảo và kho, ngầm sai người đi ra Bắc Thành dụ người hào kiệt. Lại thường cùng Lê Chất đi lại nói kín với nhau, ngờ là có mưu phản. Văn Duyệt sợ hãi, xin cứu xét.

Vua giao cho Hình bộ xét hỏi thì những lời tố cáo của Tải đều là vu cả, nghị nên xử tội chết. án ấy tâu lên. Vua nói: “Lời Tải đã nói dáng như có duyên cớ, nên xét cho cùng để dứt mối ngờ về sau”. Lại sai đình thần xét lại. Tải không nói được điều gì, bèn phải tội chết.

Tháng 9, triệu Ký lục Vĩnh Thanh là Trần Công Đàn về Kinh, lấy Thiêm sự Hình bộ là Trần Bá Bảo làm Ký lục Vĩnh Thanh.

Lấy Tham tri Binh bộ là Võ Danh Trung làm Tham tri Hình bộ.

Lấy Phó đốc học Quốc Tử Giám là Nguyễn Viết Ưng làm Chánh đốc học Quốc Tử Giám, hương cống triều Lê cũ là Lê Lãng làm Phó đốc học, Hàn lâm viện là Trần Ngọc Quán, Võ Quý Đĩnh và Tham luận Hậu quân là Nguyễn Văn Phong làm Thiêm sự Lại bộ, Hàn lâm viện là Phùng Huy Giảng, Thừa chỉ là Nguyễn Văn Quang, Tri phủ Thiệu Thiên là Đoàn Công Nghi làm Thiêm sự Hình bộ, Nguyễn Hữu Nghị sung Hàn lâm viện.

Ban điều lệ Đê chính cho Bắc Thành.

Vua lưu ý đến việc phòng nước sông, sai thành thần tham chước việc cũ tâu lên, lại sai đình thần bàn lại, định làm điều lệ ban hành:

1. Làm sổ chung. (Phàm đê điều và cống nước sở tại, quan trấn biên đủ số để làm ngạch nhất định).

2. Khám xét. (Mỗi năm đến tháng 10, các quan phủ huyện đi khám trước, xem chỗ nào nên đắp mới và nên sửa lại thì trình rõ quan trấn để khám lại. Quan trấn lại trình rõ quan Đê chính khám nghiệm, phân biệt công trình lớn nhỏ để quan tổng trấn xét duyệt).

3. Công việc. (Phàm đắp đê mới và sửa đê cũ rộng từ 5 thước trở lên và làm cống mới, những việc ấy là công trình lớn, đều phải lượng nhân công vật liệu và số tiền công nên chi bao nhiêu, quan Đê chính chép đưa cho quan trấn rồi sai các phủ huyện mộ dân làm phu khoán. Việc sửa đắp đê cũ rộng từ 4 thước trở xuống và tu bổ cống cũ là công trình nhỏ, chỉ sai dân chỗ nào mà thế nước chảy đến ứng dịch. Công việc đều bắt đầu làm từ tháng giêng tháng 2. Công việc nhỏ hạn một tháng làm xong, thượng tuần tháng 3 thì quan Đê chính đến khám nghiệm. Công trình lớn thì hạn hai tháng làm xong, thượng tuần tháng 4 thì quan Đê chính đến khám nghiệm. Nếu có chỗ nào sơ lược, làm không đúng cách thức, tùy theo nặng nhẹ mà kết tội, bắt phu khoán làm đền. Quan Đê chính phải vẽ bản đồ và làm sổ, quan tổng trấn phải ghi những số tiền đã chi tiêu tâu hết lên).

4. Tính giá. (ở thượng lưu trung lưu sông cái, mặt đê rộng 2 trượng, chân rộng 7 trượng, cao 1 trượng, 2 thước, mỗi trượng lấy đất chứa trên mặt bằng 54 đống làm hạn. ở hạ lưu thì mặt đê rộng 1 trượng 5 thước, chân rộng 5 trượng cao 1 trượng, mỗi trượng lấy đất chứa 32 đống 5 thước làm hạn. Những sông vừa, mặt đê rộng 1 trượng 2 thước, chân rộng 4 trượng cao 1 trượng, mỗi trượng lấy đất chứa 26 đống làm hạn. Những sông nhỏ, mặt đê rộng 9 thước, chân rộng 3 trượng cao 9 thước, mỗi trượng lấy đất chứa 17 đống 5 thước 5 tấc làm hạn. Chỗ bùn lầy, sâu từ 1 thước đến 4 thước, mỗi trượng dùng 46 cây gỗ, 6 cây tre tươi. Bùn lầy sâu 5, 6 thước trở lên, mỗi trượng phải dùng 73 cây gỗ, 6 cây tre tươi, đều chi tiền mua dùng để làm cọc cốt đê, cánh phên, cầu dài, cầu ngang, cùng cừ gỗ, sách gỗ hai bên. Lại sai dân đào hết bùn lầy đi, đến đất chắc mới cho đắp làm. Phàm đắp đê mới hay sửa đê cũ, về công trình lớn thì định đống đất bốn bề mỗi bề dài 1 trượng sâu 1 thước làm một đống. Xem lấy đất gần xa khó dễ để định tiền công thuê. Như ngoài chân đê 5 trượng hai bên có thể lấy được đất thì tiền công bớt đi. Nếu chỗ lấy đất được có một bên, hay bị hồ ao gián cách thì tiền công tăng lên. Đê ở sông cái tính để lại mỗi trượng 3 quan, đê ở sông nhỏ, tính để lại mỗi trượng 1, 2 quan, đợi sau có phải đắp đền hay không sẽ chiếu số trả lại. Làm cống nước, đào đất cũ đi và lấy đất lấp đầy lên, cứ mỗi đống đất cấp cho 6 tiền. Mua gỗ lim, cây dài 12 thước, ngang 1 thước, trị tiền 22 quan. Cứt sắt, đá trấy, mỗi 100  cân trị giá 3 tiền. Mây chão mỗi 100 cân trị giá 4 tiền. Lấy sắt cống rèn đanh, thiếu phải mua thêm mỗi 100 cân trị giá 12 quan. Than gỗ 100 cân trị giá 1 quan. Cây gỗ làm chày, hai đầu bọc sắt, mỗi cây dài 4 thước 3 tấc, ngang 3 tấc, trị giá 1 tiền 30 đồng, nện chày mỗi ngày 2 tiền).

5. Giám đốc. (Quan Đê chính ủy cho thuộc viên cùng với thuộc viên của trấn chia nhau đi trông coi đốc suất).

6. Bảo cố. (Đê và cống đã làm xong, đều sai phu khoán phòng giữ, đê hạn 3 năm, cống  hạn 5 năm, trong hạn ấy, có chỗ nứt lở sụt đổ thì phải làm đền. Quan trấn và người trông coi đốc suất đều tùy theo nhẹ nặng mà luận tội. Quan Đê chính cũng bị phạt. Nếu đê vì nước lên mạnh quá sức người không thể chống giữ được thì miễn tội).

7. Phòng và hộ đê. (Hằng năm cứ đến kỳ tháng 4 nước sông lên to, quan trấn chia nhau đi khám xét. Đoạn nào xung yếu, khiến phủ huyện bắt dân đắp phụ ngay. Chỗ nào nước chảy xói mạnh quá thì đốc quân và dân để sẵn nhiều sọt đất và cây gỗ để tùy thế chống giữ. Đoạn nào thế khó giữ được thì báo ngay cho thành, để phái thêm quan và binh góp sức chống giữ. ở ngoài chân các đê sông lớn cách 5 trượng hoặc 7 trượng, mỗi trượng trồng sáu cây tre để chống sóng dữ và khi khuyết vỡ thì lấy mà chống chữa, không quan hệ đến việc chống chữa thì không ai được chém tre ấy).

8. Răn cấm. (Những quan lại quân lính khám xét, trông coi, làm việc, đều không được sách nhiễu tiền gạo của dân và bắt dân khiêng chở. Làm trái thì thành thần xét trị tội).

Chia các công tượng [thợ] ở Bình Định làm ba ban để sang xuân về Kinh làm việc, lần lượt thay đội để cho nhọc rỗi đều nhau.

Bọn Lê Duy Hoán, Lê Duy An vào chầu. Cho hơn 100 quan tiền.

Bắc Thành bị gió bão, nước biển tràn lên. Hải Dương, Yên Quảng và Sơn Nam hạ nặng nhất, dân gian bị hại nhiều. Thành thần đem việc tâu lên, và xin sai người đến khám để bàn việc chẩn cấp.

Chiếu trả lời rằng: “Dân đương mắc nạn đói, không thể trông nhờ vào đâu, nếu đợi khám rồi mới chẩn cấp thì làm sao cứu được cái nạn cần kíp như lửa đốt lông mày”. Bèn hạ lệnh cho Phạm Như Đăng đi Sơn Nam hạ, Đặng Trần Thường đi Hải Dương, Yên Quảng, theo tại nạn nặng nhẹ, khiến trấn thần sở tại phát ngay thóc mà chẩn cấp.

Trấn thần Bình Định tâu rằng: “Dân thôn Vĩnh Khánh trưng mua đầm Hải Đông thuộc Thanh Châu gồm 10 sở, mỗi năm nộp thuế yến sào 10 cân, nay lấy không được, xin nộp thay bằng tiền 400 quan”. Vua y cho.

Vua thấy Hình bộ Phước tâu các án, thường tâu sau khi các nha đã tâu việc rồi, bèn triệu đường quan sáu bộ mà dụ rằng: “Việc hình ngục quan hệ đến tính mạng của thiên hạ, từ nay các quan tâu việc, trừ khi là việc quan trọng khẩn cấp, thì bộ Hình đem việc án tâu trước để tỏ ý của trẫm kính cẩn việc dụng hình”.

Mùa đông, tháng 10, ngày mồng 1, tế đông hưởng.

Tham hiệp Sơn Tây là Dương Công Tòng, Tham hiệp Sơn Nam thượng là Nguyễn Công Viên đều nghỉ đinh ưu. Lấy Tri phủ Kinh Môn là Lê Văn An làm Tham hiệp Sơn Tây, Tri phủ Lạng Giang là Nguyễn Văn Khánh làm Tham hiệp Sơn Nam thượng.

Lưu thủ Quảng Đức là Nguyễn Công Hòa, Lưu thủ Quảng Trị là Nguyễn Cửu An xin nghỉ về thăm nhà. Vua y cho. Công Hòa nói với Binh bộ Lê Quang Định phái cấp cho 20 người lính dinh đi theo. Vua nghe tin nói rằng: “Về thăm nhà  là việc riêng của Hòa, sao được đem riêng lính dinh đi theo?”. Tức thì xuống lệnh trói Quang Định ở công thự bên văn, bắt Công Hòa trở về Kinh, giao cho đình thần xét hỏi, rồi tha cho. Sai lấy lính đội Tiệp sai cấp cho Công Hòa 6 người, cấp cho Cửu An 5 người.

Lấy Phó đô thống chế Huỳnh Viết Toản lãnh chức Lưu thủ Quảng Đức, Cai cơ Nguyễn Văn Thiện làm Lưu thủ Quảng Trị.

Hạ lệnh cho Tuyên úy đại sứ Tuyên Quang là Ma Sĩ Trạch đem 150 người lính hiệu Hùng nhị đóng giữ bảo Tụ Long.

Thả cho thợ ngói ở Bình Hòa về. Thưởng cho cai quan áo quần đều một cái, tiền 10 quan, ty quan tiền 7 quan, thợ mỗi người tiền 3 quan.

Tham hiệp Sơn Nam hạ là Võ Văn Sĩ ốm phải nghỉ việc; lấy Tri phủ ứng Thiên là Trần Văn Lộc làm Tham hiệp Sơn Nam hạ.

Dời trạm Hà Lam dinh Quảng Nam đến Ngọc Phố (nay là Nam Ngọc), sai lấy dân Ngọc Phố sung làm phu trạm, mà kén dân Hà Lam làm lính.

Nguyễn Văn Trương lấy cai đội thuộc quyền là Nguyễn Qua cho vào sách Man đổi chác. Việc phát giác, bị phạt.

Đổi hai đội Lão thuyền làm hai đội Tư phụng.

Hộ bộ Nguyễn Kỳ Kế chết, tặng Tham chính, cấp cho 3 người mộ phu.

Triệu Hiệp trấn Sơn Tây là Nguyễn Thừa Thân về Kinh. Thân là cháu gọi bằng chú bác Tham tán Nguyễn Thừa Diễn và là em Đốc chiến Nguyễn Thừa Ước, Diễn và Ước trước theo Duệ tông Hiếu định hoàng đế vào Nam, sau đều chết tại Gia Định. Thân xin đi đem hài cốt về chôn. Vua y cho.

Người Vĩnh Thanh tên là Sâm tự xưng là Chánh trấn Hậu Giang đại tướng quân, làm ấn tín ngụy, đòi dân giàu phải đưa của cải. Việc phát giác, bắt giết.

Tháng 11, sai Hàn lâm thị thư Võ Văn Vượng và Trần Văn Phân bang biện công việc quan ải và khai mỏ ở Bắc Thành.

Định điều lệ về tội cướp. Phàm kẻ cướp đã hai lần lấy được của, hoặc một lần lấy được của một lần không, đều là cố ý phạm pháp, cho chém trước rồi sau tâu lên. Nếu hai lần đều chưa lấy được gì và mới phạm một lần mà lấy được của, thì đều phải tâu lên đợi chỉ.

Bọn Chưởng cơ Cáp Văn Hiếu, Cai cơ Nguyễn Văn Tuấn tâu nói rằng tiên tổ trước là người Thanh Hoa Nghệ An, được theo thờ triều trước,  đặt đồn ở Võ Xá và Thạch Xá (hai xã thuộc tỉnh Quảng Bình), cho lấy hơn 70 mẫu ruộng công ở đấy lập làm hai ấp Tráng Tiệp và Tả Thắng, tha cho thuế lệ, đến đời ngụy Tây mới đánh thuế, nay xin vẫn miễn như cũ. Vua y lời tâu.

Lấy Vệ úy vệ Trung nhị Thị trung là Huỳnh Công Lý làm Vệ úy vệ Trung nhất Thị trung, Vệ úy vệ Tiền nhị là Trương Phước Đặng làm Vệ úy vệ Trung nhị, Vệ úy vệ Túc võ quân Thần sách là Phan Văn Thúy làm Vệ úy vệ Tiền nhị, Vệ úy vệ Tề võ là Tôn Thất Dịch làm Vệ úy vệ Tả nhất, Vệ úy vệ Toàn dũng là Tôn Thất Huy làm Vệ úy vệ Hữu nhị, Cai đội Thị trung là Thái Ngọc Bạch làm Phó vệ úy vệ Hữu nhị.

Sai Binh bộ duyệt các dinh vệ hiệu các quân, ai quê ở Tống Sơn thì bổ vào các đội của vệ Thắng uy.

Tham hiệp Cao Bằng là Võ Văn Chiêu tiêu hụt tiền công 2.600 quan, thu riêng bạc thuế ba năm của sách Man hơn 500 lạng. Việc phát giác, bị giết, tịch thu gia sản. Lấy Tri phủ Thượng Hồng là Bùi Văn Bình làm Tham hiệp Cao Bằng.

Triệu Trưởng chi đồn Xiêm binh là Diệp Mậu về Kinh; lấy Phó trưởng chi là ích làm An phủ phủ Trà Vinh kiêm làm việc phủ Mân Thít.

Quan Bắc Thành tâu rằng: “Bảo Nông Giang là nơi thủy quân đóng, phía trước giáp sông cái, có thể thông việc vận tải, nay Hải Dương kho chứa đầy dẫy, xin sai trấn thần dựng kho lợp tranh ở đấy, thu thóc tô chín huyện Đường An, Đường Hào, Cẩm Giàng, Gia Lộc, Tứ Kỳ, Vĩnh Lại, Thanh Miện, Tiên Minh, Thanh Hà chứa vào đấy, để phòng chi phát và tiện đường vận chở”. Vua theo lời xin.

Dựng các kho Tiên Lý, Hà Trung, Đại Nại ở Nghệ An. Sai trấn thần chi tiền kho và lấy gỗ lim mà làm.

Tha thuế thiếu cho dân biệt nạp gỗ lim ở Nghệ An, sai lấy 10.000 cây gỗ hành  (1. Hành: Gỗ ngang ở trên rường nhà.) để nộp.

Đô thống chế lãnh phó tướng quân Chấn võ là Trần Văn Tín cho riêng lính thuộc hiệu sang buôn bán ở Nam Vang. ốc nha nước Chân Lạp là Ma lấy cớ là không có ấn quan cấp thông hành bắt giết. Thành thần Gia Định đem việc ấy hặc tâu. Hạ lệnh cách hàm Đô thống chế của Văn Tín.

Hạ lệnh cho Gia Định thu lại ấn “Thủy lợi lý tài” và ấn “Nam Vang thông hành”. Trước kia lệ định phàm cho người lãnh trưng đầm ao thì dùng ấn có chữ “Thủy lợi lý tài chi ấn”, người sang buôn ở Nam Vang thì dùng ấn có chữ “Nam Vang thông hành chi ấn”. Đến nay ra lệnh nộp lại để dùng ấn tổng trấn.

Trấn thần Bình Định tâu xin mộ dân ngoại tịch bổ làm hai đội Trấn binh nhất, nhị. Vua y cho.

Trấn thủ Sơn Tây là Huỳnh Đăng Lý ốm phải nghỉ việc; lại lấy Trương Phước Phượng làm trấn thủ Sơn Tây.

Triệu Đặng Trần Thường về Kinh.

Lấy Thượng thư Binh bộ là Lê Quang Định làm Thượng thư Hộ bộ, cải thụ Lại bộ Trần Văn Trạc làm Thượng thư  Lại bộ, Lễ bộ Đặng Đức Siêu làm Thượng thư Lễ bộ, Binh bộ Đặng Trần Thường làm Thượng thư Binh bộ,

Hình bộ Nguyễn Tử Châu làm Thượng thư Hình bộ, Công bộ Trần Văn Thái làm Thượng thư Công bộ, Hình bộ Phạm Như Đăng làm Thượng thư Hình bộ vẫn lãnh công việc Hình tào ở Bắc Thành. Sáu bộ đặt chức thượng thư bắt đầu từ đấy.

Lấy Cai bạ Trần Tấn Bửu làm Hữu tham tri Hộ bộ kiêm quản công việc Nội đồ gia, Ký lục Trần Công Đàn hiệp đồng quản trị.

Lấy Ký lục Quảng Ngãi là Đoàn Viết Nguyên làm Cai bạ Quảng Trị.

Tháng 12, thêm chế lộc hàng năm cho các hoàng tử hoàng tôn (tiền 360 quan, gạo 360 phương).

Lấy Trưởng chi Trương Văn Dương làm Vệ úy vệ Hậu bảo nhị thuộc Hậu quân.

Đốc học Hoài Đức là Phạm Thích ốm phải nghỉ việc; lấy Trần Toản làm Đốc học Hoài Đức.

Trấn thủ Hà Tiên là Chưởng cơ Mạc Tử Thiêm chết. Hà Tiên, từ khi Mạc Cửu hiến đất tới nay, triều đình vẫn nhớ đến người cũ có công nên cho con cháu đời đời được tập chức Trấn thủ. Đến khi Tử Thiêm chết, con là Công Thế, Công Tài còn nhỏ, cháu [gọi bằng chú bác] là Công Du vì có việc bị giao xuống nghị tội. (Công Du đem vợ lẽ của Đô thống chế Phạm Văn Triệu bán cho người Xiêm), bèn sai Cai đội Ngô Y Nghiễm và Tham luận Lê Tiến Giảng quyền lãnh việc trấn, mà ấm thụ cho bọn Công Thế làm cai đội để giữ việc thờ tự họ Mạc, cấp cho mộ phu 53 người. Hạ lệnh cho thành thần Gia Định đem việc ấy báo cho nước Xiêm biết. Vua Xiêm viết thư trả lời nói: “Cha con Mạc Thiên Tứ có công to ở Hà Tiên, xin rộng tha tội cho Công Du để cho tập chức”. Vua lại sai Lại bộ làm thư trả lời rằng: “Hà Tiên vốn là bờ cõi của triều đình, từ các vua trước của ta dựng cờ trấn tiết, cha con Mạc Thiên Tứ đều hay giữ tròn chức vụ nên trao chức cho, chứ đấy không phải là khuê điền thái ấp (1. Ruộng ấp cấp cho chư hầu.), không thể viện làm thế nghiệp được. Huống chi đất ấy liền núi sát biển, từ khi nổi binh thì dân vật tiêu điều, vỗ về yên ủi chính là việc cần kíp hiện nay. Công Du nếu có tài thì không cứ phải là dòng dõi Thiên Tứ, cũng nên trao cho trấn chức; nhưng vì tài kém tuổi ít, chưa thể làm nổi, nên mới không cho, không phải là tiếc đâu. Nhớ công mà tập ấm cho một người là việc nhỏ mà nhà nước đặt quan vì dân là việc to. Lệnh đã ban ra là phải làm, lý không thể kéo lại được. Xin vua nghĩ xem”. Vua Xiêm nhận được thư bèn thôi.

Ban lộc hằng năm (tiền 180 quan, gạo 180 phương) cho hoàng tôn (tức Hiến tổ chương hoàng đế).

Các tù trưởng ở tám sách Man hoang thuộc Bình Thuận (sách Kiều, sách Dương, sách Lân, La Thế, Ba Lang, Hà Lung, Ba ác, La Dao) đến trấn dâng một cặp ngà voi, nhân nói các Man ở xa lánh chốn núi sâu, trước không phải nộp thuế, nay xa thấm đức hóa của vua, đem nhau quy thuận, xin mỗi năm nộp 2 con trâu để làm ngạch thuế. Lưu thủ Phan Tấn Quý cấp áo quần, muối gạo để vỗ về. Bọn tù trưởng đều mừng, xin chiêu dụ các Man đến quy thuận.

Định lệ cho thuyền vận tải ở Gia Định phối hợp chở dầu và than. (Phàm phối hợp chở dầu rái và than gỗ cứ 100 cân thì cấp cho tiền thuê bằng chở 2 hộc thóc).

Sai Phó quản cơ cơ Trung thủy là Phan Văn Thọ, Phó quản cơ cơ Tiền thủy là Nguyễn Tài Năng vận chở gỗ ván ở Gia Định về Kinh.

Binh sáu cơ Kiên ở Quảng Ngãi đóng giữ miền thượng đạo nhiều người bị ốm, trấn thần xin đặt mười người y sĩ ngoại khoa để chia nhau đi điều trị. Vua y cho.

Vét đường kênh Vịnh Giang ở Nghệ An. Hiệp trấn Ngô Đình Siêu vào chầu, đem bản đồ dâng lên. Sai lấy dân mà đào vét.

Sai Phó vệ úy vệ Nghiêm võ là Tôn Thất Nhật và Thiêm sự Hộ bộ là Nguyễn Khoa Minh trông coi cục Đúc tiền ở Bắc Thành.

Nước Xiêm La bị nước Miến Điện đánh, trưng 5.000 quân ở Chân Lạp. Nặc Chăn sai em đem quân đi và sai quan triệu bồn nha chạy báo tin cho Gia Định biết. Thành thần đem việc tâu lên. Sai dò hỏi việc binh của người Xiêm, chạy sớ tâu ngay cho biết.

Phật vương mới của nước Xiêm La sai bề tôi bọn Phi Nhã Sĩ Xú Ly Giá Ba Ha đến dâng sản vật địa phương vào cáo tang Phật vương trước. Vua thứ hai nước Xiêm mới chịu nhà Thanh phong, cũng đem phẩm vật đến tiến. Khi sứ đến Gia Định, thành thần thấy trong thư nói nhiều chỗ khoa trương cho rằng nhận thư thì làm cho họ kiêu ngạo thêm mà khước từ thì hại tình hòa hảo, bèn làm mật sớ tâu lên. Vua nói: “Người Xiêm không có văn tự, đấy đều là lỗi của người Đường (người Thanh nhiều người làm quan ở nước Xiêm) sính bút thôi, không đủ trách”. Sai đưa sứ giả về Kinh, lại phái quân đi Quảng Nam, Bình Định để hộ tiếp. Sứ giả đến vua vời vào yết kiến, hỏi về tình trạng đánh nhau với Miến Điện. Sứ giả đem sự thực nói. Ở vài ngày, hậu đãi rồi cho về. Sai Tống Phước Ngoạn, Phạm Cảnh Giảng, Dương Văn Châu, Võ Doãn Thiếp sung làm Chánh phó sứ hai sứ bộ sang Xiêm. (Phúng Phật vương trước: đường phổi, đường phèn đều 1.000 cân, đường cát 1.500 cân, sáp ong 500 cân, lụa trắng, vải trắng mỗi thứ 100 tấm; tặng Phật vương mới: kỳ nam 2 cân, nhục quế 3 cân, lụa 100 tấm, the màu 200 tấm, sa màu 100 tấm, vải trắng nhỏ 100 tấm; cho vua thứ hai mới: kỳ nam 1 cân, nhục quế 1 cân 8 lạng, lụa 50 tấm, the màu 100 tấm, sa màu, vải trắng đều 50 tấm). Sứ giả về. Xiêm La gửi thư trần tạ.

Ngày Mậu tuất, yết lăng.

Ngày Kỷ hợi, tế Chạp.

Tha giảm tô thuế ruộng vụ mùa năm nay cho năm trấn nội ở Bắc Thành. Chiếu rằng: “Có ruộng thì có tô là đạo thường của nhà nước, những có vùng lụt hạn, nên lượng gia khoan giảm. Nay vụ mùa ở các trấn nơi thì nắng hạn lâu ngày, nơi thì gió bão nước mặn, lúa má tổn hại, đã soi xét rõ, rất là đáng thương. Vậy hạ lệnh cho Hộ bộ chiếu ruộng vụ mùa, phàm 10 phần tổn hại 4 phần thì giảm cho 1 phần, tổn hại 5 phần thì giảm cho 3 phần, tổn hại 6 phần thì giảm cho 5 phần, tổn hại 7 phần thì giảm cho 7 phần, tổn hại 8 phần trở lên thì cho miễn cả. Đến như ruộng cấy hai mùa, nửa nộp về mùa thu cũng lấy 10 phần làm suất, chiếu số mà thu giảm”.

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển XL – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Canh ngọ, Gia Long năm thứ 9 [1810] (Thanh Gia Khánh năm thứ 15), mùa xuân, tháng giêng, ngày Quý hợi tế xuân hưởng.

Sai bốn dinh trực lệ và trấn Quảng Ngãi kén dân phụ giữ các cửa biển, người nào khỏe mạnh, giỏi lội nước, cứ 5 đinh lấy 1 người, cho lệ vào thủy quân, do Tống Phước Lương quản lãnh.

Dân Bắc Thành bị đói. Trước là trấn Kinh Bắc, Hải Dương, Yên Quảng, Sơn Nam hạ bị hạn và lụt, thành thần đem việc thiên tai báo lên. Sai hoãn việc đòi lính, nghỉ hỏi kiện vặt, bãi các công dịch, lại sai thành thần bàn kỹ chính sách cứu đói. Nguyễn Văn Thành dâng sớ nói: “Nước lấy dân làm gốc, dân lấy ăn làm đầu. Sau khi các trấn bị thiên tai, nhân dân ngày càng đói lắm. Xin bàn cách phát chẩn và cho vay, để đỡ túng ngặt cho dân, cấm chọn tiền để dân tiêu dùng được dễ”. Vua đều theo lời. Sai phát thóc kho ra 30.000 hộc, khiến bọn Trương Tấn Bửu, Phạm Như Đăng, Nguyễn Đình Đức chia đi các nơi chẩn cấp. Lại sắc rằng thuế khóa trưng thu và dân gian mua bán, ai dám kén chọn loại bỏ đồng tiền thì trị tội.

Trương Tấn Bửu đến Kinh Bắc phát chẩn. Trấn thủ là Lưu Phước Tường truyền hịch cho các phủ huyện đem dân đến. Duy có dân huyện Võ Giàng đến sau. Tường bắt Tri huyện là Nguyễn Văn Hán đánh roi để trách. Hán nói : “Kẻ sĩ thà chết chứ không chịu nhục”. Xin trả chức về ruộng làng. Thành thần tâu lên. Vua nói: “Hán chậm trễ vẫn là có tội rồi. Tường đánh bằng roi để làm nhục cũng chẳng quá lắm ư?”. Giao cho thành thần bàn. Tường bị phạt. Hán mất chức Tri huyện.

Kén người tôn thất và công tính vào đội Nội hầu, mỗi tháng cấp tiền gạo theo thứ bậc.

ở huyện Lục Ngạn trấn Kinh Bắc giặc nổi, quan Bắc Thành đem quân đi bắt. Thổ hào là bọn Nguyễn Hiển và Giáp Phủ đi theo quân, chém được 4 đầu giặc. Việc tâu lên. Cho bọn Hiển làm Đội trưởng, thưởng tiền 200 quan.

Giặc trốn ở Sơn Âm tên là Quách Tất Thúc lại cùng tướng giặc là Đặng Trần Siêu họp quân ở Mỹ Lương. Bắc Thành gửi thư cho Thanh Hoa đem quân hợp đánh. Đốc trấn là Tôn Thất Chương cho rằng Tất Thúc trước đã xin hàng, chưa chắc là lại làm phản, sai người đi dò xem mà đem việc tâu lên. Vua xuống chiếu rằng: “Tất Thúc nói dối đầu hàng, chỉ là kế hoãn binh thôi. Trẫm đã mật chiếu cho Bắc Thành chia đường tiến công, ngươi nên đóng quân yên lặng, để cho nó một con đường sống. Nếu giặc thế cùng quay đầu về thú thì bắt giữ lấy, triều đình tự có cách xử trí”. Rồi người đi dò thám trở về nói:  Bọn giặc có hơn nghìn người, mưu đánh úp Thiên Quan. Chương chia quân đóng giữ đường hiểm yếu, giặc sợ không dám động. Vừa các đạo quân Bắc Thành tiến đến giáp đánh, bắt được hơn mười người, giặc bèn chạy trốn.

Cho Lê Phi Mại coi việc động Khương Chánh (thuộc châu Lương Chánh, trấn Thanh Hoa). Theo tục người thổ ở động sách, người chánh phái làm thổ tù, người thứ phái làm phụ đạo. Thổ tù là Lê Phi Giáp còn nhỏ, có chiếu cho làm phòng ngự sứ, phụ đạo là Phi Mại lấy tư cách là phòng ngự đồng tri xin được mệnh lệnh của triều mà quyền việc động, không dám trái vượt phận chánh thứ. Lê Chất tâu việc ấy lên, nên có mệnh này.

Tổng trấn Gia Định là Nguyễn Văn Nhơn ốm. Cho 3 cân quế. Hơn một tháng thì bệnh khỏi, dâng sớ tạ ơn.

Nguyễn Văn Thành tâu nói: “Tả quân Nguyễn Cửu Dật chết về việc nước, lại có chiến công, xin chiếu theo lệ công thần, hoặc cho tòng tự hoặc được thờ riêng, để nêu lòng trung”. Vua sai đình thần bàn.

Giảm thuế đầm Hải Đông ở Bình Định và thuế người Man Phương Kiều ở Bình Định. Lệ trước thuế đầm Hải Đông là 710 quan, thuế nguồn Phương Kiều hơn 550 quan và 360 cân sáp ong. Năm nay người lãnh trưng lấy cớ là lợi cá ở đầm Hải Đông ít đi nên xin bớt tiền thuế 210 quan. Người Man buôn ở nguồn Phương Kiều xiêu tán, xin bớt tiền thuế hơn 250 quan. Trấn thần đem việc tâu lên. Vua y cho.

Sửa lầu Thủy Các (xây lầu ở trên thuyền lớn, thuyền dài 7 trượng, ngang 3 trượng 5 thước). Thưởng cho binh và thợ hơn 600 quan tiền.

Định thứ vị những công thần khai quốc, công thần trung tiết và công thần trung hưng.

Công thần khai quốc 4 người. (Nội tán tặng Đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu Thái thường tự khanh Lộc Khê hầu Đào Duy Từ, Tiết chế tặng Tả quân đô đốc phủ chưởng phủ sự Thuận quận công Nguyễn Hữu Tiến, Lưu Đồn đạo đốc suất tặng Tả quân đô đốc phủ chưởng phủ sự Chiêu quận công Nguyễn Hữu Dật, Phó tướng chưởng cơ tặng Đô đốc phủ chưởng phủ sự Lễ Tài hầu Nguyễn Hữu Kính, cộng 4 người).

Công thần trung tiết 114 người. (Trung dinh giám quân tặng Hữu phủ chưởng dinh quận công Nguyễn Hữu Thoại, Tiết chế Tả quân đô đốc tặng Đô đốc phủ chưởng phủ sự quận công Nguyễn Cửu Dật, Phó tiết chế nội tả chưởng dinh tặng Đô đốc phủ chưởng phủ sự quận công Nguyễn Cửu Tuấn, Tiết chế tặng Hữu phủ Kính quốc công Tống Phước Hợp, Chưởng cơ tặng Chưởng dinh quận công Nguyễn Kim Phẩm, Chưởng cơ quản Phiên Trấn binh dân chư vụ tặng Chưởng dinh quận công Trần Xuân Trạch, Thiếu phó chưởng dinh quận công Tôn Thất Xuân, Nội tả chưởng  dinh tặng Tả quân đô đốc quận công Nguyễn Văn Chính, Tổng nhung chiêu thảo sứ chưởng cơ tặng Chưởng dinh quận công Nguyễn Thành, Chưởng cơ tặng Chưởng dinh quận công Tống Phước Hòa, Trấn thủ chưởng cơ tặng Chưởng dinh Bùi Kế, Nội tả chưởng cơ Tống Phước Mẫn, Chưởng dinh Tống Phước Hựu, Tiền chi tạm quản Tiên phong thủy đạo tặng Chưởng dinh Nguyễn Văn Hiển, Đốc chiến chưởng cơ Nguyễn Thừa Ước, Tán lý chiêu thảo sứ tặng Tham chính Đỗ Văn Hoảng, Cai cơ tặng Chưởng cơ Trần Văn Chân, Hồ Văn Khách, Nguyễn Văn Đán, Phạm Văn Thịnh, Châu Văn Bích, Tổng nhung chưởng cơ Huỳnh Tấn Cảnh, Cai cơ quản Tả hầu đạo tặng Chưởng cơ Huỳnh Văn Duyệt, Chưởng cơ Hà Văn Lộc, Cai cơ tặng chưởng cơ Nguyễn Văn Hương, Thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Phan Văn Nhị, Cai cơ tặng Chưởng cơ Tống Huề, Nguyễn Văn Lượng, Phan Văn Tấn, Thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Lê Sương, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Quán, Nguyễn Văn Thịnh, Thuộc nội cai cơ tặng Chưởng cơ Bùi Văn Nghị, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Phượng, Thống lĩnh cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Luận, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Sương, Thống lĩnh cai cơ tặng Chưởng cơ Hoàng Quỳnh, Tổng nhung cai cơ tặng Chưởng cơ Đinh Văn Long, Tiền quân cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Lân, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Lượng, Ngô Cẩm, Tống Văn Trung, Trần Văn Vạn, Nguyễn Văn Minh, Cai cơ quản Hữu đạo quân tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Tài, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Bình, Thuộc nội cai cơ tặng Chưởng cơ Võ Văn Chính, Phiên Trấn Cai cơ suất Tân nhưng đội tặng Chưởng cơ Nguyễn Chương, Thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Vận, Cai cơ tặng Chưởng cơ Lê Văn Cẩn, Nguyễn Công Hổ, Hoàng Lịch, Tổng nhung cai cơ tặng chưởng cơ Hồ Văn Huệ, Cai cơ tặng Chưởng cơ Lưu Văn Trí, Ngô Đằng, Nguyễn Quả, Giám quân cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Thảo, Thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Hoàng Lộc, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Lý, Ngô Nghĩa, Nguyễn Đằng, Thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Trần Tú, Đốc chiến cai cơ tặng Chưởng cơ Phạm Văn An, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Vạn, Nguyễn Long, Nguyễn Văn Liêm, Dương Văn Hạnh, Lê Phước Điến, Thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Đặng Văn Thúy, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Phú, Vĩnh Trấn Lưu thủ tặng Chưởng cơ Nguyễn Đăng Chiêu, Thuộc nội thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Công Kiêm, Đốc chiến cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Triệu, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Tường, Thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Tống Văn Phước, Cai cơ tặng Chưởng cơ Ngô Văn Lễ, Nguyễn Giám, Nguyễn Thái, Nguyễn Lộc, Tổng nhung cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Loan, Cai cơ tặng Chưởng cơ Lê Cẩm, Đỗ Điền, Trấn dinh Lưu thủ cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Thuận, Cai cơ tặng Chưởng cơ Lưu Văn Trung, Nguyễn Văn Lễ, Thuộc nội cai cơ tặng Chưởng cơ Võ Văn Tuy, Nguyễn Văn Thiện, Lê Văn Lan, Tổng nhung cai cơ tặng Chưởng cơ Phạm Văn Thạc, Thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Phạm Văn Khánh, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Kỷ, Thuộc nội cai cơ tặng Chưởng cơ Bùi Liêm, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Mân, Nguyễn Công Thoại, Trần Phước, Lê Quản, Nguyễn Ngộ, Nguyễn Văn Châu, Hoàng Bản, Nguyễn Chân, Cai cơ suất Tả bộ tặng Chưởng cơ Nguyễn Nghi. Đốc chiến Nguyễn Cửu Đàm, Tham tán Trần Phước Thành, Điều khiển Tống Văn Khôi, Thống binh Nguyễn Văn Tuy, Lại bộ Bạch Doãn Triều, Tham tán Nguyễn Đăng Trường, Nguyễn Thừa Điển, Giám quân chưởng cơ Nhật Long Hồ, Ký lục Bùi Hữu Lễ, Hậu tập cai đội Tân, Trung chi cai đội Phú, Hữu chi cai đội Bảo, Tả chi cai đội Trọng, cộng 114 người).

Công thần trung hưng 258 người. (Chính giữa thờ: Thiếu phó quận công Tôn Thất Mân, Chưởng Hậu quân bình Tây tham thặng đại tướng quân tặng Thái úy quốc công Võ Tánh, Chưởng Tả quân thiếu phó quận công Tôn Thất Huy, Lễ bộ tặng Thái tử thái sư quận công Ngô Tùng Châu, Chưởng Tiền quân điều bát chư đạo bộ binh bình Tây đại tướng quân quận công Tôn Thất Hội, Ngoại tả chưởng dinh đại đô đốc tặng Tả quận đô đốc phủ chưởng phủ sự quận công Châu Văn Tiếp, cộng 6 người. Tả nhất thờ: Ngoại tả hữu chưởng dinh quận công Nguyễn Đình Thuyên, Ngoại hữu chưởng dinh lãnh đại tư nông tặng Hữu  quân đô đốc phủ chưởng phủ sự quận công Tôn Thất Dụ, Thuộc nội cai cơ quản ngũ thủy dinh tặng Thiếu bảo quận công Võ Di Nguy, Thần sách quân Trung dinh đô thống chế tặng Thiếu bảo quận công Tống Viết Phước, Trung dinh giám quân tặng Cai cơ Tống Phước Đạm, Thuộc nội cai cơ quản Tiểu sai đội tặng Chưởng cơ Bùi Văn Khoan, Tống Phước Ngọc, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Đăng Vân, cộng 8 người. Hữu nhất thờ: Ngoại tả chưởng dinh kiêm Chưởng sứ sự tặng Thái bảo quốc công Tống Phước Khuông, Nội thủy chưởng cơ kiêm Công bộ cai Nội mã cai Tàu vụ tặng Chưởng dinh quận công Tôn Thất Cốc, Thuộc nội cai cơ quản Tiểu sai đội tặng Chưởng cơ Đỗ Văn Hựu, Thuộc nội cai cơ quản Tiền trực vệ, tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Mẫn, Thần sách quân Hậu dinh đô thống chế tặng Thiếu bảo quận công Mai Đức Nghị, Thuộc nội cai cơ chánh giám thành sứ tặng Chưởng cơ Tô Văn Đoài, Thuộc nội cai cơ quản Tiểu sai đội tri Tượng chính cai Trường đà sự tặng Chưởng cơ Trương Phước Luật, Lễ bộ kiêm đốc học tặng Thiếu phó Nguyễn Thái Nguyên, cộng 8 người. Tả nhị thờ: Thuộc nội tổng nhung chưởng cơ quản Tiền quân đạo điều bát bộ binh tướng sĩ quận công Nguyễn Văn Hoằng, Quản Tiền chi hiệu úy tặng Chưởng cơ dinh Nguyễn Văn Đắc, Tổng nhung Chưởng cơ Huỳnh Tấn Cảnh, Hộ bộ tặng Tham chính Trần Phước Giai, Tiền quân phó tướng chưởng cơ Phạm Văn Sỹ, Cai cơ quản Tiền chi tặng Chưởng cơ Ngô Công Quý, Tiền phong dinh chưởng dinh hành Diên Khánh thành án trấn Nguyễn Văn Tánh, Thuộc nội cai cơ quản Long điện vệ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Liêm, cộng 8 người. Hữu nhị thờ: Trấn Biên Lưu thủ cai cơ tặng Chưởng cơ Đoàn Văn Kha, Đốc chiến cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Thuận, Thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Thành, Phiên Trấn Lưu thủ cai cơ tặng Chưởng cơ Trương Văn Giao, Quản Trung thủy dinh cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Uy, Lễ bộ Nguyễn Nghi, Tuyên úy sứ thị giảng hành Lễ bộ sự tặng Lễ bộ thượng thư Nguyễn Đô, Hộ bộ tặng Tham chính Phan Thiên Phước, Cai cơ tặng Chưởng cơ Bùi Văn Điển, cộng 9 người. Dãy bên đông thờ : Trung thủy dinh thống chế tặng Chưởng dinh Tống Phước Châu, Chấn võ quân phó tướng chưởng cơ tặng Chưởng dinh Nguyễn Văn Lợi, Tiền quân phó tướng tặng Chưởng dinh Nguyễn Huệ, Chưởng cơ quản nội trực vệ tặng Chưởng dinh Lê Văn Tín, Chưởng cơ quản Thần võ vệ tặng Chưởng dinh Nguyễn Văn Kỷ, Thần sách quân Trung võ vệ vệ úy tặng Chưởng dinh Trần Văn Xưng, Dũng võ vệ vệ úy tặng Chưởng dinh Trương Văn Hoảng, Thượng đạo chưởng cơ tặng Chưởng dinh Đặng Văn Lương, Thần sách quân Trung dinh phó đô thống chế Nguyễn Vĩnh Thị, Hậu dinh phó đô thống chế tặng Chưởng dinh Tôn Thọ Vinh, Tổng nhung cai cơ hành Bình Hóa lưu thủ tặng Chưởng cơ Nguyễn Thoan, Tả thủy dinh chính dinh cai cơ tặng Chưởng dinh Nguyễn Hữu Nghị, Tổng nhung cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Dực, Tuyển phong tả vệ vệ úy tặng Chưởng cơ Lê Thành Lý, Cai cơ suất Tả bính đội tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Định, Hậu thủy dinh thống nhung cai cơ Bảo hộ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Nhàn, Thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Phan Văn Viện, Thượng đạo chưởng cơ Nguyễn Văn Thảo, Quản Tiên phong đạo cai cơ Võ Văn Chính, Chưởng cơ Hà Văn Lộc, Chánh sứ cai cơ tặng Chưởng cơ Mai Văn Tĩnh, Chưởng cơ quản Thần sách quân, Ban trực hữu vệ Nguyễn Uy, Chưởng cơ Lê Văn Phú, Thần sách quân, Tuyển phong hậu vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Đoàn Cảnh Cư, Ban trực tuyển phong tiền Vệ úy tặng Chưởng dinh Nguyễn Văn Hựu, Ban trực tả vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Võ Văn Đỗ, Uy võ vệ Vệ úy tặng Chưởng dinh Huỳnh Phước Bảo, Dương võ vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Phạm Văn Trường, Nội dực vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Hiên, Cung võ vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Huỳnh Văn Tứ, Tuyển phong hậu vệ Phó vệ úy tặng Chưởng cơ Đoàn Phước Tân, Dương võ vệ Phó vệ úy tặng Chưởng dinh Nguyễn Vĩnh Hựu, Ban trực hữu vệ Phó vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Đăng, Thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Dụ Kỷ, Thống binh cai cơ hành Trấn Biên lưu thủ tặng Chưởng cơ Võ Tiến Đẩu, Thanh Châu đạo Cai cơ tặng Chưởng cơ Đoàn Công Duệ, Tiền quân Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Tri, Tiền quân chánh chi Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Cẩm, Thần sách quân Dương võ vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Lê Văn Thuận, Tiền quân Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Quân, Thượng đạo An võ chi Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Tuy, Tiền thủy dinh chính tiền chi Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Thái, Chấn võ dinh Tả chấn chi Cai cơ tặng Chưởng cơ Cao Đức Hùng, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Loan, Thần sách quân Tuyển phong hậu vệ Vệ úy Mãn, Tuyển phong Tả vệ Phó vệ úy Nguyễn Nhơn Sử, Trung thủy dinh chính tiền chi quản Thanh Châu đạo, Thống binh cai cơ Cù Văn Liêm, Cai cơ Hồ Văn Trương, Vĩnh Trấn Lưu thủ Nguyễn Đăng Chiêu, Cai cơ Lê Văn Lưu, Thanh Châu đạo Cai cơ Lê Thượng, Nguyễn Tần, Tả thủy dinh Hậu chi Cai cơ Nguyễn Văn Chất, Cai cơ Nguyễn Văn Chính, Hộ bộ Tả tham tri tặng Hộ bộ Nguyễn Văn Mỹ, Phiên Trấn Cai bạ tặng Hộ bộ Nguyễn Văn Thiêm, Tham mưu hành Trấn Biên Ký lục Nguyễn Văn Hiến, Kiên uy vệ Phó vệ úy Thành, Cai cơ Nguyễn Chính, Hoàng Lộc, Nguyễn Văn Nguyện, Nguyễn Văn Minh, Tiền quân thuộc binh cai cơ Lộc, Cai cơ Ngoạn, Tiền quân tham mưu Hồ Xuân Quang, Chính dinh Cai cơ Lê Công Luật, Cai cơ Lê Công Giám, Nguyễn Công Tường, Lê Văn Nguyên, Huỳnh Văn Lợi, Trung quân Tiền chi Thống binh cai cơ Nguyễn Văn Biện, Tả mã Cai cơ Tống Phước Giao, Nguyễn Văn Quận, Tổng nhung cai cơ Nguyễn Đằng, Chánh tàu cai cơ Võ Văn Khách, Tiền quân Súng nhất vệ Cai đội tặng Cai cơ Nguyễn Văn Thúy, Thần sách quân Dương võ vệ Cai đội tặng Cai cơ Đĩnh, Tiền khuông chi Cai đội tặng Cai cơ Đinh Văn Tam, Thuộc nội cai đội suất Túc trực bát đội tặng Cai cơ Lưu Văn Trung, Thuộc nội cai đội suất Túc trực thất đội tặng Cai cơ Lưu Đức Hiến, Ban trực tiền vệ thập đội Cai đội tặng Cai cơ Mai Đức Luật, Thuộc nội cai đội tặng Cai cơ Nguyễn Văn Thạch, Túc trực tam đội Cai đội tặng Cai cơ Nguyễn Văn Sơn, Cai đội tặng Cai cơ Trần Văn Mỹ, Tống Văn Đồng, Túc trực nhị đội Cai đội tặng Cai cơ Nguyễn Văn Hòa, Ban trực tả vệ cai đội tặng Cai cơ Nguyễn Khương, Ban trực tả vệ nhị đội Cai đội tặng Cai cơ Lê Văn Hậu, Thất đội thuộc nội cai đội tặng Cai cơ Nguyễn Văn Ân, Thuộc binh đội Cai đội tặng Cai cơ Phan Văn Hiến, Hậu điện Cai đội tặng Cai cơ Nguyễn Đình Thạch, Cai đội tặng Cai cơ Nguyễn Văn Bích, Túc trực nhị đội Cai đội Nguyễn Văn Lượng, Tiểu sai đội Cai đội Nguyễn Lợi, Nội trực đội cai đội Lễ, Tiểu sai đội Cai đội Hồ Văn Siêu, Trung hầu tam thuyền Cai đội Cao Phước Luật, Thủ ngự cai đội Lê Văn Linh, Nội mã đội Cai đội Nguyễn Văn Ngân, Tả mã đội Cai đội Cẩm, Tả mã đội Cai đội Huấn, Cai đội Võ Văn Tấn, Cai đội Huệ, Cai đội Luận, Cai đội Võ Văn Hiên, Nguyễn Lưu, Trần Văn Định, Nguyễn Văn Đông, Trần Văn Nho, Trường thọ cung Cai đội Mỹ, Tuyển phong tiền vệ Cai đội Đắc, Trung hầu thuyền Cai đội Trần Toán, Trung quân Cai đội Nguyễn Thận, Cai đội Nguyễn Văn Huy, Hoàng kiếm đội Cai đội Tống Viết Khánh, Cai đội Nguyễn Văn Sự, Trần Văn Phong, Tả  quân Cai đội Nguyễn Văn Thục, Cai đội Nguyễn Văn Thụ, Nguyễn Văn Quỳnh, Nguyễn Văn Châu, Nguyễn Văn Lại, Huỳnh Văn Của, Lê Văn Chấp, Hà Văn Tài, Nguyễn Luật, Trần Văn Bình, Lê Văn Liễu, cộng 128 người. Ngôi phụ thờ : ứng nghĩa đạo Thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Tấn Huyên. Dãy bên tây thờ : Tiền quân phó tướng tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Thư, Hậu quân phó tướng tặng Chưởng dinh Trần Công Đề, Hậu quân phó tướng tặng Chưởng dinh Nguyễn Thành, Thần sách quân Tiền dinh đô thống Phan Văn Triệu, Tham tán tặng Tham khám Trần Văn Thức, Lại bộ tặng Tham chính Nguyễn Bảo Trí, Hộ bộ tặng Tham chính Trương Đức, Khoan, Binh bộ tặng Tham chính Nguyễn Đức Thiện, Binh bộ kiêm Hộ bộ tri Trường đà sự tặng Tham chính Phạm Ngọc Uẫn, Binh bộ Tả tham tri tặng Binh bộ Trần Phước Tuy, Lại bộ tham tri tặng Lại bộ Nguyễn Bảo Mưu, Tiền quân phó thống Trung đồn chưởng cơ tặng Thị nội thống chế Nguyễn Văn Lân, Thần sách quân Tiền du đồn Minh uy vệ Vệ úy tặng Phó đô thống chế Lê Văn Tự, Hộ bộ Hữu tham tri Nguyễn Thành Chẩn, Lễ bộ Tham tri Nguyễn Công Hy, Lễ bộ Tham tri Trần Văn Định, Hộ bộ Tham tri Nguyễn Công Kiêm, Công bộ Tham tri Trần Công Biên, Thị trung Trung nhất vệ vệ úy Lê Văn Tường, Thị trung Trung nhất vệ Vệ úy Tôn Thất Hãn, Hùng cự nhất vệ Chưởng cơ Võ Văn Giáo, Hậu quân chánh quản Trung kích vệ tổng nhung Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Tường, Thần sách quân Quảng võ vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Triệu, Hậu quân Hùng phong vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Phạm Văn Trường, Nghị võ vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Công Giao, Chiêu võ vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Phụng, Hữu quân Võ lương vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Phan Văn Thịnh, Tả quân Thần võ vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Sử, Thần dũng vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Thông, Thần lược vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Mai Văn Bảo, Tiền quân Lương võ vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Công Trọng,

Tín trực vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Tường, Tiệp võ vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Công Bỉnh, Tín võ vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Lê Văn Lễ, Hùng võ vệ Vệ úy Trần Vĩnh Khoa, Thị trung Hữu nhất vệ Phó vệ úy Đỗ Văn Thuyên, Hùng uy vệ Phó vệ úy tặng Chưởng cơ Lê Công Thành, Thị trung Hậu nhất vệ Phó vệ úy Nguyễn Công Đình, Hậu quân Hùng phong vệ Phó vệ úy tặng Chưởng cơ Trần Văn ất, Nguyễn Văn Sỹ, Nhuệ phong Vệ Phó vệ úy tặng Chưởng cơ Bùi Văn Trương, Phạm Văn Hương, Tiền quân Phó thống Tiền đồn Cai cơ tặng Chưởng cơ Huỳnh Văn Long, Thần sách quân Túc võ vệ Phó vệ úy tặng Chưởng cơ Lê Văn Ngoạn, Uy võ vệ Phó vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Phượng, Hùng võ vệ Phó vệ úy tặng Chưởng cơ Trần Văn Tại, Phấn uy vệ Phó vệ úy tặng Chưởng cơ Hồ Văn Huệ, Phan Văn Dũng, Hùng uy vệ Phó vệ úy tặng Chưởng cơ Trần Văn Phượng, Tiền quân Lương võ vệ Phó vệ úy tặng Chưởng cơ Nguyễn Võ, Quản Tiểu sai đội kiêm suất Trung hầu các thuyền tặng Cai cơ Nguyễn Kỷ, Cai cơ Trần Văn Diêu, Hậu quân phó Hữu chi Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Cẩn, Phó quản Tiền thủy dinh thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Huỳnh Văn Định, Thượng đạo Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Lan, Tiền quân Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Toán, Võ Văn An, Hậu quân Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Uy, Nguyễn Công Thành, Tiền thủy dinh Thống binh cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Huấn, Thần sách quân Diệu võ vệ Vệ úy tặng Chưởng cơ Trương Văn Bỉnh, Cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Định, Tổng nhung cai cơ quản Đông Khẩu đạo tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Nghiêm, Tả quân Tiền chi Chánh trưởng chi cai cơ tặng Chưởng cơ Võ Văn Cẩn, Trung thủy dinh chánh Hậu chi Cai cơ tặng Chưởng cơ Đặng Văn Đoài, Hữu quân Hữu chi Chánh trưởng chi cai cơ tặng Chưởng cơ Dương Công Bảo, Phó trưởng chi cai cơ tặng Chưởng cơ Dương Công Tú, Thượng đạo Tả chi chánh trưởng chi cai cơ tặng Chưởng cơ Quách Công Nghi, Tả quân Tả chi Phó trưởng chi cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Đình Phong, Hùng võ vệ Phó vệ úy tặng Chưởng cơ Trần Văn Huy, Chính dinh Tiền tượng chi chánh trưởng chi tặng Chưởng cơ Nguyễn Đại Châu, Tiền quân Trung đồn Trung chi Trưởng hiệu cai cơ tặng Chưởng cơ Mai Văn Triêm, Trung quân Tả chi Chánh trưởng chi cai cơ tặng Chưởng cơ Lê Lục, Trung quân Hữu dực chi Trưởng chi cai cơ tặng Chưởng cơ Trần Văn Tịnh, Tiền quân Trung chi Trưởng hiệu cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Văn Lộc, Hậu chấn cơ Cai cơ tặng Chưởng cơ Bùi Văn Trinh, Thuộc nội cai cơ tặng Chưởng cơ Nguyễn Danh Thành, Lương võ vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Trần Văn Lợi, Hậu quân Trung kích vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Trần Văn Tu, Tiền quân Lương võ vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Nguyễn Công án, Thần sách quân Ban trực tuyển phong hậu vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Trần Công Tân, Uy võ vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Nguyễn Văn Di, Tín uy vệ Phó vệ úy tặng Vệ úy Lê Phước Mỹ, Tả quân Thần lược vệ Phó vệ úy tặng Cai cơ Phan Đăng Hào, Túc võ vệ Phó vệ úy tặng Cai cơ Nguyễn Tiến Quỳnh, Tả quân cai cơ Nguyễn Văn Thanh, Cai đội Nguyễn Tự, Thuộc nội cai đội Nguyễn Văn Lễ, Cai đội Mai Viết Lân, cộng 89 người.

Tất cả là 258 người. Hai giải võ bên tả, bên hữu thì tòng tự công thần Võ giai, Văn giai và quân lính chết trận).

Sai trước dựng miếu thờ Công thần trung hưng, đặt miếu phu (20 người dân hai xã Thiên Lộc, Vĩ Dã), làm đồ thờ, hàng năm mùa xuân mùa thu sau ngày tế Mậu (1. Tế Mậu là ngày tế Thái công ở Võ miếu.) đến ngày Giáp  thì tế. Những công thần khai quốc và công thần trung tiết thì đều đặt đàn ở bên tả bên hữu miếu để tế.

Định lệ đưa quan tài của quan quân về quê. Phàm quan hay quân đương làm quan hay đóng thú mà chết thì quan địa phương liệu lấy thuyền của nhân dân chở về mai táng, tay lái và tay chèo được cấp tiền gạo (thợ lái và tay chèo từ 5 người trở xuống thì thợ lái được tiền 3 quan, tay chèo tiền 1 quan, gạo mỗi người đều 1 phương) và miễn thuế thuyền năm ấy. Nếu không có thuyền của dân thì lấy thuyền vận tải, chiếu lệ ấy mà thưởng cấp cho thợ lái và tay chèo, và miễn cho một lần vận chở.

Nguyễn Văn Thành có tang mẹ, tâu xin đưa quan tài về táng ở quê, vua y cho. Lấy Nguyễn Huỳnh Đức làm Tổng trấn Bắc Thành. Lê Chất làm Hiệp tổng trấn, Phạm Như Đăng làm Tham hiệp tổng trấn. Chiếu dụ rằng: “Cõi Bắc là nơi trọng trấn, hết thảy ủy cho các ngươi. Các ngươi nên gia tâm vỗ về, dẹp trộm cướp để yên dân, cho vừa lòng trẫm. Về việc quân lữ thì từ phó tướng trở xuống, có ai trái luật thì đều được tiện nghi làm việc, rồi sau tâu lên”.

Hạ lệnh cho Phó tướng Trương Tấn Bửu, Nguyễn Đình Đắc đều đem theo bộ thuộc theo Nguyễn Văn Thành về Kinh. Ngoài ra nhiều người lưu thú ở Bắc Thành xin theo. Vua nghe tin dụ rằng: “Bọn các ngươi đi thú xa, kể đã lâu năm, tình cảm gia đình, trẫm vẫn thương lắm. Nhưng nay nếu thay đổi thì lính mới đến thú chưa quen đất nước, chợt có hoãn cấp thì trưng phát làm sao được? Làm việc công thì quên việc riêng, làm việc nước thì quên việc nhà, các ngươi phải cố gắng ở lại đấy”.

Lấy Tham tri Hình bộ là Hoàng Ngọc Uẩn lãnh Hình tào Bắc Thành, đổi bổ Hữu tham tri Hình bộ Võ Đức Thông làm Hữu tham tri Binh bộ lãnh Binh tào Bắc Thành.

Lại sai Trần Công Hiến lãnh trấn thủ Hải Dương.

Triệu phó tướng Trung quân chánh quản thập cơ Kính Tiệp là Huỳnh Văn Điểm về Kinh, lấy Phó quản thập cơ là Võ Văn Thuyền thay lãnh quân ấy.

Lấy Cai cơ Tiền thủy Nguyễn Văn Sỉ làm Quản thủ đạo Long Xuyên, Cai đội Phan Văn Nhơn làm Thủ ngự nguồn Trà Đinh, Nguyễn Văn Tín làm Thủ ngự cửa biển Thị Nại.

Lập 20 sở lò nung gạch ngói, sai Chưởng cơ tri Đồ gia Phan Tiến Cẩn, Cai bạ Quảng Đức là Lý Gia Du giám đốc công việc.

Dựng kho trấn Quảng Ngãi sai dân lấy gỗ nộp, chi tiền cấp cho.

Phát hơn 2 nghìn người các quân Thanh Nghệ đi thú Bắc Thành.

Triệu Phó đô thống chế Hữu dinh quân Thần sách là Nguyễn Văn Trí đem lính thú ở Thanh Hoa về Kinh.

Tháng 2, ngày Canh dần, vua yết lăng Cơ thánh ; khi thuyền về, đến chơi cửa Eo. Thưởng tiền cho quan quân đi theo theo thứ bậc khác nhau. Ngày Giáp ngọ trở về.

Đặt Chánh cai quân và Chánh ty quan đội Việt tường.

Lấy Thiêm sự Hộ bộ là Nguyễn Tường Vân làm Ký lục Bình Thuận.

Ký lục Định Tường là Võ Văn Doãn xử việc hình ngục chậm trễ, bị miễn chức, lấy Bùi Đức Mân thay.

Lấy Phó thống Tả đồn Tiền quân là Huỳnh Văn Nhị kiêm quản cơ Tả kính, Phó thống Tiền đồn là Lê Văn Hợp kiêm quản cơ Trung kính, Phó tướng Hậu đồn Trung quân là Nguyễn Văn Giáo kiêm quản vệ Trung bảo nhất.

Tướng giặc ở Sơn Nam thượng là Chử Văn Nhị họp đảng mưu làm loạn, Vệ úy vệ Tiền bảo là Nguyễn Văn Phượng bắt được giết đi. Thưởng cho 100 quan tiền.

Bọn giặc ở Thái Nguyên hơn 4 trăm người cướp bảo Đường Lang. Cai đội thủ bảo là Võ Hữu Bích, Dương Văn Quế cùng với quyền sai Thủ hợp là Nguyễn Đắc Thọ đem lính thổ chống đánh, chém được 3 đầu giặc. Hữu Bích bị đạn chết. Giặc lùa quân vào đồn. Văn Quế, Đắc Thọ và thuộc hạ 15 người đều bị giặc giết. Việc tâu lên. Tặng Hữu Bích, Văn Quế làm Chánh hiệu úy, Đắc Thọ làm Thủ hợp, đều chiếu theo phẩm trật cấp tiền tuất. Thuộc hạ thì chiếu theo lệ tuất của binh lính cấp cho người nhà.

Thượng thư Lễ bộ Đặng Đức Siêu chết; cho gấm lụa và tặng Tham chính.

Ngày Quý mão, tế Trời Đất ở đàn Nam giao.

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển XL – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Đặt thêm Tri huyện hai huyện Duy Tiên và Tiên Lữ ở Sơn Nam thượng. Hai huyện này trước đặt một Tri huyện, đến nay công việc nhiều, mỗi huyện đặt thêm một viên nữa.

Đắp đập ở hai xã Kim Đôi và Yên Xuân. Vua thấy nước biển làm hại nghề nông, hạ lệnh đắp đập để ngăn.

Dựng Thái y viện.

Sai bọn Trương Bảo Thiện, Lã Hữu Định (người Minh Hương ở Gia Định) đem 20.000 lạng bạc sang Quảng Đông mua hàng hóa.

Đắp thành đất ở Bình Thuận (ở thôn Long Lễ huyện Hòa Đa), sai 7 trăm lính Thuận Nghĩa, Thuận Thủy và 2 trăm dân Thuận Thành làm việc.

Thuyền của thiên tổng tỉnh Phước Kiến nước Thanh là Tiêu Nguyên Hầu bị nạn dạt vào cửa biển Cam Ranh ở Bình Hòa, hơn một tháng trấn thần đem việc tâu lên. Vua khiển trách rằng: “Sao chậm thế?”. Sai cho Tiêu Nguyên Hầu tiền 30 quan, lụa 4 tấm, vải 5 tấm, gạo 6 phương, lính đi theo 7 người, mỗi người tiền 5 quan, vải 2 tấm, gạo 3 phương.

Dụ trấn thần rằng: “Thuyền nước ngoài bị nạn, việc giúp đỡ đã có lệ định. Duy Tiêu Nguyên Hầu là người công sai của nước Thanh, cho nên đặc biệt thưởng cấp thêm để tỏ ưu đãi. Các ngươi nên đem ý ấy bảo cho biết”. Rồi sai gọi về Kinh, lại cho thêm tiền 100 quan và cho đưa đi đường bộ về nước.

Chuẩn định rằng từ nay những cai đội, đội trưởng các quận trong ngoài được điệu bổ hay thuyên bổ, đều do đình thần lục chỉ cấp bằng.

Quảng Nam, Quảng Ngãi không mưa. Vua lo, mỗi lần coi chầu, là hỏi việc làm ruộng lợi hại thế nào. Hơn một tháng, quan hai dinh đem việc được mưa tâu lên, vua mới vui lòng.

Dựng kho tiền ở Thanh Hoa.

Miễn việc kén lính cho dân Minh Hương ở Quảng Ngãi, (dân số 100 người, năm Giáp dần kén lính 6 người), mỗi năm mỗi người nộp 2 tấm vải thuế và tiền thuế thân.

Phục lại binh hạng ngạch cũ ở Gia Định. Trước là khi thiên hạ đã bình định, vua cho quân Gia Định trở về với dân. Sở tại khi làm sổ đinh liệt làm dân hạng. Vua nghe thấy nói: “Binh cũ ở Gia Định đi trận nhọc mệt đã lâu, nay tuy về dân, nếu có việc thì lại làm binh ngay, sao lại liệt cùng dân hạng?”. Sai đổi lại sổ, liệt làm binh hạng ngạch cũ, thuế thân được miễn cũng như binh tại ngũ.

Giáng phó tướng quân Chấn võ là Lê Tiến Tham làm Chưởng cơ. Tham ở Gia Định, thường cùng người Xiêm gửi thư qua lại. Thành thần khép về tội giao thông với người nước ngoài, nên giáng chức.

Dựng lỵ sở dinh Quảng Bình, lấy dân làm việc. Vua dụ đình thần rằng: “Công việc làm nhọc sức dân là bất đắc dĩ. Lúa chiêm sắp gặt, thả ngay cho về, khi làm ruộng xong sẽ đến làm việc, hằng ngày cấp cho lương ăn, đừng để thiếu thốn”.

Tháng 3, ngày mồng 1 ất mão, có nhật thực.

Đắp đường sá ở Bình Thuận.

Sai Gia Định chọn mua hàng hóa của người Thanh, giá tiền mua khấu trừ vào thuế buôn.

Định số viên Thiêm sự ở sáu bộ, mỗi bộ 4 người. Lại bộ thừa 2 viên, bộ thần xin xét nơi nào khuyết thì chuyển bổ. Bèn lấy Thiêm sự Võ Quý Dĩnh làm Thiêm sự Lễ bộ, Trần Ngọc Quán làm Thiêm sự Công bộ.

Sai Thượng thư Hộ bộ là Lê Quang Định kiêm việc Khâm thiên giám.

Sai Phó đô thống chế Thủy quân là Đào Văn Lương kiêm lãnh việc vận chở từ Nghệ An ra Bắc.

Thượng thư Công bộ thống quản Thủy quân là Trần Văn Thái chết; tặng Tham chính. Lấy binh đưa đám tang về làng, cấp cho 3 người mộ phu.

Phát chẩn thêm cho dân đói ở Bắc Thành. Các trấn Kinh Bắc, Hải Dương, Yên Quảng và Sơn Nam hạ thuộc thành hạt lúa chiêm chưa chín, dân gian còn nhiều người đói. Thành thần xin phát chẩn thêm. Vua nói: “Nhà nước chứa góp vốn là kế nuôi dân”. Ra lệnh phát thêm gạo kho 5.000 phương, sai bọn Phạm Như Đăng, Nguyễn Đình Đức, Hoàng Ngọc Uẩn chia đi các nơi để chẩn cấp. Thành thần lại tâu nói: “Cửa sông Thiên Đức ở Kinh Bắc bị ứ lấp, mưa lụt làm hại, và đường sá ở Lạng Sơn thì rừng rú rậm rạp, xin họp dân đói cho khơi sông và phát đường, hằng ngày cho ăn”. Vua y lời tâu. Sai phát 3.000 phương gạo để cấp.

Sai Chưởng cơ quân Thần võ là Trần Văn Thìn kiêm lãnh Đê chính Bắc Thành.

Thuyền buôn nước Xiêm La gặp gió dạt vào cửa Đại Chiêm, sai dinh thần Quảng Nam theo số hơn 4 trăm người trong thuyền cấp cho 10 ngày lương ăn, rồi cho về.

Lấy Cai cơ Nguyễn Văn Thuật làm Trưởng chi chi Thanh Nghĩa. Trước kia Đặng Trần Thường ở Bắc Thành, mộ dân ngoại tịch lập làm chi binh được hơn 5 trăm người, đến nay Thường xin lấy Thuật quản suất, theo thành sai phái. Vua y cho.

Đặt thêm phu trạm ở các trạm từ Quảng Bình vào Nam tới Bình Thuận. Theo ngạch cũ có 80 người hoặc 50 người, binh dao và thuế thân đều miễn. Tới nay sai mộ dân ngoại tịch để bổ thêm, mỗi trạm 100 người, những người bổ thêm đều được miễn binh dao và thuế thân, theo lệ quân hạng.

Lấy hơn 140 chiếc binh thuyền của Thủy quân để chở sản vật ở Thanh Nghệ và Bắc Thành.

Sai các thành dinh trấn chở tiền kho về Kinh, Bắc Thành 20 vạn quan, Gia Định 10 vạn quan, Quảng Nam, Bình Định, Nghệ An đều 5 vạn quan, Quảng Ngãi, Thanh Bình đều 2 vạn quan, Phú Yên, Thanh Hoa đều 1 vạn quan.

Đóng mỏ đồng Tụ Long ở Tuyên Quang. Trước kia Tuyên úy đại sứ là Ma Sĩ Trạch khai mỏ đồng, lệ định chi tiền công 28 quan thì thu 100 cân đồng đỏ. Đến nay sai quan Bắc Thành chiểu số tiền đã chi thu đủ số đồng thì thôi.

Đổi bổ giản binh của dân Cù Mông ở Quảng Ngãi làm tráng binh thuộc trấn. Trước kia dân Cù Mông phải chịu hơn 50 người giản binh, bổ vào cơ Hữu kiên. Đến khi đổi trấn lỵ đến đó, lấy dân ấy làm phụ lũy. Đến nay sai rút cơ binh về, bổ làm tráng binh thuộc trấn để tiện cho dân.

Sai dựng sơn phần của Tống quốc công phu nhân Lê thị ở Long Hồ, cho binh lính 200 quan tiền. Ngày an táng, vua thân đi đưa.

Nguyễn Văn Thành tự Bắc Thành về, vào yết kiến. Vua yên ủi hỏi han hồi lâu, cho 500 quan tiền, 200 cân sáp ong. Văn Thành nhân xin đưa tang mẹ về táng ở Bình Hòa. Vua ngăn đi, nói rằng: “Cáo chết quay đầu về núi là việc lễ đấy. Làng Bác Vọng phủ Triệu Phong là tổ quán của khanh, sao không táng ở đấy?”. Văn Thành lạy xin vâng mệnh.

Hạ lệnh cho Bắc Thành dồn hơn 380 người binh hiện ở các vệ Nghiêm dũng, Toàn dũng, Kiên dũng, Hiến dũng làm vệ Nghiêm dũng, lấy Phó vệ úy là Tôn Thất Nhật quản suất.

Sai hai phố Thanh Hà và Hội An xét hỏi những người buôn nước Thanh. Phàm người Thanh đến buôn bán cứ 3, 4 tháng thì trở về nước, ai xin ở lại và đi nơi khác buôn bán thì địa phương phải cam kết, quan sở tại cấp bằng. Nếu tự tiện đi hay ở thì bắt tội.

Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, tế hạ hưởng.

Ngày Đinh dậu, xa giá đi tuần Quảng Trị. Ngày Tân sửu đi Quảng Bình, xem làm lỵ sở của dinh. Dụ Ký lục Huỳnh Văn Diễn và Cai bạ Nguyễn Du rằng: “Dùng sức dân, nên dè sẻn. Đắp đất đai sai dân làm thì được, còn xây dựng sảnh thự, nên lấy binh lính mà làm”. Bèn hạ lệnh cho Hộ bộ thưởng cho những người ứng dịch. Ngày Đinh mùi trở về.

Nguyễn Hữu Thận từ nước Thanh trở về, đem dâng sách Đại Thanh lịch tượng khảo thành, nói: “Lịch vạn toàn của nước ta cùng với sách Đại Thanh thời hiến, từ trước đều dùng phép lịch Đại thống của nhà Minh, hơn ba trăm năm, chưa có sửa đổi, càng lâu càng sai. Khoảng năm Khang Hy nhà Thanh mới tham hợp phép lịch của Tây dương mà chép thành sách này. Sách suy tính tinh tường, so với lịch Đại thống kỹ hơn, mà phép tam tuyến bát giác lại rất là diệu. Xin giao cho Khâm thiên giám, sai thiên văn sinh học lấy phương pháp ấy, thì thiên độ mới đều, mà thời tiết được đúng”. Vua khen phải.

Sai Bắc Thành kê danh sách những phiên thần phụ đạo ở sáu trấn ngoại. Chiếu rằng: “Trước đây đại giá Bắc tuần, các phiên mục đến hành tại bái yết, đã cấp sắc chỉ và bằng của triều đình, để cho cai quản binh thổ dân thổ. Nhưng nghĩ lúc nước mới yên, còn có thiếu sót, sau chỉ do thành thần cấp bằng, chưa có sắc mệnh của triều đình. Vậy sai họp làm danh sách dâng lên đợi chỉ”.

Hình tào Bắc Thành là Phạm Như Đăng hạch tâu các trấn Kinh Bắc, Sơn Tây, Cao Bằng xử án có nhiều ruộng đất sung công mà ẩn lậu không thu thuế. Vua giao xuống đình thần bàn, đều tùy theo nặng nhẹ xử phạt. Ruộng đất nào nên truy thu thuế thì bắt nộp bồi đủ số.

Sửa cung Khôn Đức và Hữu trường lang. Thưởng cho biền binh 1.600 quan tiền.

 Chở thóc tô năm nay ở Quảng Trị về Kinh. Kho tàng ở Quảng Trị đều đầy cả, dinh thần tâu lên, bèn sai chở nộp vào kho Kinh.

Chế khám vuông để thờ ở Văn Miếu, sai Phiên An và Biên Hòa lấy gỗ hoàng đàn để làm.

Người ở Lâm Thao trấn Sơn Tây là Bùi Viết Hàn vì vợ mắng chửi mẹ, tức giận đánh chết vợ, Tri phủ Nguyễn Kim Bảng bắt Hàn và bố là Cơ giam vào ngục. Cơ buồn rầu ốm chết, Hàn cũng bị tội. án ấy dâng lên. Vua xem rồi nói: “Con dâu chửi mẹ chồng theo đạo nghĩa thì đáng chết. Hàn phẫn khích vì nghĩa, mà bị cực hình, Cơ chết không tội mà bỏ đấy không hỏi đến, pháp luật như thế ư?”. Hạ lệnh tha tội cho Hàn, đánh Bảng 90 roi, thu tiền mai táng 36 quan cấp cho vợ con Cơ. Thành và trấn đều bị xử phạt.

Cấp lương tháng cho binh hai cơ Tả hùng, Hữu hùng ở Bắc Thành (2 cơ đều là lính mộ, gồm hơn 600 người).

Tháng 5, hoãn việc thi Hương năm nay. Chiếu rằng: “Các trấn ở Bắc Thành liền năm đói kém, triều đình đương lấy việc cứu đói làm cần kíp. Điển lễ lớn về khoa cử chưa làm được, hãy hoãn lại”. Từ đấy cứ 6 năm mới một lần thi.

Tha tô thuế năm nay cho huyện Tống Sơn.

Gọi hơn 1.000 người Ngũ quân và Tượng quân ở Bắc Thành về Kinh.

Chở hơn 7 vạn phương thóc ở Thanh Hoa đến Quảng Bình.

Chọn bọn Hàn lâm viện Nguyễn Đăng Tài, Nguyễn Đăng Thiệp, Hoàng Kim Hoán và Cống sĩ viện Huỳnh Công Tuy, Đoàn Văn Chất là 9 người, sung chức Tư giảng để giảng cho hoàng tử và hoàng tôn.

Sai Vệ úy Phạm Văn Tường kiêm lãnh các tượng cục, Thuộc nội cai đội Lê Tiến Kế quản các đội Uy chấn, An công, Thiên hùng ở Bắc Thành.

Sửa cầu cống đường sá ở các dinh Quảng Đức, Quảng Trị, Quảng Bình. Vua thấy đường cũ cong queo bùn lầy, sai Giám thành sứ là Trần Văn Học đo xem thế đất, lấy dân sửa đắp, cấp cho lương ăn hằng ngày. Lại thấy trời mùa hè nóng nực, răn khiến không nên đốc thúc làm quá, để nới sức dân.

Lấy Tham hiệp Hải Dương là Nguyễn Văn Công làm Hiệp trấn Thái Nguyên, Tri phủ Tam Đới là Trần Thiên Tải làm Tham hiệp Hải Dương.

Khơi sông ở thôn Đông An ở Bình Thuận. Thôn Đông An trước có đường sông tưới ruộng, đến sau khi đắp thành trấn thì bị bồi lấp, nông dân lấy làm khổ, bèn sai trấn thần tùy thế khơi đào, lấy ba trăm dân làm việc.

Lấy Thiêm sự Binh bộ là Võ Thế Nho làm Hiệp trấn Hưng Hóa, Tri phủ Đức Quang là Nguyễn Bá Tuần làm Tham hiệp Sơn Nam hạ.

Cai cơ Thuận nghĩa là Nguyễn Văn Nghĩa đem binh hai cơ Hòa thủy, Thuận thủy chở gỗ ở Gia Định về Kinh. Thưởng cho biền binh một tháng tiền lương.

Định thuế mua gỗ lim cho người buôn Thanh. Lệ trước, người Thanh đến buôn, cấm không được mua bán gỗ lim. Có người chủ thuyền ở Quảng Đông là Lại Chiêm Hòa đậu thuyền ở cửa Hội Nghệ An, thiết tha xin cho mua gỗ lim. Trấn thần tâu lên. Vua bèn sai bỏ lệ cấm mà đánh thuế gấp hai. (Lệ định người Thanh mua hàng hóa nước ta, như loại sừng tê, ngà voi, thì đánh thuế 1 phần 20, đến nay định thuế gỗ lim đánh 1 phần 10).

Cho Khâm sai cai cơ Phạm Văn Tường và Nguyễn Văn Hạnh làm Khâm sai chưởng cơ. Sai Nguyễn Văn Hạnh suất 500 thủy quân, 20 chiến thuyền đi đóng thú ở đồn thủy Nông Giang thuộc Bắc Thành, kiêm chưởng bốn dực cơ. Thành thần thấy chiến thuyền ở thành, lâu năm mục nát, tâu xin cấp thêm cho thuyền kinh, sai một người chưởng Thủy quân quản lãnh, để phòng khi trưng phát, cho nên có mệnh này. Gặp giặc biển Tề Ngôi là bọn Ô Thạch Nhị, Đông Hải Bát, Lý A Thất bị Tổng đốc Lưỡng Quảng nước Thanh đuổi riết, phải trốn ra mặt biển thuộc bốn phủ Cao, Liêm, Quỳnh, Lôi. Khâm Châu gởi giấy cho Bắc Thành hẹn đem quân ra ngăn chặn. Thành thần đem việc tâu lên. Vua bảo Tống Phước Lương rằng: “Bọn giặc biển lẩn lút ở bãi Bạch Long, chỉ là sống tạm bợ thôi. Nay người Thanh đuổi bắt, ta nên cùng hợp sức để dẹp cho yên mặt biển. Nhân sai Văn Hạnh đem binh thuyền thẳng tới Vạn Ninh. Thành thần lấy thêm binh thuyền lệ theo sai khiến. Lại thấy Vạn Ninh tiếp liền Khâm Châu, nên có người văn học để làm thư từ đi lại, sai Ngô Khản làm lục sự để giúp công việc từ chương trong quân. Hơn một tháng, bọn Ô Thạch Nhị đều bị quân  Thanh bắt hết. Lý á Thất và bè lũ hơn hai chục người cũng đến quân ta đầu hàng. Bèn sai thành thần đưa bọn giặc bắt được ấy sang Khâm Châu. Văn Hạnh rút quân về đóng ở đồn thủy Nông Giang. Triệu Ngô Khản về Kinh sung Hàn lâm viện.

Bọn Tống Phước Ngoạn và Phạm Cảnh Giảng từ nước Xiêm trở về, đem địa đồ nước Xiêm dâng.

Hoãn thu tô thuế ở Quảng Đức. Vì dân địa phương đương đắp đường quan, cho nên hoãn.

Tháng 6, miễn thuế diêm thuế thân năm nay cho dân đội Hùng diêm ở Bình Định. Dân đội ấy có 6 trăm người đi Bắc Thành ứng dịch, Phó suất đội là Trần Công Lạng vì dân ấy mà tâu xin. Vua y cho. Rồi sai bổ theo vệ Hùng dũng Hậu quân đóng thú ở Bắc Thành, vẫn miễn thuế cho.

Chưởng Trung quân bình Tây đại tướng quân quận công là Nguyễn Văn Trương chết. Văn Trương là người có công to với nước. Vua nghe tin ốm, đã từng triệu con là Ngoạn vào hỏi thăm, dặn phải chữa cẩn thận. Đến lúc chết, vua thương tiếc không nguôi, tặng Thái bảo, thụy là Trung dũng, cho quan tài bằng gỗ giáng hương và 1.000 quan tiền. Sai Phó tướng Huỳnh Văn Điểm và Tham tri Ngô Nhơn Tĩnh coi việc tang. Ngày an táng, vua ngự thuyền rồng đến bến sông Hương để đưa, giờ lâu mới trở về. Sai quan đến dụ tế. Cấp cho 10 người mộ phu. (Năm Minh Mệnh thứ 5, được tòng tự ở Thế miếu, năm thứ 12, phong Đoan hùng quận công).

Quan Hộ bộ tâu nói: “Thường năm ở thành Gia Định cứ nộp 1 phương thóc tô thì nộp kèm 2 tấm lá dừa. Gần đây đem nộp phần nhiều là ngắn và nhỏ không dùng được. Xin định cách thức”. Vua y cho. (Mỗi tấm dài 1 thước 5 tấc, ngang 1 thước 5 tấc).

Bọn người Yên Dũng trấn Kinh Bắc là Nguyễn Danh Tiến và người Từ Liêm trấn Sơn Tây là Nguyễn Duy Hiên báo dẫn quan quân bắt được đảng giặc hơn bốn chục người. Thưởng cho 300 quan tiền, và cho các chức đội trưởng, xã trưởng theo thứ bậc khác nhau.

Bỏ thuế vặt ở Hà Tiên. Hà Tiên trước không có ngạch thuế. Từ Mạc Tử Thiêm mới thu các thuế mỡ lợn, thuốc phiện và thuế sòng bạc. Bọn án thủ là Ngô Y Nhiễm, Lê Tiến Phước, lại chia thuyền buôn ra làm ba hạng để đánh thuế. Đến nay làm sổ quân dân và đem ngạch những thuế đã đánh để do thành thần Gia Định tâu xin định lệ. Gặp lúc bọn Tống Phước Ngoạn tự nước Xiêm về, nói rõ mối tệ. Vua bèn xuống chiếu bỏ đi. Chiếu rằng: “Hà Tiên là nơi biên giới ở xa. Triều trước dựng trấn tiết cốt để làm bảo chướng, chứ không phải cốt để thu thuế. Từ khi quân nổi, dân vật điêu hao, Tử Thiêm có chức phận giữ đất, để chăn dân, thế mà không biết thể theo đức ý, lại còn đòi kiếm ngoài ngạch, bóc lột dân để nuôi béo mình. Bọn án thủ Y Nghiễm lại cứ theo lối cũ mà làm, có phải ý của triều đình vì dân đặt quan như thế không. Vậy các tạp thuế như thuế mổ lợn, thuế thuốc phiện, thuế sòng bạc đều bỏ hết. Thuế thân, thuế thuyền chưa có định ngạch cũng đều miễn cả. Duy có dân tịch thì đăng ở Hộ bộ để biết rõ số dân thôi”. Tờ chiếu ban xuống dân rất vui mừng.

Phó đô thống chế quân Thần sách là Nguyễn Văn Tri bắt lính làm việc riêng, việc phát giác. Bãi quyền coi quân, vẫn lưu làm Phó đô thống chế.

Truy tặng Cai cơ Vọng Các hành Lưu thủ Bình Hòa là Nguyễn Thoan làm Chưởng cơ.

Hạ lệnh cho thành thần Gia Định xét những biền binh thuộc thành nên chi gạo bổng gạo lương thì đều theo giá chợ mà cấp bằng tiền.

Sai Cai cơ chi Thanh nghĩa ở Bắc Thành là Nguyễn Văn Thuật đem một trăm người binh của chi đóng giữ bảo Hoàng Chuyết (thuộc huyện Bạch Hạc) trấn Sơn Tây.

Đổi dựng cầu Lý Hòa ở Quảng Bình. (Cầu cũ 138 nhịp, đến nay đo sông rộng 74 trượng, đổi dựng 56 nhịp, bớt cũ đi 82 nhịp), sai quản cơ Cao Công Giang trông coi công việc.

Dời trấn thành Bình Định đến Tân An (tên xã thuộc huyện Tuy Viễn). Trấn thần thấy dân đương làm ruộng, xin sai 17.500 người, chia làm hai ban, 10 ngày thay một lần. Lại xin hoãn bắt lính một tháng. Vua đều theo lời. Ruộng đất nào bị mở vào, sai cấp cho 4 phần 10 giá tiền.

Sai Tham lý Đê chính là Nguyễn Khắc Thiệu kiêm quản Thủy quân ở Bắc Thành.

Lưu thủ Phiên An là Lê Văn Lân chết. Cho 2 tấm gấm Tống và 100 quan tiền.

Cho Lê Duy Hoán 100 quan tiền, Lê Duy An 30 quan tiền.

Bắc Thành bị hạn. Sai thành thần xét hỏi tù đương giam, tha hơn ba chục người án còn ngờ.

Đổi định lệ tiền ân tuất cho các quan viên văn võ: (Nhất phẩm tiền tuất 400 quan, tòng nhất phẩm 300 quan, nhị phẩm 200 quan, tòng nhị phẩm 100 quan, tam phẩm 70 quan, tòng tam phẩm 40 quan, tứ phẩm 30 quan, tòng tứ phẩm 28 quan, ngũ phẩm 25 quan, tòng ngũ phẩm 23 quan, lục phẩm 20 quan, tòng lục phẩm 18 quan, thất phẩm 15 quan, tòng thất phẩm 13 quan, bát phẩm 10 quan, tòng bát phẩm 8 quan, cửu phẩm 5 quan, tòng cửu phẩm 4 quan. ở Kinh do Hộ bộ, ở ngoài do quan địa phương theo lệ chiếu phát. Tam phẩm trở lên thì tâu ngay lên cho vua biết. Còn từ tứ phẩm trở xuống đều đến cuối năm làm thành sách tâu lên. Bề tôi huân cựu được đặc biệt gia ân thì không theo lệ định. Ty thuộc vị nhập lưu cùng binh lính và thợ cục đương sai phái việc công, thì cấp tiền 3 quan).

Nguyễn Đức Xuyên tâu nói rằng hai xã Dương Nỗ và Quy Lai, có đầm nông cạn có thể cày cấy được, xin sai dân đắp đập chống nước mặn để cày cấy. Sau khi thành ruộng, theo lệ công điền mà thu thuế. Vua y cho.

Phó vệ úy vệ Túc võ là Hồ Văn Trương đốc suất quân dân hộ giải đồ vật của nhà nước, gặp khi trời hè nóng dữ, dân phu có người đau bụng không đi được, binh lính ngờ là dối đánh roi, người ấy chết. Văn Trương vì không hay răn cấm phải phạt 70 roi. Lại thu tiền mai táng 36 quan cấp cho nhà người chết.

Phó vệ úy vệ Phấn võ là Tôn Thất Nghị tuổi già xin nghỉ việc. Vua thấy Nghị trước có chiến công, cho hàm Cai cơ.

Cấp cho Thanh Hoa 10 chiếc thuyền.

Bắc Thành giá gạo đắt. Thành thần tâu nói: “Nhơn dân bị đói kém, vì nỗi khan tiền. Nay đồng đỏ ít, xin đem gang pha lẫn với thiếc, theo kiểu tiền đồng thời Hồng Đức mà đúc, để tiêu dùng trong nước”. Vua sai định kiểu mẫu khuôn đất, gửi cho để đúc, cứ 1 quan tiền nặng 2 cân làm mức, không được quá nhẹ.

Tha thuế thân năm nay cho thợ thuyền các địa phương làm việc ở Kinh.

Hạ lệnh cho Đô thống chế Hậu dinh quân Thần sách là Trần Văn Năng đem hơn 1 nghìn biền binh theo thú ở Gia Định hộ đưa thuyền vận tải về Kinh. Tới nơi, vua nghĩ đi thú ở xa đã lâu ngày thả cho về, binh thì thưởng cho hơn 3.000 quan tiền, quan thì đều thưởng cho 1 tháng lương.

Sai Phó tướng Hữu quân là Mạc Văn Tô đem binh cũ về Kinh. Trước đây Văn Tô chiêu tập hơn 1 nghìn người binh cũ theo việc sai phái ở thành Gia Định, rồi sau trốn đi chỉ còn một nửa. Thành thần đem việc tâu lên. Vua sai Văn Tô quản suất đem về Kinh, kẻ nào đi đường mà dám trốn thì bắt chém để làm gương. Khi tới Kinh, có 3 người trốn, qua cửa Hải Vân quan thủ ngự bắt được, sai chém ngay.

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển XLI – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Canh ngọ, Gia Long năm thứ 9 [1810], mùa thu, tháng 7, ngày mồng 1, tế thu hưởng.

Lại tha thuế các nguồn năm nay cho Quảng Ngãi. Các nguồn từ khi bọn ác man nổi loạn, lính thú phải đóng giữ, đường buôn bán chưa thông, cai quản là Dương Công Vịnh đem việc tâu lên, cho nên lại tha.

Dựng kho các trấn Phú Yên, Bình Hòa, Bình Thuận.

Thổ phỉ ở Thanh Hoa tụ họp ở Thiệu Thiên, thổ dân là Nguyễn Xuân Dần và Nguyễn Miện dụ chúng đến xã Viên Quang, rồi báo quan quân vây bắt, bắt được tướng giặc là tên Kim tên Lâm và đồ đảng 8 người. Thổ tù là Phạm Phước Ba cũng bắt được đảng giặc là tên Vĩ và súng đạn khí giới đem nộp. Trấn thần tâu nói công trạng. Sai bọn Dần làm đội trưởng và thưởng 50 quan tiền, thưởng mũ áo và 100 quan tiền cho Ba.

Chia binh Thị trung làm ba ban, một ban nghỉ, hai ban ở trực.

Định lệ chia ban chi lương cho các viên dịch ở các nha sáu bộ. (Ty Lệnh sử đồ gia ở sáu bộ, ty Chiêm hậu ở Khâm thiên giám đều chia làm ba ban, một ban làm việc, hai ban nghỉ. Người ở ban mỗi tháng được cấp gạo lương mỗi người 1 phương; Thái y viện cùng y sinh ngoại khoa chia làm năm ban: một ban làm việc, bốn ban nghỉ, ở ban mỗi tháng được cấp gạo lương mỗi ban 30 phương).

Sai Đô thống chế Lê Văn Phong đem hơn 1 nghìn quân và hơn bốn chục chiếc thuyền đi thú ở Gia Định.

Trong kinh kỳ bị bão, nước lụt tràn lên. Thuyền buôn ở cửa Eo và cửa Tư Dung bị chìm đắm, nhân dân có người chết đuối. Vua sai một người thị thư và một người tiểu sai hội với dinh thần Quảng Đức đến tận nơi, thu nhặt xác chết, cho tiền chôn cất.

Nước Xiêm La sai Long Tham Sám Bạt Ca, và Long Chãi Khổn Sạ Môn Tri đến dâng sản vật địa phương. Trước kia người Xiêm là Ngô Ngãnh bị bão thuyền dạt vào phần biển Quảng Nam, vua sai theo lệ cấp cho gạo lương, lại cho vay hơn 1.000 quan tiền, hơn 1.000 phương gạo. Đến nay người Xiêm đến tạ ơn và dâng thư nói nước Xiêm La đã đánh phá được Phạ Ma [Burma] (tên khác của nước Miến Điện), lấy lại đất Sa Lãng [Thalang]. Vua sai trả lại những vật dâng và làm thư trả lời.

Nguyễn Văn Thành dâng phong thư kín nói các việc: Một là xin định lại phép thưởng phạt các phủ huyện ai có công thì thăng cấp, tăng lương, ai có lỗi thì giáng cấp, phạt lương, để khuyên răn. Hai là xin định 6 năm chia làm hai kỳ khảo khóa; phủ huyện trong 3 năm không có lỗi thì được điều bổ đi hạt khác, đến 6 năm thì xét giỏi hay không để định thăng truất. Ba là nói những bãi nổi ven sông ở Bắc Thành dân hay tranh nhau trưng, gây thành kiện tụng, xin định điều lệ để ban hành.

Vua sai đình thần bàn lại tâu lên.

Định lệ cấp người dẫn đường cho các địa phương. Từ Gia Định đến Bắc Thành, phàm cấp người dẫn đường, đều lấy tới Kinh làm hạn, không được vượt qua.

Tôn Thất Thăng tâu xin mộ dân ngoại tịch có văn học lấy 20 người sung bổ làm văn hàn thuộc phủ. Vua y cho.

Kén thêm binh Tống Sơn sung vào vệ Tín uy Thị nội. Chiếu rằng: “Tống Sơn là nơi căn bản, triều trước lấy dân làm thân binh. Từ nhà nước hưng phục tới nay, tô thuế dao dịch đều miễn cả, duy các đội của vệ Tín uy là binh thân cận thì lấy dân huyện, vì muốn cho cùng nhà nước nương nhau. Nay số quân chỉ có 160 người, mà trong huyện cũng có người chưa được dự. Vậy hạ lệnh cho kén đủ 600, chia làm 10 đội thuộc vệ Tín uy, mỗi đội 60 người, để phục sự Nguyên miếu, hoặc gọi về Kinh ứng trực. Vả lại binh giáp của triều đình, thêm một huyện không là nhiều, bớt một huyện không là ít, song việc suy ân phải bắt đầu từ gốc, Tống Sơn là ấp thang mộc, ở nước là thân dân thì ở quân là thân binh, những vệ hiệu khác không thể ví được. Vậy đều phải thể theo ý ấy của trẫm”.

Tham hiệp Nghệ An là Nguyễn Văn Huân tự tiện chi dùng của công, bị tội miễn chức; lấy Tri phủ Anh Đô là Lưu Văn Vượng thay.

Tướng giặc ở Kinh Bắc tên là Liễn tụ đảng ở Bắc Hà hoành hành cướp bóc. Trấn thủ Lưu Phước Tường đem quân vây bắt được đồ đảng 50 người.

Đô thống chế Thủy dinh là Lê Văn Quế chết. Văn Quế có công Vọng Các, vua thương vì không có con nối dòng nên miễn thuế thân cho người cháu gọi bằng chú bác là Lê Văn Do, khiến giữ việc thờ cúng. Lại sai mộ dân ngoại tịch 7 người làm mộ phu.

Tháng 8, ban thước kinh đo ruộng cho trong ngoài. Thước kinh do triều Lê cũ chế ra ban hành đã lâu, dân gian vẫn thường dùng. Năm Gia Long thứ 5 mới dùng thước trung bình, chế hơi dài hơn, bởi thế đo ruộng số mẫu sai nhau nhiều. Vua sai hỏi tìm thước kinh cũ. Lấy được ở nhà dân xã Cổ Linh huyện Gia Lâm, bèn theo các thức ấy lấy đồng (nặng 1 cân 12 lạng) mà làm ban cho các thành dinh trấn. Những ruộng đất công tư từ trước trót đã dùng thước trung bình mà khám đạc, thì làm sổ để đó mà theo. Từ nay nếu có việc tranh địa giới hay tố cáo ẩn lậu và báo xin khai khẩn thì dùng thước kinh để đo.

Tha dao dịch ba năm cho dân Triều Tôn (tên xã, nay là Giang Triều thuộc huyện Phú Vang) dinh  Quảng Đức. Chánh quản cơ Kiên chu là Lê Văn Châu tâu nói rằng tiên tổ là người Triều Tôn (tên xã, nay là Triêu Dương, thuộc huyện Quảng Xương) ở Thanh Hoa, khi Thái Tổ vào trấn phương Nam, đem nghĩa dân đi theo, nhờ ơn cho dân ấy làm binh thuyền Triều Tôn, lấy hơn 10 mẫu ruộng đất Tiên Nộn, Nam Phố và Phổ Trì (tên ba xã, thuộc huyện Phú Vang) cho ở. Khi Tây Sơn nổi loạn, quân dân tan tác bốn phương, ruộng đất bị xã Nam Phố chiếm mất. Năm Gia Long thứ 7, lấy cấp trả lại, sai chiêu tập dân về. Nay dân dần dần trở về, xin lập sổ đinh sổ điền xã Triều Tôn. Ruộng thì xin nộp thuế theo lệ công điền hạng ba. Vua y cho. Lại thấy dân ấy mới về, miễn dao dịch ba năm.

Thành thần Gia Định tâu nói: “Số binh ở các trấn còn ít, xin căn cứ vào sổ đinh từ 20 người trở lên, 30 người trở xuống, thì lấy 1 người dân ngoại tịch lập làm hương binh. Chọn dân nội tịch lấy người nhanh nhẹn siêng năng cho làm thủ ngự để suất lãnh, lệ thuộc trấn sai khiến”.

Vua thấy lấy binh ở dân ngoại tịch, hoặc sinh rối thêm, xuống chiếu bảo không nên.

Tướng giặc ở Sơn Tây là bọn tên Bách, tên Bàng mưu nổi loạn. Người Tam Đới là bọn Nguyễn Như Phượng, Nguyễn Đạo Cần báo dẫn quan quân bắt giết. Việc tâu lên. Cho Phượng làm Cai đội, Cần làm Đội trưởng và thưởng tiền 500 quan.

Sai các địa phương tìm hỏi sự tích công thần. Vua bảo bầy tôi rằng: “Từ năm Quý tỵ về sau, vận nước suy vi, trong khoảng ấy trung thần nghĩa sỹ đem mình báo nước thực chẳng phải ít. Lúc mới trung hưng đã từng sai tìm chép, nhưng lâu năm dấu tích mất đi, sợ chưa nêu rõ hết. Nay mới dựng miếu công thần, nên đi hỏi rộng mà liệt vào điển thờ, để yên ủi hồn thơm của người đã mất. Vậy hạ lệnh cho các thành dinh trấn hỏi khắp các quan lại dân chúng thuộc hạt, ai có ông cha vì nước chịu nạn, trung tiết rõ ràng, cho con cháu thân thuộc đem thực trạng làm thành sách tâu lên”.

Thả quân Thần sách ở Thanh Nghệ về. Thưởng cho cai đội, đội trưởng mỗi người một tháng tiền lương, binh lính mỗi người 3 quan tiền.

Hạ lệnh cho bộ Hộ định rõ thuế sản vật từ Quảng Bình về Nam, khiến dân đem nộp như lệ.

Tham hiệp Tuyên Quang là Nguyễn Dũng có tội, bị xử tử. Trước kia phân Quản tổng Vân Quang châu Bảo Lạc là Nông Khoan Triều bị giặc Tây Sơn giết, con là Nông Phước Đổ lánh nạn đi trốn. Người Quảng Đông nước Thanh là Trí Võ đã biết rõ, bèn mạo xưng là Phước Đổ để nối giữ chức Quản mục Vân Quang. Kịp khi Phước Đổ về, Trí Võ đem đồ đảng đương đêm chạy trốn, lẻn qua ải Cốc Bàng. Người giữ ải là Nông Phan Trung (cựu thuộc của Khoan Triều) chặn đường bắn chết đồ đảng 5 người. Trí Võ chạy tố cáo với trấn. Dũng biết rõ Trí Võ là giả dối, nhưng tham lợi nên để đấy, chỉ hỏi Phan Trung về tội giết người, thu bạc bồi thường 200 lạng và bỏ tù hai người dân đến chết ở ngục. Trung kiện lên thành. Thành thần tra hỏi, biết hết tình trạng. án dâng lên. Vua cho Trung là người hăng hái việc nghĩa, làm nổi chức vụ, rất khen, thưởng tiền 100 quan. Dũng và Trí Võ đều xử tội chết. Trấn thủ là Đặng Phước Trung, Hiệp trấn là Nguyễn Thế Trung vì chỉ việc a dua, đều phải bãi chức. Lại cho Phước Đổ quản tổng Vân Quang.

Lấy Vệ úy vệ Trinh võ  là Lê Văn Thái làm Trấn thủ Tuyên Quang, Thiêm sự Binh bộ là Bùi Công Kim làm Hiệp trấn, Tri phủ Thiên Quan là Nguyễn Kim Giám làm Tham hiệp.

Sửa cung Trường Thọ, thưởng cho binh lính 500 quan tiền.

Tha thuế thân và dao dịch cho Văn hàn ty thuộc công phủ hoàng tử.

Lấy 48 người dân xã Nguyệt Biều sung vào bốn đội Phú Thuận lính coi kho Kinh.

Hạ lệnh cho Gia Định lập sở dưỡng tế ở chùa Kim Chương cho những dân cùng túng không nơi nương tựa ở đấy, lương cấp cho ăn.

Lấy Khâm sai chưởng cơ vệ úy vệ Ban trực hữu quân Thần sách là Mai Gia Cương làm Quản đạo Thanh Bình.

Định lại 4 điều về việc vận tải:

1. Kỳ hạn vận tải. (Phàm việc vận tải mỗi năm một lần, cứ thượng tuần tháng 4 thì ra biển. Quan sở tại, trước ngày ra khơi, tư ngay cho các trấn thủ các địa phương, ngày đêm đi tuần ở biển; thuyền chở đi qua, có cần giúp đỡ gì, tức thì chiếu cố và khám làm chứng, đem việc tâu lên. Hạn thuyền đi thì trung tuần tháng 5 đến Kinh. Gặp nạn gió mà có giấy khám làm chứng minh bạch thì khỏi phải đền; vô cớ chậm trễ và buông thuyền chạy trái thì phải tội, chiếu số mất mà đền đủ số.

2. Sổ vận tải. (Các trấn ở thành Gia Định, đem số tiền thóc sản vật phải chở làm hai bản sổ, một bản nộp cho thành, một bản giao cho sở tại lãnh giải. Thành thần hội làm hai bản sổ tâu, một bản đệ bộ Hộ, một bản giao quan đốc vận. ở Bắc Thành  cũng thế. Duy từ Quảng Bình, trở về Nam đến Bình Thuận, trở về Bắc đến Thanh Hoa, mỗi kỳ chở phải làm hai sổ tâu một sổ đệ bộ Hộ, một sổ giao quan đốc vận hay viên lãnh giải).

3. Chức đốc lãnh. (Vận tải ở Gia Định và Bắc Thành chia làm bốn bang, Gia Định thì lưu thủ, cai bạ, hoặc ký lục các trấn lần lượt lãnh giải; quan trấn nào không thể đi được thì ủy cho thư ký, cai án, tri bạ, câu kê thuộc trấn theo giải. Bắc Thành thì lấy thư ký, tri bạ hoặc cai trưng, đề lãnh của thành và trấn đều một người theo bang về Kinh. Các dinh trấn từ Quảng Bình trở về Nam tới Bình Thuận, hằng năm chở sản vật, về tiền thóc thì chờ bộ tư báo rồi sau mới chở, lấy Lưu thủ hay cai bạ lãnh giải. Tiền thóc và sản vật của hai trấn Thanh Nghệ thì không câu nệ hàng năm, phàm bộ có tư ra thì phải theo đúng số mà chở, thư ký, tri bạ, cai trưng, đề lãnh mỗi chức một người theo giải).

4. Việc phụ giải. (Khi các thành dinh trấn đem tiền thóc sản vật phát chở thì lấy bạc lễ và thuế buôn thường năm chở kèm; thành Gia Định lại lấy thuế sản vật ở hai đạo Long Xuyên và Kiên Giang để chở kèm).

Định lệ chi phát tiền lương cho quan viên ở Kinh và ở ngoài. (Phàm ban cấp lương tiền cho quan viên thì nguyệt bổng, ngoài ra còn gọi là nguyệt xướng. Bổng và xướng cấp hằng tháng và hết thảy số tiền lương phải chi, thì cuối tháng đều làm thành sổ. Bộ Hộ thì ngày 10 tháng sau, Quảng Trị thì ngày 12, Quảng Bình, Quảng Nam ngày 13, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Nghệ An, Thanh Hoa ngày 15, Bình Hòa, Bình Thuận, Bắc Thành ngày 20, Gia Định ngày 25, đều đúng hạn ấy đem sổ tâu lên. Quan viên được thăng trật thêm bổng, được sắc chỉ ngày mồng 10 về trước thì lấy tháng ấy làm đầu, từ ngày 11 trở về sau thì lấy tháng sau làm đầu, đều chiếu theo số lương, hay bãi chức bỏ lương, mà án xử trước ngày mồng 10 thì số nguyên bổng trót đã lãnh rồi, số lương bị giảm để tháng sau sẽ khấu trừ; số lương bị bỏ phải truy thu ngay tháng ấy; nếu từ ngày 11 trở về sau, thì tháng sau mới giảm hay bỏ lương).

Định lệ tiền ân tuất cho người tôn thất. (Hạng nhất thân thuộc tang một năm, khi chết xin sắc chỉ; hạng nhì, thân thuộc tang 9 tháng, từ 18 tuổi trở lên cấp tiền tuất 100 quan, từ 17 đến 15 tuổi tiền tuất 70 quan, từ 14 đến 12 tuổi tiền tuất 50 quan, từ 11 đến 9 tuổi tiền tuất 30 quan; hạng ba, thân thuộc tang 5 tháng, từ 18 tuổi trở lên tiền tuất 50 quan, từ 17 đến 15 tuổi tiền tuất 30 quan, từ 14 đến 12 tuổi tiền tuất 20 quan, từ 11 đến 9 tuổi tiền tuất 10 quan; hạng tư, thân thuộc tang 3 tháng, từ 18 tuổi trở lên tiền tuất 20 quan, từ 17 đến 15 tuổi tiền tuất 14 quan, từ 14 tuổi đến 12 tuổi tiền tuất 10 quan, từ 11 đến 9 tuổi tiền tuất 6 quan; hạng năm, thân thuộc tang để lộ cánh tay và bỏ mũ, từ 18 tuổi trở lên tiền tuất 10 quan. Con gái tôn thất từ tang 3 tháng trở lên, còn ở nhà thì cấp tuất theo lệ thân thuộc bậc ấy, đã đi lấy chồng thì hạng nhất khi chết xin sắc chỉ, hạng nhì thì giáng theo hạng ba, hạng ba giáng theo hạng tư, hạng tư giáng theo hạng năm; nếu đã đi lấy chồng mà chồng chết không con thì vẫn theo hạng thân thuộc trước mà cấp đủ. Đều do quan quản lãnh Tôn nhân phủ xét rõ dòng họ, tư sang bộ chiếu số phát cho. Như người đã có quan chức mà theo lệ thân thuộc được tiền tuất nhiều, theo phẩm trật được tiền tuất ít, thì chiếu theo lệ thân thuộc mà cấp. Nếu theo lệ thân thuộc được tiền tuất ít mà theo lệ phẩm trật được nhiều, thì cấp theo phẩm trật. Đến như người dự có công lao được gia ơn đặc biệt thì không thuộc lệ này).

Ban sắc thần cho trong ngoài. Trước vua thấy trong nước đã yên, theo lẽ phải nên thăng trật cho bách thần, sai bộ Lễ nghị tâu. Đến khi tâu lên thì có những đế vương hậu phi các triều trước ở điển thờ cũng bàn tăng, vua nói: “Đế vương các đời trước có công đức với dân, tuy triều đại đã đổi thay mà danh vị đã định, nay nếu lại tăng thì chẳng là nhảm sao? Vậy gửi sắc chỉ khiến xã dân cứ phụng thờ như cũ. Duy những các thần thượng trung hạ đẳng thì đều theo lời nghị gia tặng, ban cấp cho”.

Cấp cho Tổng nhung cai cơ Nguyễn Tiến Khương 3 người mộ phu. (Tiến Khương có công Vọng Các, chết trận năm Canh tuất).

Bớt lính thú ở Thanh Bình. Trước kia Thanh Bình có việc, sai Thanh Hoa đem 200 quan quân ra thú ở đấy, mỗi tháng một lần thay đổi. Tới nay việc bắt giải đã ít đi, bèn bớt đi một nửa.

Tháng 9, ngày Quý sửu, dựng Quang Minh đường và Trinh Minh đường.

Sửa đồ thờ ở Nguyên miếu.

Truy tặng Thống binh cai cơ Tôn Thất Mân làm Chưởng cơ (Trước Mân theo xa giá vào Nam, đến khi vâng mệnh đi gọi binh sáu đạo ở Quảng Ngãi, đánh nhau với giặc bị chết).

Lấy Tống Phước Thuận làm Phó vệ úy vệ Định võ quân Thần sách.

Dựng kho ở các dinh Quảng Bình và Quảng Trị.

Hạ lệnh cho sách Man hai nguồn Đồng Hương và Đồng Nãi thuộc Bình Hòa lại nộp thuế sáp ong như lệ (mỗi năm nộp sáp ong 2.708 cân 10 lạng).

Chiêu viên là Lê thị (con gái út của vua Lê Hiển Tông) mất, tặng Đức phi, an táng ở Trúc Lâm, lập từ đường ở Kim Long. Thưởng cho binh dân 600 quan tiền.

Lấy Lưu thủ Quảng Trị là Nguyễn Văn Thiện làm Trấn thủ Hà Tiên, Ký lục Nguyễn Đức Hội làm Hiệp trấn, Tham luận Dương Văn Châu làm Tham hiệp; lại lấy hai đạo Long Xuyên và Kiên Giang lệ vào Hà Tiên. (Từ sau khi Mạc Thiên Tứ thất thủ, Công Bính và Tử Thiêm tuy nối chức trấn, mà hai đạo lại đặt quan khác nhau để cai quản, tô thuế nộp theo Vĩnh Thanh, đến nay lại lệ vào Hà Tiên). Đặt tả hữu thừa ty 20 người, chiêm hậu ty 3 người. Sai  thành thần Gia Định điều 200 lính cơ thuộc bốn trấn Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Định Tường và 6 chiến thuyền đến thú, 6 tháng đổi một lần. Lại lấy ở thành phát cho 1.000 đồng bạc phiên, 300 phương gạo và 500 quan tiền đem chứa đấy.

Vua lại thấy địa giới Hà Tiên ở biên cương xa xôi mà quân lại mới đặt, mọi việc chưa định, sắc từ nay có việc gì nên tâu thì làm ba bản sớ, một bản chính và hai bản phó, một bản phó lưu chiếu ở thành.

Định lệ bổng các quan trấn Hà Tiên. (Nguyệt bổng cũng như Trấn thủ và Hiệp trấn ở các trấn Bắc Thành, tiền 10 quan, gạo 10 phương, Tham hiệp thì tiền 8 quan gạo 8 phương).

Quốc vương Chân Lạp là Nặc Chăn sai ốc nha là Ma A Mân Si đưa thư đến Gia Định nói: năm trước sai em là Nặc Nguyên, Nặc Yêm, Nặc Đôn cùng ốc nha là bọn Cao La Hâm Mang [Kralahom Moeung – Thượng thư bộ Hải quân Moeung], Trà Tri Biện [Oknha Chakrei Pen – Thượng thư Bộ binh Pen. Phiên âm là (屋牙伽知): Ốc nha Ca tri hoặc Ốc nha Trà tri] sang Xiêm, đến nay Xiêm sai Uất Vô Thi đưa bọn Nguyên về, khiến chia đất Chân Lạp cho Nguyên làm vua thứ hai, Đôn làm vua thứ ba, lại đòi 1 vạn binh để đánh Miến Điện, Chăn ngờ Cao La Hâm Mang, Trà Tri Biện thông mưu với nước Xiêm, có ý làm phản, bèn giết đi. Thành thần dâng thư ấy lên. Vua sai vời sứ giả đến Kinh. Khi đến, cho vào yết kiến, vua hỏi rằng: “Nước ngươi là nước nhỏ, vậy mà cùng với nước Xiêm gây hiềm khích, nếu Xiêm đem quân đánh thì nước ngươi lấy gì mà chống?”. Sứ giả thưa rằng: “Nước tôi xin đem hết số quân nhỏ để chống quân Xiêm, nếu không đủ, thì xin nhờ uy linh của triều đình”. Vua thong thả yên ủi vỗ về, ban cho bạc tiền y phục rồi cho về. Nhân đấy cùng bầy tôi bàn chước xử trí. Mọi người cho rằng: Nặc Chăn đưa thư đến nói Xiêm trưng binh mà không nói binh đi đường nào, nói Xiêm bảo chia cho các em làm vua mà không nói có theo lệnh hay không, thực hay dối chưa có thể biết được! Nhưng bọn Cao La Hâm Mang, Trà Tri Biện đều là do người Xiêm phong cho làm phụ thần nước Chân Lạp mà Chăn giết đi, chưa chắc đã giữ được không xảy ra việc. Gia Định cùng Nam Vang tiếp giáp nhau, không thể không dự bị đề phòng.

Vua cho là phải, tức thì xuống lệnh cho các trấn đạo ở Gia Định đều lập hương binh. Chiếu dụ rằng: “Từ khi quân nổi về sau, hằng năm trưng phát, địa phương các ngươi theo việc quân khó nhọc lâu rồi. Đến khi thiên hạ yên định, triều đình thương vì nhọc mệt nhiều, nên cho về với dân cùng vui vẻ nghỉ ngơi. Duy trong khi nước nhà không có việc, cũng nên lo nghĩ mà đề phòng. Huống nay Chân Lạp với Xiêm La hiềm khích nhau, thì việc võ bị ở nơi biên cương không thể thiếu được. Nếu lại điều động binh ở nơi khác đến thì không quen phong thổ, quyết không bằng dân thổ trước các ngươi biết rõ tình thế biên cương hoãn cấp thế nào mới có thể sai được. Vậy hạ lệnh số dân các phủ huyện tổng xã thôn phường cùng số dân đồn điền, biệt nạp, đều lấy một nửa lập làm hương binh, biên thành đội ngũ, có việc thì làm lính, không việc thì làm ruộng. Đó là thượng sách để cùng nhau giữ gìn yên ổn”. Lại sai thành thần chế áo trận, sửa khí giới, luyện thuốc đạn, chứa gạo lương, để phòng bị dụng binh.

Thuyền dân bị nạn người Thanh là Trịnh Thiên Thịnh dạt vào phần biển Yên Quảng. Thành thần tâu lên. Sai đưa về Khâm Châu.

Hạ lệnh cho các kho ở Bắc Thành cùng các trấn Sơn Nam thượng hạ cùng bảo Nông Giang, thu thóc tô năm nay thì xay ra gạo 70 vạn phương nộp về Kinh. Những số thuế còn thiếu năm trước cho dân nộp thay bằng tiền (một hộc thóc 1 quan tiền).

Định lệ cống thuế cho các sách các động châu Quy Hợp ở Nghệ An. Ba động Mông Sơn, Yên Sơn và Thâm Nguyên, 3 năm một lần cống (lấy năm sửu, thìn, mùi, tuất làm kỳ cống. Vật cống: voi đực 1 thớt, ngà voi 2 chiếc, sừng tê 2 tòa, sáp ong 5 khối, vải thổ 4 tấm, nộp ở Nghệ An); động Động Dịch và sáu sách Vụ Quang, Trú Cẩm, Chúc A, Phù Lưu, Thanh Lãng, Minh Nông, thường năm  nộp  thuế (Tiền và sáp ong mật ong), cũng như lệ các động ở châu Trà Lân. Lại lấy 50 người thổ binh lưu giữ châu Quy Hợp.

Lấy Phó vệ úy vệ Hổ uy là Nguyễn Văn Tạo làm Vệ úy vệ Tuyển phong hữu, Phó vệ úy vệ Thuận võ là Võ Văn Toán làm Vệ úy vệ Túc võ.

Lấy Chưởng cơ Tống Văn Khương hành chức Thủ ngự đạo Cam Lộ, Cai cơ Trần Văn Huyên làm Thủ ngự cửa Eo, Trần Văn Quý làm Thủ ngự cửa Nhật Lệ.

Tướng giặc ở Thái Nguyên là Dương Đình Cúc ra vào ở nơi rừng rậm, hoành hành cướp bóc. Trấn thủ Nguyễn Đình Tuyển đuổi bắt rất gấp. Cúc lập mưu hoãn binh, bèn sai anh là Tự đến cửa quân đầu hàng. Đình Tuyển tin lời, đóng binh ở Na Miệt, muốn chiêu dụ Cúc. Ngay đêm hôm ấy, Tự trốn đi, bị quân đi tuần đâm chết. Đình Tuyển bèn lùa quân đi  tìm cùng núi thì Cúc đã trốn xa, bắt được đồ đảng hơn mười người đem về.

Lấy Vệ úy vệ Chấn bảo là Đào Quang Lý làm Trấn thủ Phiên An.

Nguyễn Văn Thành dâng biểu xin nghỉ đến hết tang. Vua không cho, dụ rằng: “Khanh là đại thần của nước, việc hiếu đã xong, nên lấy nước làm gấp, làm việc công quên việc riêng, đấy cũng là đạo lấy hiếu làm trung”. Thành lạy xin vâng mệnh, bèn lại đi coi việc.

Mùa đông, tháng 10, ngày mồng 1, tế đông hưởng.

Triệu Trấn thủ Kinh Bắc là Lưu Phước Tường, Hiệp trấn là Phan Tiến Thiện, Trấn thủ Lạng Sơn là Nguyễn Văn Thoại về Kinh. Lấy Trấn thủ Thái Nguyên là Nguyễn Đình Tuyển làm Trấn thủ Kinh Bắc, Phó thống Tả đồn Trung quân là Nguyễn Văn Trị làm Trấn thủ Lạng Sơn, Chánh quản thập cơ quân Thần võ là Trần Văn Thìn làm Trấn thủ Thái Nguyên, Hiệp trấn Sơn Nam hạ là Nguyễn Duy Hòa làm Hiệp trấn Kinh Bắc, Thiêm sự Hộ bộ là Nguyễn Công Tiệp làm Hiệp trấn Sơn Nam hạ.

Tướng giặc ở Kinh Bắc là tên Liễn lại họp đảng hơn 200 người, cướp bóc dân xã Ngọc Nham. Tri huyện Yên Thế là Hoàng Phước Đạt đem dân phu đuổi bắt, chém được tên Liễn và 7 người đồ đảng. Việc tâu lên. Cho Phước Đạt làm Tri phủ, ban cho mũ áo lục phẩm. Thuộc hạ là Đặng Đình Xuân, Đặng Đình Kim, đều cho làm Đội trưởng, thưởng chung cho 500 quan tiền. Xã dân người bị giặc giết thì cấp mỗi người 5 quan tiền.

Cấp mộ phu cho Giám quân Nguyễn Hữu Thoại. Hữu Thoại chết vì việc nước, vua thương không con nối dòng, nên tha thuế thân cho cháu gọi chú bác là Đức ý (là con Lưu thủ Nguyễn Đức Hựu) để giữ việc thờ cúng, sai mộ 5 người dân ngoại tịch làm mộ phu.

Lại lấy Nguyễn Cửu An làm Lưu thủ Quảng Trị.

Sai bọn Đô thống chế Lê Văn Phong, Phó đô thống chế Nguyễn Văn Trí, Chưởng cơ Nguyễn Văn Giám đem quân đi tuần ở biên giới.

Chiếu báo cho thành thần Gia Định là Nguyễn Văn Nhơn rằng: “Nước Chân Lạp đời đời làm thần thuộc nước ta, liệt ở chức phương (1. Chức phương: Tên quan nhà Chu, giữ địa đồ trong nước và việc phú cống của bốn phương.), không bỏ lễ phiên thần. Nay thế nước suy yếu, lại cùng nước Xiêm có hiềm khích, sợ khó tự giữ yên, cho nên sai bọn Phong đi tuần biên giới để giúp tiếng. Người nên chỉnh bị thuyền đi biển 15 chiếc, thuyền chiến 30 chiếc, biền binh hơn 2.000 người, chia làm ba đạo, sai Trí lãnh tiền đạo, Phong lãnh trung đạo, Giám lãnh hậu đạo, đến thẳng Tân Châu đóng giữ. Lại sai Ký lục Định Tường là Bùi Đức Mân và Quản trấn binh là Nguyễn Văn Tồn Quản lãnh binh hai phủ Trà Vinh và Mân Thít đi theo. Nếu Chân Lạp có nguy cấp thì tiến quân ngay đến La Bích để giúp. Người Xiêm biết quân ta đến trước hẳn không dám làm gì, Chân Lạp có thể giữ được vô sự”.

Dời bảo thủy quân Bắc Thành đến Vị Hoàng (trước ở Nông Giang), vẫn sai Nguyễn Văn Hạnh quản lãnh.

Quảng Đức có giặc. Dinh thần bắt được đồ đảng hơn 10 người. Sai tra xét ngay ngày ấy. Hữu ty nói ngày ấy là ngày cảnh mệnh (1. Cảnh mệnh: Mệnh lớn.) (ngày ngọ). Vua nói: “Cùng một ngày Giáp tý mà có người hưng, có người vong (2. Một ngày Giáp tý mà nhà Châu nổi lên, vua Trụ nhà Thương thì mất đi.  ), người xưa đã phân biệt rồi. Ta trước đánh với giặc Tây Sơn, lấy ngày ngọ ra quân, đã thắng lớn. Việc binh là việc hình rất lớn, việc binh còn không kiêng, huống chi việc hình! Từ nay có án nặng cần tra xét, nếu gặp ngày cảnh mệnh hằng năm đều không cấm”.

Vua cùng bầy tôi bàn về đạo trị nước, bảo Nguyễn Văn Thành, Trần Văn Trạc rằng: “Triều đình đặt quan, cốt là được người, đường làm quan trong sạch thì triều chính được nghiêm. Bọn khanh nên xem xét quan lại, nêu rõ điển truất bỏ cất lên, người có công thì thưởng, người có tội thì phạt, nhưng có công mà còn ngờ thì nên xem là trọng, có tội mà còn ngờ thì nên xem là nhẹ, để tỏ ý trẫm ưa người lành nhiều mà ghét kẻ dữ ít”.

Nguyễn Văn Thành dâng phong thư kín nói bốn điều: Điều thứ nhất nói rằng theo lệ thuộc lại các địa phương thì mộ dân ngoại tịch mà sung bổ, nhiều người không căn cước nên hay bỏ trốn, xin từ nay có khuyết thì không câu nệ nội tịch hay ngoại tịch, chọn ai có gia sản thì sung bổ. Điều thứ hai nói rằng Bắc Thành có mỏ Tụ Long là hơn hết, xin lại hạ lệnh cho khai, để cho nguồn lợi không úng tắc, quốc dụng được dồi dào, đó cũng là một cách sinh tài. Điều thứ ba nói rằng lệ thuế cửa ải và bến đò, đã có định ngạch, gần đây nghe sở tại nhiều nơi đánh thuế quá bừa, xin định rõ điều cấm, đừng làm khổ người buôn. Điều thứ tư nói rằng năm nội trấn Bắc Thành đã thay đổi sổ thường hành rồi sáu ngoại trấn và Thanh Nghệ vẫn còn chưa đổi, xin cũng nhất luật sửa lại. Sớ tâu vào, vua sai châm chước bàn làm. Rồi sai Tuyên úy đại sứ Ma Sĩ Trạch lại khai mỏ đồng ở Tụ Long, theo lệ thu thuế. Lại sai bàn định vật giá trên thị trường, chép làm điều lệ, ban gửi cho các sở cửa ải và bến đò, khiến tuần ty chiếu hàng hóa mà lượng đánh thuế, không được lấy quá.

Lấy Trần Hựu làm Đông các học sĩ, Phạm Minh Tuấn sung Hàn lâm viện, đều do Nguyễn Văn Thành tiến cử.

Lấy Vệ úy Thịnh võ là Nguyễn Văn Quang làm Quản cơ cơ Tiền kiên ở Quảng Ngãi.

Biền binh thuộc Tiền quân thú ở Bắc Thành có hơn 2.900 người. Nguyễn Văn Thành xin lập phép đổi thú, để cho ra vào mệt nhọc đều nhau. Vua y cho. Bèn sai Chánh thống Hậu đồn là Lê Văn Lý quản hơn 1.590 người ở lại đóng thú, Chánh thống Trung đồn là Phạm Văn Quỳnh đem 1.350 người về Kinh.

Định lệ cày và nộp thuế về ruộng đất ẩn lậu. Phàm ruộng đất có cày cấy mà không nộp thuế, đều ghi sổ bắt đầu thu thuế từ năm phát giác. Lại theo ẩn lậu từ 1, 2, 3 năm mà truy thu tô thuế, nhiều đến 4, 5 năm trở lên, cũng chỉ lấy 3 năm làm hạn. Còn ruộng đất ẩn lậu thì cho ai trưng trước là được. Nếu không có người trưng thì ruộng đất tư cấp cho chủ, ruộng đất công trở về dân, đều cho cày và nộp thuế như lệ.

Lấy Tôn Thất Tứ làm Cai đội hành quản phủ Hà Trung, kiêm giữ Nguyên miếu.

Đốc học Thanh Hoa là Phan Bảo Đĩnh ốm phải nghỉ việc.

Tháng 11, hạ lệnh cho từ Quảng Bình trở về Nam đến Bình Hòa làm địa bạ. Chiếu rằng: “Chính sự tốt trước hết là từ cương giới. Triều trước kinh lý việc dân, ruộng đất có sổ, cương giới rõ ràng. Từ khi biến cách về sau, sổ sách tản mất, đầu thời trung hưng chưa kịp sửa chữa. Gián hoặc có người xin trưng và tranh kiện, thì phần nhiều mờ mịt, không do đâu mà quyết định được. Vậy hạ lệnh cho các dinh trấn báo khắp cho xã dân, đều cứ theo số ruộng đất công tư, thực trưng và bỏ hoang, ghi rõ mẫu sào, đẳng hạng, xứ sở, bốn bên, hạn trong 3 tháng làm xong sổ dâng lên. Quan sở tại phải nghiêm cấm nha lại, không được tạ sự quấy nhiễu”.

Định lệ lễ ở Nguyên miếu. (Lễ Nguyên đán chi tiền 43 quan, các lễ Đoan dương, tế Chạp, Trừ tịch đều chi tiền 34 quan, lễ Xuân hưởng và Thu hưởng đều chi 107 quan).

Sai bang trưởng Quảng Đông là Hà Đạt Hòa thuê 3 người thợ làm ngói ở Quảng Đông, khiến nung ngói lưu ly các sắc xanh vàng lục ở Khố Thượng (nay là gò Long Thọ), để cho công tượng học chế đúng theo như kiểu, xong rồi hậu thưởng cho về.

Bọn ác man ở Quảng Ngãi lẻn xuống Đồng Quán cướp bảo Giang Ngạn. Thủ ngự là Lê Văn Hội đem hết quân ra chống cự, bị chết. Quân Man lại lan xuống Bồ Đề (tên thôn, thuộc huyện Chương Nghĩa), giết cướp dân Hán [Việt], Phan Tấn Huỳnh chia quân đuổi bắt, không được, đem việc tâu lên. Vua sai đình thần truyền dụ khiển trách rằng: “Trước kia Lê Văn Duyệt ở đấy người Man không dám phạm tới, là vì có phòng bị. Nay trong khoảng tuần nhật mà quân Man hai lần phạm vào bờ cõi, thế chẳng phải vì phòng ngự sơ sài sao? Từ nay nên gia ý nghiêm phòng, đừng để cho chúng nhân sơ hở làm hại dân ta”.

Lấy Cai cơ Trịnh Công Lân làm Thủ ngự cửa Hải Vân.

Đóng thuyền lê. Thưởng cho lính và thợ 2.800 quan tiền.

Sai Nguyễn Văn Nhơn đi kinh lược Nam Vang; lấy Trương Tấn Bửu tạm coi việc ấn tống trấn Gia Định. Trước kia vua nước Chân Lạp là Nặc Chăn đã giết Cao La Hâm Mang, Trà Tri Biện, bè đảng nó là Đê Đô Minh giữ đất Bông Xuy [Kompong Svay] và A Phi Phù Biệt Biện [Aphaiphubet Baen] đóng đồn ở Bắc Tầm Bôn [Battambang] để làm phản. Nước Xiêm sai tướng là bọn Phi Mã Long Mang và Phi Nhã Na Trật đem trọng binh đến giúp. Chăn cả sợ, sai người đi cầu viện. Vua cùng bầy tôi bàn rằng: “Đê Đô Minh vốn là tôi con của Nặc Chăn, nay trong lòng ngờ sợ, chiếm ấp tự giữ, nên bảo rõ điều họa Phước để gọi lại. Bắc Tầm Bôn là đất của Chân Lạp, không nên để người Xiêm chiếm lấy. Nhưng việc quân khó ở xa mà tính được, không gì bằng sai một đại tướng đem quân tới đó, tùy cơ mà làm, đấy là kế sách vạn toàn”. Bèn sai Văn Nhơn đi. Dụ rằng: “Việc nước Chân Lạp ủy thác cả cho khanh. Các tướng từ Lê Văn Phong trở xuống, đều do khanh điều khiển, khanh nên cấm ngăn tướng sĩ, vỗ về dân ngoại biên, khiến cho họ biết uy đức của Triều đình”.

Nhơn ban sáu điều cấm lệnh:  (1. Phàm tình hình ngoài biên, việc lớn thì cho đại tướng thân đi chỉ bảo, việc thường thì chỉ sai truyền báo. Còn các tướng nhỏ không được tiếp kiến vua Phiên, cũng không được cùng quan Phiên đi lại riêng. 2. Những lợi cá ở các sông đầm Chân Lạp quan quân không được mưu cầu đổi chác để đòi giá rẻ. 3. Thuyền đi việc công không được chở hàng hóa riêng, cũng không được kèm thêm thuyền buôn để mưu lợi. 4. Quan quân đóng thì dinh trại không được tự tiện vào nhà dân mà hống hách quấy rối. 5. Khi quan quân đi, không được dẫn theo dân Hán [Việt] trà trộn vào chợ phố ở Chân Lạp để rồi nói bậy về việc quân. 6. Quân nhu lương xướng đã có ở thành vận tải cung cấp, nếu nước Chân Lạp có tặng biếu cung ứng thì không được nhận bừa).

Đổi đồn Xiêm binh làm đồn Uy viễn.

Quan Bắc Thành tâu nói: “Bốn trấn Sơn Nam thượng, hạ, Hải Dương, Kinh Bắc, vì giặc giã năm Mậu thìn bị tàn phá đến 358 xã thôn, thuế nhà nước còn thiếu nhiều. Xin lượng giảm cho dân đỡ khổ”. Vua hạ lệnh tha thuế thiếu năm nay, còn thuế từ năm Đinh mão trở về trước thì hoãn đừng thu.

Cấp lương điền cho binh đội Bả lệnh Thị nội, cũng như lệ các đội Thị nội.

Tháng 12, triệu Phạm Như Đăng về Kinh, đổi bổ Thượng thư Lễ bộ. Dụ rằng: “Đức thanh liêm và cẩn thận của ngươi, trẫm đã biết rõ, nên nghĩ sao cho kịp tới các quan, noi giữ phép thường, để xứng với việc ủy thác”.

Đổi chức Lưu thủ các trấn từ Quảng Ngãi về Nam làm Trấn thủ.

Trưởng châu châu Quỳnh Nhai trấn Hưng Hóa là Đèo Chính Kiểu và Phó châu là Đèo Chính Tuyên vì thiếu thuế nhà nước, đem bán dân cho châu Chiêu Tấn, thổ mục là Đèo Quốc Quỳ lấy số tiền bạc ấy đem nộp; lại cử con Quốc Quỳ là Quốc Hùng làm trưởng châu và xin với trấn thần, trấn thần y cho. Đến nay việc phát giác. Hạ lệnh đem dân ấy trả về châu Quỳnh Nhai, cho người trong châu là Đèo Chính Ban làm Trưởng châu, Đèo Chính Bằng làm Phó châu, thế tập việc châu. Kiểu và Tuyên đều bị 70 roi, đuổi về dân. Trấn thủ là Nguyễn Văn Kiên, Tham hiệp là Võ Xuân Cẩn đều bị bãi chức.

Triệu Hiệp trấn Nghệ An là Ngô Đình Siêu về Kinh. Đình Siêu đã đi rồi, Chưởng cơ quản vệ Kiên uy là Nguyễn Văn Mỹ hiệp hiềm xui quân dân kiện về những tệ riêng. Trần Văn Lại và Lưu Văn Vượng đem việc tâu lên. Vua giao xuống bộ Hình xét hỏi. Đình Siêu vì đổi tiền kho Hà Trung bị bãi chức. Văn Mỹ vì xui giục thêu dệt để kiện vu bị giáng làm Cai cơ. Công Lại và Văn Vượng khinh suất tâu lên đều xử phạt.

Bọn Nguyễn Văn Chấn quản tàu Phượng Phi, Lê Văn Lăng quản tàu Bằng Phi, tâu xin đem thuộc binh đã mộ lập làm hai đội Chiến sai Hùng sai, lệ theo sai phái. Vua y cho.

Người Thanh đưa bọn giặc trốn là Lê Du, An Ôn Bích đến Bắc Thành. Trước kia bọn Du tụ họp côn đồ cùng bọn giặc biển là Trương Bảo Tử, Trịnh Nhất Tảo họp đảng đi cướp ở ngoài biển, bị quan quân đánh bắt, thế cùng bèn sang nước Thanh. Tổng đốc Lưỡng Quảng nước Thanh sai đưa trả về. Nhưng bọn Du thác cớ xin ở lại; bèn cho ở kho Đại Hữu trong thành Quảng Đông. Người buôn Thanh là Trương Tấn Thắng biết rõ tình trạng, báo cho Bắc Thành. Thành thần đem việc tâu lên, vua bảo bầy tôi rằng: “Bọn Dụ tự biết tội ác không thể dung được nên không dám về”. Sai thành thần đưa thư cho Tổng đốc Lưỡng Quảng khiến đuổi về, không thì quản thúc nghiêm nhặt, chớ để sinh việc. Đến nay người Thanh đóng gông đưa bọn Du hơn 30 người về Bắc Thành, bèn đem giết hết.

Quân của Nguyễn Văn Nhơn đến La Bích. Nặc Chăn đến đón, xin quan quân tiến đánh lấy Bắc Tầm Bôn. Văn Nhơn bảo Chăn đem quân trong nước đi trước. Chăn từ chối, nói không có quân, Văn Nhơn đem tình trạng tâu lên. Chiếu bảo rằng: “Mới rồi sai khanh đem quân đi giúp tiếng cho Nặc Chăn, vốn muốn giúp ngầm thôi. Nay Nặc Chăn lại không thể tự cường, việc gì cũng đùn đẩy, nhưng quân của Trung Quốc [tức Nhà Nguyễn tự xưng] có phải là đồ dùng để báo oán cho người Di Địch đâu! Nên đóng quân chớ hành động, thong thả xem tình thế, cẩn thận chớ nên sơ suất phát binh”.

Lại chiêu dụ bọn vua Phiên và quan Phiên rằng: “Vừa đây vì vua Phiên mới lập, trong nước bất hòa, cho nên Triều đình sai tướng đến bảo hộ. Nay nghe nước Phiên binh bị yếu ớt, chỉ chuyên nhờ quan quân, khi quan quân rút về thì lấy gì mà chống giặc ngoài? Chi bằng nên hiệu triệu binh Phiên, thu dụng các quan thuộc Phiên, để lúc không việc thì phòng giữ tự vệ, lúc có việc thì chống giặc đánh thù, thế mới thực là mưu hay giữ nước. Quan Phiên các ngươi là tôi con của vua Phiên, đương lúc có việc, cũng nên cùng lòng hợp sức để giữ lấy nước; nếu không thế, nước Phiên không yên thì bọn ngươi có ở yên được không? Các việc lành dữ họa Phước lý thế rõ ràng. Vậy nên cùng nhau hết lòng với phận sự, để trên dưới cùng yên, không phụ ý của trẫm yêu kẻ nhỏ mọn, thương người cô đơn”.

Sai Trần Văn Năng đi Gia Định, theo Nguyễn Văn Nhơn làm việc quân. Các quân Thị trung, Thị nội, Thần sách trước về quê nghỉ, ai muốn xin theo lập công, thì cho quản lãnh để đến quân. Rồi sai đặt làm ba vệ Bảo thành.

Triệu Lưu thủ Vĩnh Thanh là Nguyễn Huy, Lưu thủ Định Tường là Nguyễn Văn Hưng về Kinh. Lấy Lưu Phước Tường làm Trấn thủ Vĩnh Thanh, Nguyễn Văn Thoại làm Trấn thủ Định Tường, sai cùng Mạc Văn Tô quản lãnh 1.200 người hương binh, tiến đến quân thứ La Bích, lệ theo Nguyễn Văn Nhơn điều khiển.

Vua thấy Hà Tiên ở về biên giới phía đông, có quan hệ tin tức với việc động tĩnh ở biên khổn, nên sắc rằng phàm có thuyền buôn nước ngoài đến buôn, thì nên hỏi thăm sự thể người Xiêm thế nào để tâu lên.

Trấn thủ Nghệ An là Trần Công Lại xin nghỉ về quê. Vua y cho. Cho Lưu thủ Quảng Đức là Huỳnh Viết Toản làm Đô thống chế lãnh trấn thủ Nghệ An, Cai cơ  Tôn Thất Huyên làm Lưu thủ Quảng Đức.

Lấy Đoàn Văn Trường làm Vệ úy vệ Toản võ, Lê Trọng Giảng làm Vệ úy vệ Tuyển phong tả, Đỗ Quý làm Phó vệ úy vệ Trung nhị Thị trung,

Lê Phước Bảo làm Phó vệ úy vệ Hậu nhị, Trương An Sĩ là Phó vệ úy vệ Tiền nhị, Trần Văn Bính làm Phó vệ úy vệ Trung võ, Nguyễn Văn Dũ làm Phó vệ úy vệ Phấn võ, Nguyễn Hữu Khâm làm Phó vệ úy vệ Kiên uy, Lại Thế Nguyên làm Phó vệ úy vệ Phấn dực, Nguyễn Đức Triệu làm Quản cơ cơ Tả thủy, Lê Văn Tứ làm Phó quản cơ cơ Hậu thủy.

Nghệ An bị hạn. Hạ lệnh hoãn các việc kiện vặt để dân chuyên việc làm ruộng. Trời liền mưa.

Phục chức cho Trần Văn Phương làm Phó đô thống chế Hậu dinh quân Thần sách (Văn Phương trước nhân có lỗi giáng làm Cai cơ, đến nay được khởi phục).

Khai mỏ kẽm ở xã Yên Lãng trấn Hải Dương. Vua thấy kẽm có quan hệ đến việc quốc dụng, sắc cho quan Bắc Thành có ai xin khai mỏ ấy thì đem tâu lên. Hiệp trấn Hải Dương là Nguyễn Trí Hòa tự xin mộ hóa phu (1. Hóa phu: Người phu bỏ vốn ra mà làm khoán.) để  khai mỏ, hằng năm nộp thuế kẽm (mỗi lò 720 cân). Thành thần tâu lên. Vua y cho.

Ngày Quý tỵ, vua yết lăng.

Ngày Giáp ngọ, tế Chạp.

Nguyễn  Văn Nhơn đóng quân ở La Bích. Tướng Xiêm là Phi Nhã Long Mang ở Bắc Tầm Bồn sợ không dám động quân, sai người đưa thư đến Nặc Chăn nói: “Trước đây vì Miến Điện xâm lấn cho nên đòi binh viện trợ. Nay Miến Điện đã lui nên bãi việc đòi binh”. Văn Nhơn đem việc tâu lên. Vua sai đưa thư cho nước Xiêm trách rằng: “Cao La Hâm Mang, Trà Tri Biện tuy được nước Xiêm phong, nhưng bọn ấy có lòng bội nghịch, Nặc Chăn giết đi cũng không phải là quá. Vua Xiêm lấy cớ ấy mà động binh là danh nghĩa gì? Ta sở dĩ sai tướng đến bảo hộ, không phải lợi vì đất đai, chỉ là vì nghĩa cứu tai thương nạn, vương nên nghĩ kỹ xem”. Vua Xiêm được thư, ngầm rút quân về.

Chiếu cho Nguyễn Văn Nhơn rút quân về. Nặc Chăn lấy cớ nước mới yên định, tình dân chưa yên, xin lưu quân lại bảo vệ. Bèn sai Nguyễn Văn Tồn đem 1000 binh đồn Uy viễn đóng thú ở đấy.

Định lại điều lệ thuyền vận tải; 1. Các dinh trấn, mỗi năm đến tháng 10 phải làm sổ thuyền để tâu, gồm ba bản, bản giáp lưu ở bộ Hộ, bản ất gởi cho quan cai Trường đà, bản bính gửi cho địa phương lưu chiếu. 2. Các hạng thuyền ghe lệ nộp tiền thuế thay chở, mỗi năm đến tháng 2 thì xong. Thuyền nào mục nát, hoặc chìm đắm thì biên vào sau sổ, cho miễn thuế. Thuyền nào mới đóng thì chiếu phát bài thuyền, rồi thu tiền thuế thay chở năm nay. Như chủ thuyền ở hạt khác thì do sở tại chiếu thu, và cấp giấy cho về hạt mình mà lãnh bài thuyền. 3. Nhân viên các nha có đóng các hạng thuyền thì bài thuyền ở Kinh do dinh Quảng Đức cấp phát, ở ngoài do các dinh trấn cấp phát.

Lấy Tri phủ Kiến Xương là Lê Văn Nguyên làm Tham hiệp Hưng Hóa.

Sai Gia Định mua 700 cân trần hoàng ở Chân Lạp. Vua Phiên không chịu nhận tiền giá. Thành tâu lên. Vua nói: “Trần hoàng không phải không là thứ chính cung của Chân Lạp”. Sai phát cho 350 đồng bạc Phiên để trả.

Sai Phó tướng Nguyễn Văn  Hiếu kiêm lãnh Đê chính Bắc Thành.

Lấy Tôn Thất Thuận làm phó đội coi binh đội Thủ lăng.

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển XLII – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Tân mùi, Gia Long năm thứ 10 [1811] (Thanh Gia Khánh năm thứ 16), mùa xuân, tháng giêng, ngày Nhâm ngọ, tế xuân hưởng.

Tiết Vạn Thọ. Trước một ngày cho bầy tôi ăn yến ở điện Cần Chánh. Đến ngày, vua ngự ở điện Thái Hòa; bầy tôi dâng biểu mừng. Lễ xong, sai đội Du Xuân tấu ca nhạc ở nhà Thanh Phong, mặt trời xế bóng mới thôi. Trước đây các văn võ đại thần tâu nói: “Năm nay Hoàng thượng ta tuổi thọ ngũ tuần, xin làm lễ đại khánh”. Vua không cho, chỉ sai làm lễ như năm thường thôi.

Lấy Hữu tham tri Binh bộ là Ngô Nhơn Tĩnh lãnh Hiệp trấn Nghệ An. Nhân Tĩnh đến trấn, tâu nói dân hạt đói kém, còn thiếu tô thuế tiền thóc kể tới 10 vạn. Vua dụ rằng: “Nhà nước để của ở dân, thì ở dân cũng như ở nhà nước, có cần gì. Đợi sang năm được mùa sẽ thu”.

Vệ úy vệ Trung võ là Nguyễn Văn Như giữ bảo Tiên Lý. Ban đêm bảo bốc cháy, cháy lan tới kho thóc mất hơn 9.000 hộc. Trần thần Nghệ An tịch biên nhà Văn Như, đem việc tâu lên, xin giao xuống cho Lại bộ xét. Vua không nỡ bắt tội, chỉ cách chức quan. Gia sản đã tịch thu đều trả lại hết. Những quân và lại coi giữ cũng đánh trượng rồi tha.

Sai đình thần soạn định luật lệ, lấy Nguyễn Văn Thành sung chức Tổng tài. Dụ rằng: “Các bực đế vương trị nước, hình pháp đặt ra đã lâu. Hình pháp không đúng thì dân không chỗ mà nắm. Nay luật lệ chưa định, pháp ty không theo vào đâu được, thực không phải ý “Khâm tuất minh doãn” (1. Khâm tuất minh doãn: Kính cẩn, thương xót, sáng suốt, tin đúng.) của trẫm. Bọn khanh nên hết lòng khảo xét những pháp lệnh điển lệ của triều, tham hợp với điều luật đời Hồng Đức và nước Đại Thanh, lấy bỏ cân nhắc mà làm thành sách. Trẫm sẽ tự sửa chữa cho đúng để ban hành”.

Chuẩn định từ nay trở đi phàm dân sở tại và người Thanh ngụ ở các địa phương, có ai đóng thuyền từ 7 thước trở lên, 17 thước 9 tấc trở xuống, thì một năm phải chở, một năm đi buôn. Đương đi chở mà xin đi buôn thì thu tiền thuế cảng. Sau vì dân nhiều người xin đi buôn, thuyền vận tải ngày ít đi nên bãi lệ ấy.

Lấy Chánh quản cơ Trung kích Tượng quân là Đoàn Đức Luận làm Trấn thủ Hưng Hóa.

Nguyễn Văn Nhơn đem quân về Gia Định, vì ốm xin nghỉ việc thành hai tháng. Vua y cho. Bãi hương binh Gia Định, lại cho trở về làm ruộng.

Hạ lệnh cho Quảng Ngãi mộ dân ngoại tịch lập làm ba đội thuộc binh thuyền Nghĩa binh.

Miễn cho các tù sung dịch thuộc sáu trấn Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hưng Hóa, Yên Quảng, khỏi phải phát vãng, đều được ở lại trấn sở làm việc, để cho vợ con cấp nuôi.

Triệu 3 nghìn binh quân Thần sách ở Thanh Nghệ và 4 nghìn rưởi binh thuộc Ngũ quân và Tượng quân ở Bắc Thành về Kinh.

Sơn Nam đói. Dân các huyện Bình Lục, Duy Tiên, Kim Bảng, ý Yên, Thanh Liêm, họp nhau trộm cướp. Thành thần sai Cai cơ Nguyễn Văn Tại, Phó quản cơ Nguyễn Văn Nhàn đem quân đi bắt.

Chở 5 vạn lạng bạc ở kho Kinh và súng đạn, diêm tiêu, binh khí đem chứa ở thành Gia Định.

Lấy Cai cơ Nguyễn Văn Lý làm Vệ úy vệ Hữu bảo.

Đặt thêm Thiêm sự hai tào Hộ Hình ở Bắc Thành. Lấy Tri phủ Nguyễn Văn Bảo và Bùi Phụ Đạo làm Thiêm sự Hộ bộ, Nguyễn Hữu Tung và Lê Văn Quyền làm Thiêm sự Hình bộ sung làm công việc tào. Sau thành thần thấy công việc Binh tào và Đê chính bận nhiều, xin phái thêm Thiêm sự hai bộ Binh Công sung làm. Vua y cho.

Tháng 2, ngày Bính thân, tế Trời Đất ở đàn Nam giao.

Hạ lệnh từ nay những sớ chương trong ngoài do đường quan sáu bộ đương ban tâu lên, cùng cả với người dự xin lãnh chỉ đều ghi tên vào cuối giấy để phòng tra xét.

Bắc Thành nhiều thuế thiếu, thành thần cho rằng các huyện thu đòi bất lực, xin trói để trị tội. Vua nói: “Huyện lệnh là quan thầy của dân, làm nhục là không phải đạo, dân còn coi ra gì”. Không y lời xin.

Hạ lệnh cho các quan địa phương ở Thanh Nghệ và Bắc Thành, xét những tri phủ tri huyện thuộc quyền giỏi kém thế nào tâu lên.

Lấy Cai bạ Quảng Bình là Lê Đắc Tần quyền lãnh Ký lục Quảng Đức.

Đắp đê mới ở huyện Yên Lãng trấn Sơn Tây. (Đê ở các xã Văn Quán, Hạ Lôi, Đông Cao, Trang Việt, Mạch Lũng, dài hơn 1.350 trượng).

Người Quảng Đông nước Thanh là bọn Châu Phú Quan thuê thuyền Hải Nam đi buôn ở Gia Định, xin giảm thuế cảng. Thành thần hạch là giả dối, cứ đánh thuế đúng như ngạch thuyền Quảng Đông. Việc tâu lên. Vua hạ lệnh từ nay trở đi, kẻ phụ trách thuyền buôn nước ngoài cứ lấy bài thuyền để nghiệm, kẻ nào gian dối thì có tội.

Lấy Chánh thuộc hiệu hiệu Hùng nhất Tuyên Quang là Ma Doãn Điền lãnh châu Đại Man. Trước kia các dân man di cư phần nhiều phụ ở châu Đại Man. Trấn thần sai thổ tù thu thuế, người Man không theo, xin được Doãn Điền quản lãnh (Doãn Điền trước làm châu trưởng). Trấn thần nhân đấy sai đi. Doãn Điền bèn ghi tên những người Man mới và cũ cộng được hơn 500 người, chia làm 280 bếp, hằng năm nộp thuế bạc là 560 lạng. Thành thần tâu việc ấy lên, mới có mệnh này.

Lấy thổ tù ở Hưng Hóa là Cầm Nhơn Khuể làm Trưởng châu châu Phù Hoa (nay là Phù Yên), Cầm Nhơn La làm phó.

Tướng giặc ở Bắc Thành là bọn Đặng Trần Siêu và Võ Đình Lục lại họp đảng ở Kính Lão (tên xã, thuộc huyện Mỹ Lương) hơn nghìn người, nhân sơ hở đi cướp bóc, Lê Chất đem binh đi bắt. Chất đóng đồn ở ứng Thiên, sai Phó thống chưởng cơ Tiền đồn Hậu quân là Đặng Đức Bính, Phó vệ úy vệ Hậu bảo tam là Ngô Văn Dần, Cai đội phó trưởng chi chi Chương nghĩa là Nguyễn Văn Chỉnh và Cai cơ Ngô Văn Tấn làm tiền du. Khi quân đến Yến Vĩ (tên xã, thuộc huyện Hoài An), phục binh của giặc bốn mặt nổi dậy. Tiến chạy trước; Bính cùng Dần và Chỉnh đánh nhau bị chết tại trận. Chất chém Tiến để răn quân. Lại ủy cho Trấn thủ Sơn Nam thượng là Nguyễn Xuân, Phó vệ úy vệ Tuyển phong tiền là Mai Văn Châu tiến quân tới Thức Cốc (tên xã, thuộc huyện Chương Đức). Quân giặc chống đánh. Xuân và Châu lùa đánh tan. Chém được 4 đầu giặc, bắt được hơn hai chục người. Việc tâu lên. Thưởng cho quan và binh hơn 1.000 quan tiền, tặng Dần làm Vệ úy, Chỉnh làm Cai cơ.

ở Gia Định gạo rẻ, mỗi phương giá 2 tiền 30 đồng. Sai bốn trấn Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Định Tường, cho dân nộp tô đều nộp thóc gấp đôi, quan theo giá khấu trừ tiền thuế thân.

Bỏ lệnh cấm buôn thóc cho Hà Tiên. Trước kia Mạc Tử Thiêm trấn thủ Hà Tiên, triều đình lấy riêng hai đạo Long Xuyên, Kiên Giang lệ vào Vĩnh Thanh, Hà Tiên mỗi năm chỉ được đong một vạn hộc thóc. Kẻ nào buôn gian trị tội. Đến nay hai đạo lại thuộc về Hà Tiên quản lãnh, bèn bỏ lệ cấm ấy, việc mua bán lưu thông, dân đều được tiện.

Triệu Mạc Công Du, và Mạc Công Tài về Kinh, tha dao dịch cho 50 người nhà.

Tháng 2 nhuận, nước Vạn Tượng sai sứ sang cống.

Bảy sách Man ở Cam Lộ vào cống.

Biền binh Nội hầu và Trung hầu có kẻ đón xa giá kêu kiện. Vua nói: “Triều đình đã đặt quan coi pháp luật, ai có oan khuất gì, nên theo thứ tự mà kêu kiện, sao dám nhảm nhí như thế”. Sai đánh roi.

Hiệp trấn Thanh Hoa là Nguyễn Hoài Quỳnh vay riêng tiền kho. Tham hiệp là Đinh Văn Nhã hạch tâu. Sai Nguyễn Tăng Địch và Nguyễn Thừa Thân đến xét hỏi. Hoài Quỳnh dâng sớ xin nhận tội. Vua tha cho, truy thu nộp vào kho.

Lấy Thự tham tri Hình bộ lãnh Hình tào Bắc Thành là Trịnh Hiến đổi làm Thự tham tri Binh bộ lãnh Binh tào.

Ngày Kỷ mùi, sửa lại Thái miếu. Thưởng tiền cho lính và thợ theo thứ bực khác nhau.

Chở gỗ ở Nghệ An nộp về Kinh.

Lấy Hàn lâm viện Ngô Khản làm Thiêm sự Hộ bộ.

Nước Xiêm La sai bọn Phi Nhã Phi Phật đến dâng sản vật địa phương. Trong thư nói đến tội trạng của Nặc Chăn tự tiện giết bọn Cao La Hâm Mang, Trà Tri Biện. Vua sai Nguyễn Văn Thành bẻ rằng: “Cao La Hâm Mang, Trà Tri Biện âm mưu phản nghịch, Nặc Chăn là vua giết đi, cũng như bề tôi ở biên cương giết một kẻ lại phạm pháp, thì có tội gì? Huống nước Xiêm phong mà không có bằng sắc để hiềm khích, há nên chỉ trách một mình Nặc Chăn sao?”. Sứ giả lại xin bảo vua nước Chân Lạp thân sang nước Xiêm để hội táng Phật vương trước. Vua lại sai dụ rằng: “Chân Lạp từ khi có nước tới nay, chưa từng có lễ vua thân đi mừng viếng bao giờ. Nếu có lầm lỗi, đưa thư răn bảo là được, hay sai sứ đến trách cũng được, sao lại bắt bỏ nước mà đi? Lấy nước lớn vỗ về nước nhỏ, đó là thuận theo lẽ trời. Nếu nước ngươi làm trái lẽ trời thì hành động của Nặc Chăn biết làm sao được?”. Sứ giả không nói được nữa. Hành nhân của nước Xiêm có Sênh Hâm trước kia đã từng hầu vua ở thành Vọng Các. Vua sai hậu đãi vỗ về và thường hỏi về việc nước Xiêm, Hâm đều nói hết, không giấu điều gì.

Trước đây Nặc Chăn cùng nước Xiêm gây ác, chỉ trông nhờ vào ta. Đến khi nghe sứ Xiêm lại chầu, cho rằng ta vui vẻ với Xiêm, Nặc Chăn rất sợ. Vua sai đình thần làm thư bảo cho biết những lời hỏi đáp với sứ Xiêm khiến cho yên lòng. Lại dụ rằng: “Nước ngươi hãy còn suy yếu, thế chưa thể tranh với người Xiêm được. Nay nước Xiêm có tang Phật vương trước, vương tuy không thể thân hành đi được, nhưng cũng nhân lúc này sai sứ sang hội táng, để tỏ tình giao hiếu”. Nặc Chăn được thư cả mừng, dâng biểu tạ ơn.

Trấn thủ Sơn Tây là Trương Phước Phượng, Hiệp trấn là Hoàng Tử Cao báo thiên tai không đúng bị miễn chức. Lấy Dương Công Tòng làm Hiệp trấn, phục chức cho Võ Xuân Cẩn làm Tham hiệp.

Cho Khâm sai cai cơ Tống Phước Ngoạn làm Khâm sai chưởng cơ.

Tháng 3, ngày Nhâm ngọ, duyệt các quân ở trước điện Càn Nguyên, dẫn sứ Xiêm đến xem. Thưởng cho các quân 2.500 quan tiền. Ngày hôm sau thao diễn chiến thuyền ở sông Hương.

Vua ung dung cùng bọn Tống Phước Lương bàn về cơ lược dùng binh. Dụ rằng: “Côn Lôn, Phú Quốc, Thị Nại, Cù Mông, trẫm cùng tướng sĩ các ngươi đã trăm trận đánh vất vả mới có ngày nay. Lúc yên đừng quên lúc nguy, đó thực là đạo giữ nước yên dân”. Bọn Lương cúi đầu tạ.

Lấy Hữu tham tri Lại bộ Nguyễn Hữu Thận làm Hữu tham tri Hộ bộ, Hữu Thận tính cẩn hậu có mưu kế. Thượng thư Hộ bộ Lê Quang Định tâu xin điều bổ, nên có mệnh này.

Đặt thuyền Toàn bính ở Bình Định, sai trấn thần mộ dân ngoại tịch sung vào.

Lấy Thuộc nội chưởng cơ Nguyễn Văn Tuyên kiêm Quản vệ Chấn bảo nhất.

Sai bọn Chưởng cơ Tống Phước Ngoạn, Phó vệ úy Trần Văn Trinh, Thiêm sự Phạm Văn Toán sung Chánh phó sứ sang Xiêm. (Tặng Phật vương 120 tấm lụa trắng, 100 tấm vải trắng, 2.000 cân đường cát, đường phổi, đường phèn đều 500 cân; cho vua thứ hai 80 tấm lụa trắng, 80 tấm vải trắng, 1.000 cân đường cát, đường phổi đường phèn đều 300 cân).

Vua sai Lại bộ viết thư trả lời về việc thu xếp việc nước Chân Lạp rằng: “Nước Chân Lạp là một nước phiên nhỏ, người thưa đất hẹp, trước đây các vua thánh ta phong cho ông cha Nặc Chăn một nước một vua, chính quyền về một mối, cho nên có thể nắm được giềng mối để giữ gìn vô sự; nay vì nước loạn ly đã lâu, sức người mòn mỏi, Nặc Chăn đã làm quốc vương mà em là Nặc Nguyên lại làm vua thứ hai, Năm Yêm làm vua thứ ba, một nước ba vua, nhân dân do đó mang hai lòng. Mới đây nghe dân Man không yên, cho nên hạ lệnh cho khổn thần ở Gia Định đem quân trấn giữ, đấy là nghĩa yêu nước nhỏ không thể không được, chứ không phải vì lợi, cũng không phải thích dụng binh. Huống chi Nặc Chăn đem thần dân trong nước để thờ hai nước lớn cũng chỉ là mong nhờ uy đức để giữ bờ cõi toàn vẹn mà thôi. Trong khi Nặc Chăn có việc mà nước Xiêm trong thì có quốc tang, ngoài thì có việc quân, thế ấy không thể trông coi cả được, nước ta đưa quân đi tuần ngoài biển để nhân giữ cho yên, chẳng những là giúp cho Nặc Chăn mà cũng giúp cả cho nước Xiêm nữa. Đường sá xa cách e vương không suốt được ý ấy, nên nói rõ ra”. Sứ giả nước Xiêm cũng xin về nước. Thưởng cho rất hậu, khiến cùng với sứ ta đều đi.

Bắc Thành bị hạn. Trấn thần Nghệ An tâu nói: “Trà Lân, Quy Hợp ở miền thượng du, đường quan báo tất phải đi qua. Xin đặt mỗi nơi một hiệp thủ, để sai coi việc thu thuế và để báo tin ngoài biên cho nhanh”. Vua y cho.

Tha tô thuế dao dịch cho huyện Tống Sơn, cấp thêm lương tiền cho binh lính. Vua thấy Tống Sơn là đất thang mộc, cỗi gốc ở đó, muốn ra ơn đặc biệt, hạ chiếu cho từ nay tô thuế dao dịch đều miễn. Những binh ở vệ Tín uy Thị nội mỗi năm cấp cho mỗi người 12 phương gạo, như có sai phái việc quân thì cấp cho lương tháng khác (1 quan tiền 1 phương gạo), hằng năm cứ tháng 12 thì đòi về tập hợp ở Kinh. Tại trấn thì cấp quần áo, 3 quan tiền và một tháng tiền lương (1 quan 5 tiền), đến Kinh thì chiếu theo lệ lương của binh Tả hầu Hữu hầu và Trung nhất mà cấp. Rồi hạ lệnh cho các thành dinh trấn, phàm binh các đội thuyền Bính quê ở Tống Sơn thì quan thống quản không được sai bừa làm việc vặt, để tỏ phân biệt.

Định lệ lương cho các đội Nội hầu, Trung hầu, Tả hầu. Người thường xuyên ứng trực thì chiếu tháng chi lương tháng, tháng nhuận thì thôi; người chia ban thì tháng thiếu khấu đi 1 ngày, tháng nhuận vẫn được chi cấp.

Chưởng cơ án thủ bảo Hà Trung là Lê Phước Điển cho rằng phẩm trật ở trên chức Tham hiệp, nên các giấy tờ quan hệ do trấn Nghệ An gửi mà có viết chức hàm Tham hiệp ký đều không nhận cả. Tham hiệp Lưu Văn Vượng đem việc ấy hỏi, Trấn thủ Huỳnh Viết Toản, Hiệp trấn Ngô Nhơn Tĩnh đều không quyết định được, đem sự trạng tâu lên. Vua bèn hạ lệnh từ nay về sau ở trấn có truyền báo việc quân, thì Trấn thủ và Hiệp trấn là chủ, duy các việc kiện tụng và lương tiền thì Tham hiệp mới được dự.

Lấy Cai đội Nguyễn Văn Quý làm Thủ ngự cửa biển Văn úc (thuộc tỉnh Hải Dương).

Chưởng dinh lãnh phó tướng Tiền quân là Nguyễn Đình Đắc chết, tặng Thiếu bảo, cho tiền 400 quan, sai quan đến dụ tế.

Khai mỏ sắt La Bôn ở Biên Hòa. Bọn lái buôn người Thanh là Lâm úc Tam và Lý Kinh lãnh trưng, mộ người thổ dân và người Thanh lập làm đội Thiết trường, mỗi năm nộp thuế sắt mỗi người 50 cân.

Nguyễn Văn Tồn đóng thú ở La Bích, quân nhiều người bị bệnh nước độc. Nguyễn Văn Nhơn tâu xin rút về mà mộ người Hán [Việt] ngụ ở Chân Lạp lập làm ba đội Tráng ngự, Cường ngự và Uy ngự đều cho tùy nơi đóng giữ. Vua theo lời. Chiếu dụ vua nước Chân Lạp rằng: “Nay nước Phiên yên tĩnh, không cần để quân lại nữa, nếu có sự cần kíp sẽ phát quân cũng chưa muộn”.

Vua cùng bọn Phạm Như Đăng, Phạm Đăng Hưng bàn về những người tiết nghĩa xưa nay. Như Đăng thưa rằng: “Người giữ tiết nghĩa đời nào chẳng có? Do người trên bồi dưỡng cho đấy thôi. Bản triều như Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, tiết nghĩa đáng kính, người xưa cũng không hơn được!”. Vua cho là phải.

Lấy Tri huyện Trần Trọng Huyên làm trợ giáo Hoài Đức.

Lạc Hoàn vào cống.

Bỏ lệ thuế các mỏ vàng, diêm tiêu, lưu hoàng ở Hưng Hóa và Tuyên Quang. (Mỏ vàng động Hương Sơn trấn Hưng  Hóa lệ nộp thuế vàng 1 lạng 5 đồng cân; mỏ diêm tiêu Bản Vĩnh lệ nộp thuế diêm tiêu 100 cân; mỏ lưu hoàng An Phú lệ nộp thuế lưu hoàng 100  cân. Năm nay các mỏ không có người khai lấy, quan Bắc Thành tâu cho miễn thuế).

Quản đạo Kiên Giang là Trương Phước Giáo và quản đồn Uy viễn là Nguyễn Văn Tồn vào chầu, vua cho mỗi người 10 lạng vàng, 30 lạng bạc và 200 quan tiền, áo thường 3 cặp, mũ áo một bộ.

Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, tế hạ hưởng.

Huỳnh Viết Toản vì tang vợ, xin nghỉ việc trấn. Vua cho. Lấy Phó đô thống chế Tả dinh quân Thần sách Trịnh Ngọc Trí quyền lãnh Trấn thủ Nghệ An.

Thượng thư Hình bộ là Nguyễn Tử Châu chết; tặng Tham chính, cấp 3 người mộ phu.

Tham hiệp Hà Tiên là Dương Văn Châu cùng Hiệp trấn Nguyễn Đức Hội vốn có hiềm khích với nhau. Từ khi Trấn thủ Nguyễn Văn Thiện chết rồi, hai người chuyên coi việc trấn. Hội hay mưu lợi, sai riêng người đi Chân Lạp. Châu biết được việc, bèn họp các viên biền thuộc trấn bắt giữ những người chứng để tra hỏi. Hội bảo kêu ở Gia Định, Châu đón chặn đường, lại họp quân dân vây dinh thự của Hội. Hội cũng hịch cho quân tự vệ. Cả trấn rối động. Trấn thần bắt trói cả hai người, đem việc hặc tâu lên. Hạ lệnh cho Nguyễn Văn Thoại quyền lãnh việc trấn. Khi án tâu lên, Châu bị tội trảm quyết, Hội bị tội trảm giam hậu, các viên biền thuộc trấn a tòng đều bị xử trượng và đồ.

Vua thấy thóc tô ở Quảng Ngãi và Bình Hòa thu vào không có mấy, hạ lệnh cho Quảng Nam chuyển thóc sang Quảng Ngãi 75.000 hộc, Bình Định chuyển thóc sang Bình Hòa 50.000 hộc để chứa.

Sai cho Cai bạ Quảng Đức là Lý Gia Du giám đốc cục Đúc tiền ở Bắc Thành và các mỏ đồng kẽm. Dụ rằng: “Quyền lợi của triều đình quan hệ vào đấy rất lớn. Ngươi quen tính toán, hãy vì trẫm trù tính. Nếu có bày tỏ việc gì thì do thành thần chuyển tâu”. Gia Du đến nơi dâng sớ nói: “Nhà Lê trước đặt cục đúc tiền ba sở, đúc luôn không nghỉ, thế nên đồng tiền thừa thãi. Từ khi ngụy Tây đúc không đúng phép, tiền ngày càng ít, thóc gạo rẻ mà dân nhiều người đói, vải lụa rẻ mà dân nhiều người rét. Nay nhà vua sáng suốt, mở cục đúc tiền, cho kẻ nào có đồng kẽm đều được tự mình đúc lấy. Nhưng những người đúc tiền, kẻ có của thì ít mà kẻ tay không thì nhiều; việc mua đồng kẽm thì kẻ có của phần nhiều mua được giá rẻ, người tay không vẫn chịu giá đắt. Lại việc đem tiền mới đổi tiền cũ, trong khi phát ra thu vào, bọn nha lại nhân đó yêu sách. Người ta không dám đúc, vì những cớ ấy. Vậy xin phàm mua đồng thiếc thì nhà nước định giá cho để giá hàng không đến nỗi chênh lệch. Khi đã đúc thành tiền thì đều được thông dụng. Như thế thì người ta tranh nhau mà đúc, tiền ngày càng nhiều”.

Vua theo lời. Sai đặt thêm cục đúc tiền, sắc cho dân ai có đồng kẽm đem nộp cho nhà nước thì cấp cho giá tiền. Mua bán riêng với nhau thì đều cấm. (Khối đồng đỏ 100 cân giá tiền 35 quan; khối kẽm 100 cân giá tiền 30 quan; khối chì 100 cân giá tiền 11 quan 5 tiền; khối thiếc 100 cân giá tiền 24 quan. Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hưng Hóa là những nơi sản xuất đồng, chì, thiếc, cho nhân dân do đường thủy đường bộ thông hành đổi  chác. Phàm chở bán cho nhà nước thì qua cửa quan bến đò được miễn thuế. Nếu ai dám mua bán riêng với nhau, thì tang vật sung vào nhà nước và lại phải tội. Người tố cáo đúng thực thì lấy một nửa làm của công, một nửa để thưởng. Những đồ đạc bằng đồng, thau, chì, thiếc và đồng nát không ở lệ cấm).

Ngày Kỷ mùi, dựng điện Trung Hòa.

Cấp tiền lương tháng cho lính mộ ở các đội Hữu thuận, Kiên uy, Võ lược, Thiện võ, Định uy ở Bắc Thành.

Dời phủ lỵ Hạ Hồng (trước ở Tứ Kỳ) trấn Hải Dương đến Vĩnh Lại.

Tháng 5, ngày Mậu dần, sửa lại điện Cần Chánh.

Thành thần Gia Định tâu nói tiền thóc và sản vật ở trong thành và ở 4 trấn 2 đạo từ năm Mậu ngọ đến năm Giáp tý trước đã kiểm tra rồi, nay xin sai quan xét thực số từ năm ất sửu tới nay mà kê tra. Vua nghe lời tâu.

Hạ lệnh cho hai trấn Thanh Nghệ hằng năm đến tháng giêng đem 2.500 người thuộc năm dinh quân Thần sách đi thú Bắc Thành, mỗi năm thay đổi một lần.

Lại tha thuế nguồn năm nay cho Quảng Ngãi. Vua cho rằng bọn ác Man làm trở ngại, dân trong nguồn chưa giao thông buôn bán được, nên lại tha thuế cho.

Đặng Trần Thường và Nguyễn Gia Cát có tội, đều bị bỏ ngục. Trước đây Thanh Nghệ và Bắc Thành tâu sự tích bách thần. Vua sai Gia Cát bàn tâu. Gia Cát ủy cho Thiêm sự Võ Quý Dĩnh chủ trương việc ấy và sai con là Nguyễn Dục, em vợ là Cống sĩ Tô Văn Dâu ngầm giúp đỡ. Quý Dĩnh làm sắc giả, phong cho ông cha và bố mẹ vợ mình làm Phước thần. Bọn Dục cũng dựa nhau làm gian, khiến điển thờ đảo lộn nhầm lẫn rất nhiều. Đến nay thành thần hạch tâu hơn 560 đạo sắc. Vua sai đình thần tra xét. Bọn Quý Dĩnh đều xin phục tội. Lại có tướng Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc năm Giáp ngọ vào lấn phương Nam, khi về bị chết đường, người Trịnh phong làm Phước thần. Trần Thường trước ở thành tào giấu việc ấy đi, liệt lẫn vào điển thờ, Gia Cát theo mà gia tặng là “Thanh danh văn võ thánh thần đại vương”. Đến khi việc phát, Trần Thường sợ hãi, xin chịu tội. Vua nói: “Đăng trật cho bách thần là điển lễ lớn ở buổi đầu của nhà nước. Bọn ngươi làm gian trá, dối người khinh thần, không tội nào lớn bằng. Vả cuộc biến loạn năm Giáp ngọ Hoàng Ngũ Phúc chính là thủ ác, nay lại cất lên mà cho là thần, thế chẳng phải là bán tước sao? Việc ấy còn nỡ làm thì việc gì lại chẳng nỡ!”. Giao xuống Hình bộ nghị tội. Phạm Như Đăng cho là tội Trần Thường nên cách chức, tội Gia Cát nên xử tử. Lê Bá Phẩm cho rằng Trần Thường và Gia Cát tội cũng như nhau, cùng tội mà phạt khác, thì không đúng hình, đều xử tội chết. Nghị ấy tâu lên, vua sai đình thần xét lại. Nguyễn Văn Thành nói dầu rằng Trần Thường, Gia Cát vẫn là có tội, nhưng lấy công chuẩn lỗi thì còn có bát nghị; bọn Lê Quang Định, Nguyễn Đức Huyên, Nguyễn Hữu Thận đều chủ trương theo lời nghị ấy; bọn Trịnh Hoài Đức, Trần Văn Trạc lại theo lời nghị của Như Đăng. Bàn mãi không quyết định được. Khi tâu lên, vua nói: “Bá Phẩm nói phải”. Vua theo lời Phẩm mà phạt Văn Thành. Quý Dĩnh bị tội trảm; Trần Thường và Gia Cát đều giam hậu; bọn Dục bị tội đồ, những người khác đều giáng và phạt khác nhau. Tham quân Lê Chấn cũng vì nhận riêng một đạo thần sắc phần hoàng bị giáng làm điển quân. Nhân đó hạ chiếu thu lại thần sắc, rồi sai quan Lễ bộ bàn lại việc phong tặng.

Định lệ lương bổng cho thủy quân: Chưởng cơ coi như Vệ úy quân Thị trung, Quản cơ coi như Phó vệ úy quân Thần sách. Còn từ cai cơ, cai đội trở xuống, cũng cùng lệ với quân Thần sách.

Tha giảm tô thuế cho những ruộng bị hại ở các trấn Bắc Thành. Số thóc thiếu từ năm Canh ngọ, cũng cho dân lấy tiền nộp thay (một hộc giá là 9 tiền). Thành thần lại xin lấy bọn tù tội đồ đắp đường cái để đỡ nhọc cho dân. Vua y cho.

Tháng 6, đắp thành đất Quảng Bình, sai Phó tướng Trần Quang Thái đốc suất các quân ứng dịch.

Lấy Lê Đức Tần làm Cai bạ Quảng Đức, Thiêm sự Công bộ Nguyễn Văn Thịnh làm Ký lục.

Lấy Cai cơ ở đồn Uy viễn là Tót làm án phủ hai phủ Trà Vinh, Mân Thít.

Vua cùng Phạm Như Đăng bàn về việc các đế vương đời xưa truy tôn thụy hiệu cho ông cha. Như Đăng thưa rằng: “Những đế vương thời xưa khi vẻ vang có thiên hạ, ai là chẳng truy tôn ông cha, như nhà Hán truy tôn đế hiệu bốn thân, nhà Tống truy tôn thụy hiệu bốn đời. Chính vì công đức cao dày không thể quên được”.

Trấn thủ Phước Yên là Lê Văn Vạn, Cai bạ là Lê Công Bật, Ký lục là Nguyễn Văn Thục mắc tội tham tang, bị miễn chức. Cho Chưởng cơ Nguyễn Văn Huyên, Thượng bảo khanh Trần Đình Trưng và Thiêm sự Lễ bộ Vũ Doãn Thiếp thay.

Bàn soạn sách Quốc triều thực lục. Triệu Thị trung học sĩ là Phạm Thích, Đốc học Sơn Nam thượng là Nguyễn Đường, Đốc học Hoài Đức là Trần Toản về Kinh, sung chức biên tu ở Sử cục. Lại thấy Lê Duy Thanh là người Duyên Hà có văn học, cùng triệu về Kinh, rồi cho chức Đông các học sĩ.

Xuống chiếu tìm điển tích. Chiếu rằng: “Đạo dựng nước, phải có phép thường; mà cách sửa trị, nên tìm điển cũ. Nước Việt ta, các đời Đinh Lý Trần Lê nối nhau, chính trị có điều theo điều đổi, trong khoảng ấy điển chương pháp độ, há không có điều gì đáng thuật sao? Các vua thánh ta mở mang xây dựng, hơn hai trăm năm làm sáng tỏ mưu xưa và vâng theo nghiệp trước, đều có phép sẵn. Mới đây từ khi giặc Tây Sơn lấn cướp, sách vở tan tác mất cả. Tuy sau binh biến, kho sách không còn bằng chứng, nhưng những nhà học giả uẩn súc, chắc còn ghi chép. Nay đất nước đã thống nhất, cần phải tìm xét rộng rãi. Phàm dân chúng các ngươi như có điển xưa việc cũ, hoặc do ở kho nhà nước còn để lại, hoặc được ở nhà riêng ghi chép, hết thảy điển chương điều lệ, cho phép do quan địa phương sở tại dâng lên. Nếu có điều gì quan hệ đến chính thể, trẫm sẽ tự xét chọn, đều có nêu thưởng”.

Lại chiếu cho các dinh trấn từ Quảng Bình về Nam rằng: “Nay soạn Quốc triều thực lục, phàm sự tích cũ cần phải tìm xét rộng rãi để sẵn mà tham khảo. Từ khi giặc Tây Sơn nổi loạn, người Trịnh xâm lấn, trẫm chính mình mưu toan khôi phục, búa cờ vất vả hơn ba chục năm, siêng năng lo lắng không phải một ngày, xếp đặt làm ra không phải một việc. Trong khoảng đó, việc binh tình giặc, một người không thể ghi hết. Tưởng ở chốn đồng quê các nhà quan cũ và các cụ già, những điều ghi chép được, những điều thấy nghe được, hẳn có điều đáng dùng. Vậy đặc chiếu cho các sĩ dân, từ năm Quý tỵ trở về sau, năm Nhâm tuất trở về trước, phàm những việc quan hệ đến việc nước, ai hay biên chép thành quyển cho đưa đến nộp quan sở tại; các cụ già ai hay ghi nhớ việc cũ, thì quan sở tại mời đến hỏi, ghi chép chuyển tâu. Lời nói nào có thể ghi vào sử được sẽ có thưởng. Thảng hoặc có can phạm kỵ húy cũng không bắt tội.

Bàn soạn sử nhà Lê.

Chiếu cho các trấn ở Bắc Thành có ai thu chép được sự tích nhà Lê cũ và sự tích giặc Tây Sơn thì đem sách dâng. Từ đấy những sách cất ở nhà dân dần dần đem ra.

Bắt đầu định chương trình xét công các phủ huyện. Vua thấy tri phủ tri huyện là chức gần dân, nên phân biệt người hay hay người dở để định việc cất nhắc truất bỏ khiến biết khuyên răn, bèn định ba năm một lần khảo, hai lần khảo làm một khóa, bắt đầu từ năm Mậu thìn Gia Long thứ 7. Quan trên các địa phương kê suốt trong ba năm các phủ huyện án kiện đã xét hết

được tình lý là bực thượng khảo, được 8, 9 phần 10 cũng là thượng khảo, được 6, 7 phần là trung khảo, được một nửa sai một nửa là hạ khảo, được ít sai nhiều và được tuy nhiều mà khép tội sai một án mạng nào, thì đều là hạng cuối, phân biệt tâu rõ cả để đợi chỉ. Từ năm Tân mùi này trở về sau, cứ đến cuối năm phải liệt kê án đã xử đoạn để sẵn đến ba năm xét công. Duy có người chính sự giỏi đặc biệt thì đem tên tâu lên ngay, không câu nệ niên khóa.

Truy tặng Phó tướng Tả quân Phạm Văn Sĩ làm Tả quân thự phủ sự, Tham tán Trần Văn Thức làm Chánh thiêm sự, (Sĩ có công Vọng Các, Thức chết vì việc nước).

Sai Quảng Nam dựng kho Hội An, thu 5 vạn hộc thóc tô năm ấy chứa ở đấy.

Bộ Hộ tâu nói: “Trước kia trong hai phủ Thăng Hoa, Điện Bàn thuộc Quảng Nam, một mẫu ruộng công chỉ đánh thuế 8 phần, còn 2 phần, trừ làm nương mạ. Nay tính mẫu mà đánh thuế cả, dân lại viện lệ cũ xin miễn”.

Vua nói: “Vương giả rất công bằng, không riêng tây, gần xa như một. Nay cư dân ở đâu thổ trạch đều có thuế cả, sao chỉ ruộng mạ hai phủ ấy không nộp thuế?”. Không cho.

Từ Bình Thuận đến Bắc Thành lâu không mưa. Sai hoãn thu thóc tô năm nay 2 phần 10.

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển XLIII – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Tân mùi, Gia Long năm thứ 10 [1811], mùa thu, tháng 7 ngày mồng 1, tế thu hưởng.

Lấy Vệ úy vệ Trương võ là Đỗ Thiên Thẩm làm Vệ úy vệ Hùng dũng, Cai cơ Nguyễn Văn Cường làm Phó vệ úy vệ Hậu bảo tam.

Triệu Lê Phước Điến về Kinh; lấy Chưởng cơ Phạm Công Nghĩa hành Vệ úy vệ Uy võ, án thủ đồn Hà Trung.

Hạ lệnh cho Bắc Thành đem thóc thuế vụ đông xay thành gạo hơn 60 vạn phương, đợi sang năm chở về Kinh.

Người Diên Khánh là Mạc Văn Diên dâng sách Hồng Đức luật lệ đời Lê; Tri huyện Thủy Đường là Nhữ Công Quý dâng sách Hoàng Việt thống chí; người Sơn Nam thượng là Hoàng Quý Chi, người Sơn Tây là Cao Văn Tình, người Kinh Bắc là Lê Doãn Khản dâng các sách quan chế và điều luật triều Lê trước. Đều thưởng tiền khác nhau.

Dân Gia Định đi buôn ở Nam Vang, nhiều người mua rẻ sản vật của người Phiên, người Phiên khổ vì họ quấy nhiễu. Vua nghe tin, sai thành thần nghiêm cấm.

Làm xong hai điện Trung Hòa và Cần Chánh, thưởng cho lính và thợ 7.500 quan tiền. Quan thì thưởng tiền bổng hai tháng.

Lấy Hàn lâm viện thừa chỉ Nguyễn Văn Giảng làm Tuyên phủ sứ

Hoài Đức.

Vua cùng bầy tôi bàn về chế độ chia giới hạn tỉnh điền. Dụ rằng: “Đời xưa mỗi người được ruộng 100 mẫu, dùng thước ngày nay mà đo thì 100 mẫu rất rộng, sức một người khai khẩn thế nào hết được! Đó là do thước đời xưa so với thước ngày nay rất ngắn”.

Hiệp trấn Nghệ An là Ngô Nhơn Tĩnh vào chầu. Nhân Tĩnh nhiều lần dâng sớ xin về Kinh để trình bày nỗi đau khổ của dân gian, vua y cho. Nhân Tĩnh đến, nói hết tình trạng điêu hao của dân Nghệ An. Bèn xin hoãn thu số tiền thóc còn thiếu từ năm Nhâm thân trở về trước. Lại cho thuế biệt nạp sản vật như vải trắng, dầu nước, có ai thiếu thì xin cho nộp thay bằng tiền. (Thuế vải mỗi người 2 tấm, thuế dầu, mỗi người 2 cân 3 lạng, đều nộp thay bằng 6 quan tiền). Vua đều theo lời. Hơn một tháng khiến về trấn.

Triệu Trịnh Ngọc Trí về Kinh. Lại lấy Huỳnh Viết Toản làm Trấn thủ Nghệ An.

Sửa lại cửa Tả đoan.

Hoãn đòi lính thiếu cho dân bị thủy tai ở Sơn Nam hạ, Hải Dương và Yên Quảng. Các trấn từ năm Kỷ tỵ gặp thủy tai, hộ khẩu hao hụt nên kén lính thiếu ngạch thường không cấp đủ. Thành thần đem việc tâu lên. Vua sai xét số người bị thủy tai nhiều ít, theo bực mà hoãn cho. (Nguyên lệ kén lính ở Sơn Nam hạ và Hải Dương cứ 7 người đinh thì lấy 1 người; số người chết đuối mất 1, 2 đinh thì hoãn đòi 1 tên lính trong 1 năm; mất 3, 4 đinh thì hoãn 2 năm, mất 5, 6, 7 đinh thì hoãn 3 năm. Nguyên lệ kén lính ở Yên Quảng cứ 10 đinh lấy 1; số chết đuối mất 1, 2, 3 đinh thì hoãn đòi 1 tên lính trong 1 năm; mất 4, 5, 6 đinh thì hoãn 2 năm, mất 7, 8, 9, 10 đinh thì hoãn 3 năm).

Đổi định trình hạn đổi phiên cho các quân ở Bắc Thành. Trước kia các quân chia ban mỗi tháng thay đổi một lần. Kỳ hạn ngắn vội quá, người đều khó chịu. Thành thần xin đổi 2 tháng làm một hạn để nhọc rỗi được đều. Vua y lời tâu.

Tháng 8, Kinh sư bị bão (Giờ mùi nổi, giờ sửu thôi, cộng 7 khắc). Nước lụt lên hơn lúc thường hơn 8 thước; nhiều nhà ở của quan dân sụp đổ. Sai đội Tiểu sai hội đồng với dinh thần Quảng Đức chia đi các huyện xét hỏi sự đau khổ của dân gian để tâu lên. Thuyền vận tải và thuyền buôn bị lật đắm thì cho tiền tuất. Các hạt Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi cũng có nạn bão. Xuống chiếu rằng tiền thóc còn thiếu và binh lính trốn chết đều hoãn đòi một năm; tạp dịch, kiện vặt và việc thổ mộc không gấp đều bãi cả.

Cửa biển Tư Dung vỡ (mở thành cửa lạch rộng: 7 trượng 5 thước, sâu 7thước).

Lê Chất tâu cử Lê Đại Cương theo làm việc ở thành. Cương trước làm Tri huyện Tuy Viễn, vì tham tang phải mất chức, Chất thấy Cương là người có tài làm việc, mới tâu xin. Vua y cho.

Sao chổi hiện ở phương tây.

Vua ra chầu, từng cùng bầy tôi bàn về sự tích vua tôi đời Hán Đường và lễ nhạc chế độ các triều trước. Khi thôi chầu liền sai thị thư đem tiến sách Minh sử để xem đến nửa đêm mới thôi.

Hạ lệnh tuyển bổ các phủ huyện ở Bắc Thành. Tri phủ khuyết thì lấy Tri huyện lâu năm không có lỗi thăng bổ, Tri huyện khuyết thì lấy những hương cống nhà Lê đã từng sung làm việc trường thi bổ vào.

Thuyền Hải Nam của Phan Nguyên Ký đến buôn. Thủ ngự Sa Kỳ là Lâm ấn riêng nhận của lót bảo giấu hàng hóa để mong giảm thuế. Việc phát giác. Vua sai giết. Nhân đó dụ các thủ ngự cửa biển rằng phàm thuyền buôn có giấu bớt đều tịch thu hàng hóa.

Hạ lệnh cho các trấn quan học quan từ Nghệ An trở ra Bắc đều đề cử người mình biết. Chiếu rằng: “Dùng người không phải chỉ một lối, chọn học trò không phải chỉ một đường. Năm trước mở khoa thi Hương, phàm người dự trúng tứ trường đều đã bổ chức Tri huyện. Nhưng nghĩ trong số học trò dự trúng tam trường cũng có người học thuật có thể dùng được. Vậy hạ lệnh cho trấn quan và học quan xét hỏi người nào văn học hơi khá thì ghi tên tâu lên”.

Lấy Quản đạo Kiên Giang là Trương Phước Giáo làm Trấn thủ Hà Tiên, Ký lục Định Tường là Bùi Đức Miên làm Hiệp trấn. Vua thấy Hà Tiên là nơi trọng yếu ngoài biên, hai người đã biết rõ tình hình biên cương cho nên  sai đi. Bọn Giáo đến trấn, chính sự chuộng rộng rãi giản dị, không làm phiền nhiễu, sửa sang trại quân, chiêu dân xiêu dạt, đặt trường học, khẩn ruộng hoang, vạch định phố chợ, ngăn khu cho người Hán [Việt], người Thanh, người Chân Lạp, người Chà Và, khiến tụ họp theo loài, làm cho Hà Tiên lại trở thành một nơi đô hội ở Nam thùy vậy.

Lấy Trần Quang Tĩnh làm Ký lục Định Tường.

Vua nghĩ muốn cất nhắc những người bị chìm đọng, sai các Tham tri ở Bắc Thành xét hỏi dân gian có người học rộng nết tốt thì tâu lên.

Lấy con trai của Thị giảng Lê Cao Kỷ là Lê Cao Cơ sung Hàn lâm viện. Cao Kỷ trước làm Thị giảng cho Hưng tổ, Trương Phước Loan ghét mà giết đi. Năm Gia Long thứ 8 lục dụng con là Cao Cơ sai chầu chực ở cung Trường Thọ, đến nay đặc cách cho chức này.

Truy tặng Tham mưu Trung dinh là Đào Duy Mẫn làm Khâm sai tham tán.

Tháng 9, ngày Bính tuất, Hoàng thái hậu se mình. Trước đây sao chổi xuất hiện, người hầu đem tâu, Hoàng thái hậu buồn rầu không vui, một đêm lẻn ra xem, rồi vào bảo người hầu rằng: “Sao chổi chính ứng điềm vào thân già này”. Đến nay se mình. Vua sớm chiều đến chầu ở cung Trường Thọ, sai hoàng tử hoàng tôn vào hầu. Các quan văn võ đều họp ở công thự bên hữu.

Ngày Kỷ sửu, Hoàng thái hậu băng, thọ 74 tuổi. Vua thương khóc không thôi. Triệu các quan vào bên để bàn việc tang. Các quan xin từ tam phẩm trở lên đều để tang một năm. Vua dụ rằng: “Nhà vua lấy Tôn Miếu Xã Tắc làm trọng. Nay trẫm đã để tang 3 năm, các ngươi lại để tang 1 năm, nếu trong một năm có việc ở Tôn Miếu Xã Tắc thì làm lễ thế nào? Vậy cho để tang 3 tháng”. Các quan lại ngờ về tang phục của công chúa để tang. Vua nói: “Thánh nhân đặt lễ phân biệt từng ly từng tý. Lòng kính không thể thích hợp cả đôi đường, tang phục không thể trọng cả hai bên. Cho nên một người con gái, khi ở nhà thì lấy nhà cha làm tôn, khi lấy chồng thì lấy nhà chồng làm trọng. Nghĩa đã có phân biệt, tang sao lại như nhau được. Vậy nghị cho hoàng nữ đã đi lấy chồng thì kém hoàng nữ còn ở nhà một bậc”. Bộ Lễ lại xin định hạn cấm việc giá thú. Vua nói: “Thần dân nên theo thứ tự mà tỉnh giảm để lấy vợ lấy chồng được kịp thời”. Thế là sự bàn đã định.

Ngày Đinh dậu, làm lễ thành phục (Vua để tang 3 năm; hoàng hậu tang 3 năm; phi tần, hoàng tử và công chúa chưa đi lấy chồng đều tang 1 năm; trưởng công chúa và công chúa đã đi lấy chồng tang 9 tháng. Người tôn thân ở năm bậc tang đều để tang theo như lễ; người thân ở bậc trần cánh tay và bỏ mũ thì dùng khăn vải trắng; quan văn võ từ chánh tam phẩm trở lên, tang mặc áo vén gấu 3 tháng, từ tòng tam phẩm trở xuống, ai dự vào việc tang thì dùng vải trắng; quan ngoài thì miễn áo tang, duy ai về Kinh thì mang áo tang cũng như quan Kinh; quan thuộc cung Trường Thọ thì chánh tam phẩm trở lên mặc áo vén gấu 5 tháng; mệnh phụ đều để tang như chồng; quan viên từ tam phẩm trở lên cấm cưới vợ gả chồng 3 tháng, tứ phẩm trở xuống thì 1 tháng, quân dân 15 ngày;  cấm dùng màu hồng màu tía 1 năm; cấm hát xướng 3 tháng. Quan viên vào chầu hầu, trong 3 năm đều không được mặc áo màu đỏ màu tía; phàm gặp việc thờ cúng hay việc quân đều cho mặc áo thường mà làm việc; các thành dinh trấn trong 3 tháng, ngày mồng một và ngày rằm đều được miễn bái  chầu).

Chiếu dụ trong ngoài rằng: “Giờ tuất ngày 14 tháng này, Hoàng thái hậu thăng hà, trẫm thương xót đau lòng, kính cẩn ở trong cung để tang ba năm, nhất thiết theo lễ chế. Phục chế và hạ cấm đối với quan viên trong ngoài và quân dân đều theo nghị định mà làm”.

Trước kia vua thờ Hoàng thái hậu rất kính cẩn, khi muôn việc đã rồi thì xem bữa ăn, thăm sức khỏe, lễ thường không thiếu. Đến khi thái hậu băng, vua cư tang, lòng rất đau thương. Từ đấy buổi chầu buổi hội đều miễn, ngày thường chỉ ngự ở tiện điện để nghe chính sự.

Bãi kho Nông Giang ở Hải Dương. Trước đây Hải Dương lập riêng kho chứa ở đồn thủy Nông Giang để thu tiền thóc của dân các huyện. Đến nay dòng sông nông cạn, vận tải không tiện, thành thần xin cho các huyện lại nộp ở trấn. Vua y cho.

Thổ tù Mộc Châu trấn Hưng Hóa là Xa Văn Tiên và thổ tù châu Trình Cụ trấn Thanh Hoa là Phạm Phì Nam tranh nhau đất hai động Cẩm Nang và Mộc Thượng. Vua sai quan Bắc Thành phái người hội đồng với trấn thần Thanh Hoa để xét hỏi. Phì Nam thác bệnh không đến. Việc bèn thôi.

Cai đội Thanh Hoa là Trần Văn Thịnh đến Kinh l