Thực lục về Hiển tông Hiếu minh hoàng đế Nguyễn Phúc Chu (thượng)

Hiển tông Anh Mô Hùng Lược Thánh Văn Tuyên Đạt Khoan Từ Nhân Thứ Hiếu Minh Hoàng đế, húy là Chu 淍, sinh năm ất mão [1675] (Lê Đức Nguyên năm 2, Thanh Khang Hy năm 14), là con cả của Anh tông Hiếu nghĩa hoàng đế, mẹ là Hiếu nghĩa hoàng hậu Tống thị.

Trước kia, năm Giáp dần, mùa thu, ở phương Tây Nam trên trời mở ra một lỗ, có mây sắc vận quanh, ở giữa một luồng ánh sáng rực trời tỏa ngay vào chỗ nhà mẫu hậu ở, người thức giả cho là điềm thánh. Năm sau chúa đúng kỳ giáng sinh, mùi thơm nức nhà. Lớn lên học chăm chữ tốt, đủ tài lược văn võ. Đầu được phong Tả bính dinh phó tướng Tô Trường hầu, làm phủ đệ ở cơ Tả bính. Năm Tân mùi, mùa xuân, tháng giêng, ngày Bính thân, Anh tông Hiếu nghĩa hoàng đế băng. Bầy tôi vâng di mệnh tôn chúa làm Tiết chế thủy bộ  chư dinh kiêm tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự thái bảo Tộ quận công. Bấy giờ 17 tuổi, hiệu là Thiên túng đạo nhân 天縱道人. Chúa nối ngôi, vọng bái đài Kính thiên. Ngày hôm ấy trời trong mây sáng, người ta đều cho là cảnh tượng thái bình.

Tháng 3, phong các vị linh thần trong cõi.

Miễn nửa thuế ruộng năm ấy.

Thăng Trấn phủ dinh Quảng Nam là Nguyễn Đức Bảo 阮德寶 làm Tả quân đô đốc phủ tả đô đốc chưởng phủ sự Tiến quận công, thăng Trấn thủ dinh Bố Chính là Chưởng dinh Bình Lộc 平祿 làm Trấn phủ, thăng Chưởng cơ Tài Trí 才智 làm Chưởng dinh, Cai cơ Tôn Thất Nhuận 尊室潤 (con Tôn Thất Hiệp 尊室協) làm Chưởng cơ. Những văn võ quan viên khác đều được thăng trật theo thứ bực.

Ban cho Nguyễn Đức Bảo một quả ấn đồng và một cỗ kiệu đen để nêu thưởng nguyên huân. Bề tôi phụ trách biên khổn được cho ấn đồng và kiệu đen bắt đầu từ đấy.

Mùa hạ, tháng 4, dựng phủ mới. Hạ lệnh rằng xây dựng cung thất điện vũ, hết thảy đều theo quy chế cũ của Thái Tông, không được làm to lớn lộng lẫy.

Mùa thu, tháng 8, Trấn thủ dinh Quảng Bình là Tống Hữu Thận 宋有慎 chết, lấy Trấn thủ dinh Bố Chính là Bình Lộc thay. Thăng Chưởng dinh Tài Trí làm Trấn thủ dinh Bố Chính, thăng Nội tả chưởng cơ Tống Hữu Thanh 宋有清 làm Chưởng dinh suất lãnh dinh Tả bộ, Cai cơ Tống Phước Tráng 宋福壯 làm Nội tả cai cơ, Nguyễn Hữu Oai 阮有威 (con Nguyễn Hữu Tiến 阮有進) làm Chưởng cơ phò mã, cho Cai cơ Tín Đức 信德 (không rõ họ) suất lãnh cơ Tả  trung, Cai cơ Khâm Minh 欽明 (không rõ họ) suất lãnh cơ Hữu Trung, khôi phục cho Nguyễn Hữu Hào 阮有豪 làm Cai cơ, suất lãnh cơ Hữu Súng.

Tháng 8 nhuận, mưa to nước lụt.

Chúa mới giữ chính quyền, chiêu hiền đãi sĩ, cầu lời nói hay, nạp lời can gián, bỏ xa hoa, bớt chi phí, nhẹ thuế mà giao dịch, bớt việc hình ngục, trăm họ không ai không vui mừng.

Nhâm thân, năm thứ 1 [1692] (Lê Chính Hòa năm 13, Thanh Khang Hy năm 31), mùa xuân, tháng giêng, sửa Văn miếu. Chúa từng ra Triều Sơn xem miếu, muốn mở rộng thêm nên sai sửa lại.

Sửa chùa núi Mỹ Am 美庵山 (tức núi Thúy Vân 翠雲山 ngày nay).

Sai các quan làm duyệt tuyển nhỏ.

Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, có nhật thực.

Lấy Chưởng cơ Nguyễn Hữu Oai làm Trấn thủ dinh Bình Khang.

Mùa thu, tháng 8, vua nước Chiêm Thành 占城國王 là Bà Tranh 婆爭 làm phản, họp quân đắp lũy, cướp giết cư dân ở phủ Diên Ninh 延寧. Dinh Bình Khang 平康 đem việc báo lên. Chúa sai Cai cơ 該奇 Nguyễn Hữu Kính 阮有鏡 [Nguyễn Hữu Cảnh] (con Nguyễn Hữu Dật 阮有鎰 bấy giờ gọi là Lễ tài hầu 禮才侯; chữ Tài, có chỗ viết là Thành 成, lại là Hòa 和) làm Thống binh 統兵, lấy văn chức Nguyễn Đình Quang 阮廷光 làm Tham mưu suất lãnh quân Chính dinh 正營兵, cùng quân Quảng Nam 廣南 và Bình Khang đi đánh.

Mùa đông, tháng 12, lấy Lê Hoành Giảng 黎宏講 và Nguyễn Khoa Chiêm 阮科占 làm thủ hợp Chính dinh.

Quý dậu, năm thứ 2 [1693], mùa xuân, tháng giêng, bọn Thống binh Nguyễn Hữu Kính đánh bại Chiêm Thành, Bà Tranh bỏ thành chạy.

Tháng 3, Nguyễn Hữu Kính bắt được Bà Tranh và bầy tôi là Tả trà viên 左茶員 Kế Bà Tử 繼婆子 với thân thuộc là Nương mi 娘楣 Bà Ân 婆恩 đem về. Chúa sai đổi nước ấy làm trấn Thuận Thành 順成鎮.

Ngày ất mão, chúa coi việc chầu (việc quốc hiếu đã xong rồi làm lễ mừng), bầy tôi đến mừng, tấn tôn chúa làm Thái phó quốc công 太傅國公, lại dâng tôn hiệu là quốc chúa 國主. Từ đấy sắc lệnh đều xưng là quốc chúa.

Gia phong các linh thần trong cõi.

Mùa hạ, tháng 4, ngày Canh thìn, mây ngũ sắc  hiện ở phía tây nam như cái lọng xòe.

Tháng 5, đào kênh Trung Đan.

Mùa thu, tháng 7, Nguyễn Hữu Kính đến cửa khuyết dâng chiến tù Chiêm là bọn Bà Tranh. Chúa sai kể tội và giam ở núi Ngọc Trản 玉盞山, hàng tháng cấp cho tiền gạo vải lụa đủ dùng.

Sai Cai đội Nguyễn Trí Thắng 阮智勝 giữ Phố Hài 庯諧, Cai cơ Nguyễn Tân Lễ 阮新禮 giữ Phan Rí 潘里, Cai đội Chu Kiêm Thắng 朱兼勝 giữ Phan Rang 潘郎 (Phố Hài, Phan Rí, Phan Rang, nay đều thuộc Bình Thuận) để phòng dư đảng của Thuận Thành.

Sai sửa công phủ, những điếm quân ở các cửa trong ngoài phủ bắt đầu lợp ngói.

Tháng 8, đổi trấn Thuận Thành làm phủ Bình Thuận 平順府, lấy Tả trà viên Kế Bà Tử 左茶員繼婆子 làm Khám lý, ba người con của Bà Ân 婆恩 cho làm Đề đốc, Đề lãnh và Cai phủ, bắt mặc quần áo theo lối người kinh 漢風 [Hán phong] và sai về để vỗ yên lòng dân.

Mùa đông, tháng 10, ngày Đinh sửu, hai mặt trời cùng mọc.

Tháng 12, người Thanh 清任 là A Ban 阿班 cùng với Hữu trà viên 右茶員 là ốc nha Thát 屋牙撻 ở Thuận Thành nổi loạn.

Trước là A Ban đến ở Thuận Thành, vốn cùng ốc nha Thát đi lại rất thân. Từ lúc Bà Tranh bị bắt, hai người đều chạy về đất Đại Đồng, A Ban đổi tên là Ngô Lãng 吳朗 tự xưng mình có phép hô phong hoán vũ, gươm đao không thể làm bị thương. Người Thuận Thành là Chế Vinh 制榮 kêu họp dân man đi theo. Đến bấy giờ đem đồ đảng cướp Phố Hài. Cai đội Nguyễn Trí Thắng đem quân chống đánh. A Ban giả đò thua, Trí Thắng đuổi theo bị phục binh giết chết. Cai đội dinh Bà Rịa 婆地營 [Bà Địa dinh] tên là Dực 翊 và thư ký là Mai 枚 (không rõ họ) đem quân đến cứu viện, đều chết cả. A Ban bèn vào Phan Rí, lo rằng cai cơ Nguyễn Tân Lễ sức mạnh, mình không chống nổi, bèn sai cô gái dân Thuận Thành bỏ thuốc độc vào quả chuối 芭蕉 [ba tiêu] cho Tân Lễ ăn. Tân Lễ bị câm. A Ban lại tung nhiều tiền bạc để ngầm kết với quân Tân Lễ làm nội ứng. Đến khi đánh, Tân Lễ bị bọn phản binh đâm chết, dinh trại của cải bị đốt và cướp gần hết. A Ban lại kéo quân đến Phan Rang. Cai đội Chu Kiêm Thắng vì quân ít không ra, đóng cửa thành tự thủ. Gặp Khám lý Kế Bà Tử vừa đến, Kiêm Thắng bắt trói ở ngoài cửa thành bảo sẽ đem chém. Ốc nha Thát sợ [Kế Bà Tử] bị giết, nói với A Ban bỏ vây đi. Kiêm Thắng bèn thả Kế Bà Tử về.

Giáp tuất, năm thứ 3 [1694], mùa xuân, tháng giêng, Chưởng cơ là Huệ 惠 và Thông 聰 (con thứ ba, thứ tư của thiếu sư Tôn Thất Diễn 尊室演) mưu nổi loạn. Chưởng cơ Tôn Thất Nhuận 尊室潤 cùng tiểu sai là Đức Nhân 德仁 (không rõ họ) đem sự trạng báo lên. Kíp bắt giao xuống triều đình tra hỏi, biết hết sự thực. Huệ và Thông cùng 7 người đồng mưu đều bị giết. Thưởng cho Tôn Thất Nhuận và Đức Nhân thực ấp, tiền bạc, thực phẩm, theo thứ bực.

Truy cấp tự điền và tự dân cho Tiết chế Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật. (Hữu Tiến tự điền 19 mẫu ở 2 xã Bồ Đề và Tùng Châu, tự dân 100 người ở xã Nghĩa An ; Hữu Dật tự điền 3 mẫu ở xã Vinh Quang, tự dân 100 người ở xã Bao La).

Bà Tranh chết, cho 200, quan tiền và gấm vóc để hậu táng.

A Ban lại vây Phan Rang. Cai đội Chu Kiêm Thắng báo tin gấp về dinh Bình Khang. Trấn thủ Nguyễn Hữu Oai và Lưu thủ Nhuận 潤 (không rõ họ) tiến binh theo thượng đạo để cứu viện. A Ban bèn lui về Bào Lạc 泡落. Phan Rang được giải vây. Rồi Hữu Oai bị bệnh chết.

Tháng 2, A Ban tiến giữ lũy Ô Liêm 烏鎌. Lưu thủ Nhuận và các cai cơ Tống Tuân và Nguyễn Thành chia quân giáp đánh. A Ban chạy về Phố Châm. Quân ta đuổi theo sát. Giặc lại chạy về Thượng Dã 上野 (tiếp địa giới Chân Lạp). Nhuận bèn về, đem việc báo lên. Chúa lại ra lệnh cho Cai cơ Nguyễn Hữu Kính, và văn chức Trinh Tường 禎祥 (không rõ họ) tiện nghi xử trí. Cai cơ Nguyễn Thắng Hổ 阮勝虎 đem quân tiến đánh, đảng giặc dẹp yên.

Thăng Nguyễn Hữu Kính làm Chưởng cơ, lãnh Trấn thủ dinh Bình Khang.

Sai quan làm duyệt tuyển lớn. Thi nhiêu học, lấy được 133 người trúng cách về chính đồ, 92 người trúng cách về hoa văn.

Thao diễn trận voi. Sai các cơ chia phiên theo diễn trận pháp, mỗi ngày một lượt, thưởng tiền theo thứ bực.

Mùa hạ, tháng 6, ngày mồng 1, có nhật thực.

Mùa thu, tháng 7, đặt yến cho quần thần ở phủ đường, ban cho vàng lụa theo thứ bực.

Trần phủ Quảng Nam là Tả đô đốc Nguyễn Đức Bảo chết. Đức Bảo giúp đỡ các triều, vốn có trọng vọng, nay chết, chúa rất thương tiếc, tặng Tá lý công thần đặc tiến trụ quốc thượng tướng quân Cẩm y vệ khai phủ chưởng phủ sự thiếu bảo, thụy là Thận cần. Cho bạc lụa gấm vóc để hậu táng.

Tháng 8, lại cho phủ Bình Thuận trở lại làm trấn Thuận Thành. Bấy giờ Khám lý Kế Bà Tử trình bày rằng : Từ khi vị hiệu đời trước cải cách đến giờ xảy ra nạn đói kém luôn, nhân dân chết về tật dịch rất nhiều. Chúa thương tình, bèn cho trở lại gọi là Thuận Thành trấn, vẫn cho Kế Bà Tử là Tả đô đốc để thống trị.

Ngày Quý mão, nguồn Thạch Hãn lụt, nước đỏ 3 ngày mới trong.

Ngày Mậu thân, mưa to sấm dữ, mái ngói ở phủ chính tốc hết, 3 cái cột ở góc nhà bên hữu đều gẫy. Huyện Quảng Điền (1. Thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế.) núi lở năm chỗ.

Tháng 9, sai văn chức kiểm xét số dân đinh hạng cùng hạng đào lậu tịch xứ Quảng Nam, và số tiền công ẩn lậu ở các nha phủ huyện.

Mùa đông, tháng 10, dựng thêm ở trong phủ ba tòa hành lang mỗi tòa 50 gian, sai dân các huyện xứ Thuận Hóa lấy gỗ tốt về làm.

Tháng 11, phong Kế Bà Tử làm phiên vương 藩王 trấn Thuận Thành 順城鎮, cho vỗ về chiêu tập quân dân, hằng năm nộp cống. (Lệ cống : voi đực 2 thớt, bò vàng 20 con, ngà voi 6 cái, sừng tê 10 tòa, khăn vải trắng 500 bức, sáp ong 50 cân, da cá 魚皮 200 tấm (2. Da cá nhám để nấu làm đồ ăn.), cát sủi (3. Cát sủi : Chữ là phị sa 沸沙, một thứ cát có chứa chất xút, bỏ vào nước thì sôi lên, người ta dùng để gội đầu.) 400 thúng, chiếu tre trắng 500 lá, gỗ mun 200 cây, thuyền dài 1 chiếc). Phàm những ấn, gươm, yên, ngựa và những người trước đây bị lấy bị bắt đều được trả về hết.

ất hợi, năm thứ 4 [1695], mùa xuân, tháng giêng. Từ mồng 1 đến ngày 11 không mưa, sai quan cầu đảo, qua 2 ngày thì mưa.

Tháng 3, ngày mồng 1, có nhật thực.

Mở khoa thi lấy 5 người trúng cách về chính đồ làm giám sinh, 8 người làm sinh đồ, 15 người làm nhiêu học, 22 người trúng cách về hoa văn, 10 người trúng cách về thám phỏng. Giám sinh bổ văn chức và tri huyện, sinh đồ bổ huấn đạo, nhiêu học bổ lễ sinh, hoa văn bổ vào Tướng thần lại ty và Lệnh sử ty, thám phỏng bổ vào Xá sai ty.

Mùa thu, tháng 8, thi văn chức và tam ty ở sân phủ. [Thể lệ] thi văn chức thì kỳ đệ nhất tứ lục, kỳ đệ nhị thơ phú, kỳ đệ tam văn sách. Thi Xá sai ty thì hỏi về số tiền thóc xuất nhập và việc ngục tụng xử quyết trong một năm. Thi hai ty Tướng thần lại và Lệnh sử thì viết một bài thơ. Đình thí 庭試 bắt đầu từ đấy.

Đặt chức từ thừa ở miếu (năm Minh Mệnh thứ 4, đổi dựng chùa Long Phước) phường An Định Nha (thuộc huyện Minh Linh, Quảng Trị). Buổi quốc sơ, các phủ đều dựng miếu để thờ các vị thánh vương trước. Dân ba phường An Định Nha, An Hưởng và Phương Xuân thuộc tổng Bái Ân cảm nhớ công ơn Thái Tổ, dựng miếu thờ ở An Định Nha. Chúa nghe khen tốt, sai quan đem những mũ và áo bào thần ngự bày ở miếu, lại sai đặt chức từ thừa để trông coi, cho bằng son.

Tháng 9, ngày mồng 1, có nhật thực.

Người lái buôn ở Quảng Ngãi tên là Linh 靈 (không rõ họ) tụ đảng hơn 100 người, tự xưng là Linh Vương, tạo chiến thuyền, đúc binh khí, cùng người Quy Ninh 歸寧 là Quảng Phú 廣富 (không rõ họ) hợp đảng, ra vào núi rừng, hoành hành cướp bóc, quan địa phương không dẹp được, nhân dân sợ hãi chạy báo lên. Chúa sai dinh Quảng Nam hợp với hai phủ Quảng Ngãi, Quy Ninh đem quân đi đánh. Khi các đạo quân xông tới sơn trại thì Linh đã chết. Quảng Phú cả sợ, trốn vào Phú Yên, dân Man [Mọi] 蠻民 bắt đem nộp. Chúa sai giết cùng với đồ đảng 20 người, và hậu thưởng dân Man.

Bính tý, năm thứ 5 [1696].

Mùa xuân, tháng 2, ngày mồng 1, có nhật thực.

Tháng 3, dựng trường pháo ở phủ sau. Triệu các quan văn võ cùng các đội trưởng, văn chức và tam ty họp nhau diễn tập, bắn trúng thì được thưởng tiền theo thứ bực, trúng luôn 3 lần thì được thưởng một tấm nhiễu hồng. Từ đấy mỗi năm theo làm lệ thường.

Ngày Mậu dần, hoàng mẫu là Tống thị (tức Hiếu nghĩa hoàng hậu, con gái thiếu phó Tống Phước Vinh) băng, thọ 44 tuổi, truy tôn là Quốc Thái phu nhân, táng ở xã Đinh Môn (thuộc huyện Hương Trà, tức là lăng Vĩnh Mậu).

Mùa đông, tháng 12, ngày Giáp thìn, hoàng tử cả (tức là Túc tông Hiếu Ninh hoàng đế) sinh. Mùi thơm đầy nhà.

Đinh sửu ; năm thứ 6 [1697], mùa xuân, tháng giêng, miễn việc duyệt tuyển nhỏ năm ấy. Theo lệ cũ năm sửu là duyệt tuyển nhỏ, năm mão là duyệt tuyển lớn. Đến đây chúa ra lệnh sang năm là năm Mậu dần làm điển lớn cho nên bỏ [điển nhỏ năm nay].

Thăng Chưởng thái giám Nguyễn Tăng Tri 阮增知 làm Tổng đốc.

Tháng 3, hai nguồn suối Phù Ẩu 浮甌 và Hưng Bình 興𤭸 thuộc huyện Phú Vang có bọn ác man 惡蠻 [Mọi] ở 5 sách là A La 阿羅, A Sáp 阿插, A Lộc 阿祿, A Manh 阿萌 và A Tô Ngụ 阿蘇虞 thường lẻn xuống bắn giết dân buôn, cướp bóc những dân Man nộp thuế. Chúa sai xá sai là Đăng 登 (không rõ họ) lãnh thuộc binh 7 thuyền đi đánh. Bọn Man các sách đều chạy trốn. Hai sách A La và A Sát xin hàng và cùng nộp thuế má. Chúa sai Đặng nhận cho hàng.

Mùa thu, tháng 8, sai quân Chính dinh diễn tập pháo thủ, cho các cai bạ nội tả, nội hữu, ngoại tả, ngoại hữu trông nom.

Bắt đầu đặt phủ Bình Thuận 平順府, lấy đất từ Phan Rang, Phan Rí trở về tây chia làm hai huyện An Phước 安福 và Hòa Đa 和多  (nay là Hòa Đa 禾多 ) cho thuộc vào.

Mậu dần, năm thứ 7 [1698], mùa xuân, tháng giêng, sai quan làm duyệt tuyển lớn.

Trịnh Căn nhà Lê sai tướng là Trịnh Huyên làm Trấn thủ Nghệ An, kiêm trấn châu Bắc Bố Chính.

Tháng 2, sai Cai cơ thủy quân là Nguyễn Hữu Khánh 阮有慶 và Nguyễn Cửu Vạn 阮久萬 giữ các cửa biển.

Bắt đầu đặt phủ Gia Định 嘉定府. Sai Thống suất Nguyễn Hữu Kính kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố 東浦, lấy xứ Đồng Nai 鹿野處 [Lộc Dã xứ] làm huyện Phước Long 福隆 (nay thăng làm phủ), dựng dinh Trấn Biên 鎮邊 (tức Biên Hòa 邊和 ngày nay), lấy xứ Sài Gòn 柴棍 làm huyện Tân Bình 新平 (nay thăng làm phủ), dựng dinh Phiên Trấn 藩鎮 (tức Gia Định 嘉定 ngày nay), mỗi dinh đều đặt các chức lưu thủ, cai bạ, ký lục và các cơ đội thuyền thủy bộ tinh binh và thuộc binh. Mở rộng đất được nghìn dặm, được hơn 4 vạn hộ, bèn chiêu mộ những dân xiêu dạt từ Bố Chính trở về Nam cho đến ở cho đông. Thiết lập xã thôn phường ấp, chia cắt giới phận, khai khẩn ruộng nương, định lệnh thuế tô dung, làm sổ đinh điền. Lại lấy người Thanh 清人 đến buôn bán ở Trấn Biên lập làm xã Thanh Hà 清河社, ở Phiên Trấn, lập làm xã Minh Hương 明香社  (nay là Minh Hương 明鄉 ). Từ đó người Thanh tới buôn bán hay cư ngụ đều thành dân hộ [của ta].

Mùa hạ, tháng 5, thao diễn trận voi. Lại sai quan duyệt xét số voi công  các dinh.

Mùa đông, tháng 10, gió Đông Bắc thổi to, sấm mưa dữ dội suốt một ngày đêm, nước lụt tràn ngập, mặt đất nước sâu 4,5 thước, nhà cửa, người và súc vật bị trôi chết rất nhiều.

Lấy Nguyễn Hữu Khánh làm Lưu thủ dinh Trấn Biên.

Kỷ mão, năm thứ 8 [1699], mùa thu, tháng 7, Nặc Thu 匿秋 nước Chân Lạp làm phản, đắp các lũy Bích Đôi, Nam Vang và Cầu Nam, cướp bóc dân buôn. Tướng Long Môn là Trần Thượng Xuyên đóng giữ Doanh Châu 瀛洲 (nay thuộc Vĩnh Long 永隆) đem việc báo lên.

Mùa đông, tháng 10, lại sai Nguyễn Hữu Kính làm Thống suất, Cai bạ Phạm Cẩm Long 范錦龍 làm Tham mưu, Lưu thủ Trấn Biên là Nguyễn Hữu Khánh làm tiên phong, lãnh quân hai dinh Bình Khang, Trấn Biên, và thuộc binh 7 thuyền dinh Quảng Nam, cùng với tướng sĩ Long Môn đi đánh.

Sai Gia Định tra bắt người theo đạo Hoa Lang 花郎道 (1. Đạo Hoa Lang : Đạo Thiên chúa, vì người đem đạo ấy đầu tiên vào nước ta là người Hà Lan hay Hoa Lang.). Phàm người Tây phương đến ở lẫn đều đuổi về nước.

Tháng 12, sai quan kiểm duyệt những súng đạn khí giới ở Chính dinh và các dinh.

Canh thìn năm thứ 9 [1700], mùa xuân, tháng giêng, mở trường diễn ngựa, các nội ngoại đội trưởng, các văn chức, nội giám và mã đội tả hữu đều được thao diễn.

Tháng 2, Nguyễn Hữu Kính đem quân các đạo tiến vào nước Chân Lạp, đóng ở Ngư Khê 魚溪 (2. Ngư Khê : Rạch Cá.), sai người dò xét thực hư, chia đường tiến quân.

Tháng 3, Thống binh Trần Thượng Xuyên cùng quân giặc đánh liên tiếp nhiều trận đều được. Khi quân ta đến lũy Bích Đôi và Nam Vang, Nặc Thu đem quân đón đánh. Nguyễn Hữu Kính mặc nhung phục đứng trên đầu thuyền, vung gươm vẫy cờ, đốc các quân đánh gấp, tiếng súng vang như sấm. Nặc Thu cả sợ, bỏ thành chạy. Nặc Yêm 匿淹 (con vua thứ hai Nặc Nộn) ra hàng, Hữu Kính vào thành, yên vỗ dân chúng.

Mùa hè, tháng 4, Nặc Thu đến cửa quân đầu hàng, xin nộp cống. Nguyễn Hữu Kính báo tin thắng trận rồi lùi quân đóng đồn ở Lao Đôi 牢堆 [Sao Doi (cái doi đất ở cù lao Cây Sao) , Mỹ Hòa Hưng] , kinh lý việc biên giới.

Lập phép diễn trận voi, Chúa ra thăm diễn trường ở xã Thọ Khang. Sai viên thống lãnh dẫn voi vào trường theo thứ tự mà bày hàng. Nhạc bộ đánh trống ba hồi, rồi gẩy đàn thổi sáo hát khúc Thái bình. Hát xong đánh ba tiếng chuông. Thống lĩnh dẫn voi tới. Chúa đến duyệt. Lại sai quan duyệt xem voi công ở ba đạo Lưu Đồn, Quảng Bình và Bố Chính.

Tháng 5, Thống suất chưởng cơ Nguyễn Hữu Kính chết. Đầu là Hữu Kính đóng quân ở Lao Đôi, gặp mưa to gió lớn, núi Lao Đôi lở tiếng kêu như sấm. Đêm ấy mộng thấy một người mặt đỏ mày trắng, tay cầm cái phủ việt [búa] bảo rằng : “Tướng quân nên đem quân về mau, ở đây lâu không lợi”. Hữu Kính cười nói rằng : “Mệnh ở trời, có phải ở đất này đâu ?”. Khi tỉnh dậy, thân thể mỏi mệt, nhưng vẫn cười nói như thường để giữ yên lòng quân. Kịp bệnh nặng, bèn than rằng : “Ta muốn hết sức báo đền ơn nước nhưng số trời có hạn, sức người làm được gì đâu ?”. Bèn kéo quân về, đi đến Sầm Khê 岑溪 (1. Rạch Gầm.) (thuộc tỉnh Định Tường) thì chết, bấy giờ 51 tuổi. Chúa nghe tin thương tiếc, tặng Hiệp tán công thần đặc tiến chưởng dinh, thụy là Trung cần. Cho vàng lụa để hậu táng. Về sau thiêng lắng, người Chân Lạp lập đền thờ (năm Gia Long thứ 5 được tòng tự ở Thái miếu : Năm Minh Mệnh thứ 12, phong Vĩnh An hầu 永安侯).

Mùa thu, tháng 7, bắt đầu định sắc cờ cho các thuyền vận tải, ra lệnh cho thuyền các hạt chở thuế, mỗi hạt có sắc cờ riêng : Thăng Hoa thì cờ vàng, Điện Bàn cờ xanh, Quảng Ngãi cờ đỏ, Quy Ninh cờ trên đỏ dưới trắng, Phú Yên cờ trên trắng dưới đen, còn Bình Khang, Diên Ninh, Bình Thuận, Gia Định thì cờ trên xanh dưới đỏ, để cho dễ nhận.

Tháng 8, sửa phủ cũ ở Dương Xuân, cơ Tả thủy đào đất được quả ấn đồng, có khắc chữ Trấn lỗ tướng quân chi ấn. Chúa cả mừng, gọi tên phủ này là phủ An.

Mùa đông, tháng 12, sai Cai cơ nội hữu Tống Phước Tài 宋福才 và văn chức Trần Đình Khánh 陳廷慶 (con Trần Đình Ân) đến Quảng Bình và Bố Chính xem xét hình thế núi sông, khi về họ xin sửa đắp thành lũy cầu cống, đặt sở tuần các nơi, giữ những đường quan yếu để vững chắc biên thùy. Chúa theo lời.

Thăng cai bạ phó đoán sự Trần Đình Ân làm Tham chính chánh đoán sự.

Tân tỵ, năm thứ 10 [1701], mùa xuân, tháng giêng, ngày mồng 1, làm lễ khánh hạ, hát khúc Thái bình làm vui.

Bàn bạc cho các quan văn võ theo thứ bực.

Sai quan làm duyệt tuyển nhỏ.

Sai Ngoại tả chưởng dinh Tôn Thất Diệu (lại tên là Hồng, con Tôn Thất Khê), Nội hữu cai cơ Tống Phước Tài, văn chức Trần Đình Khánh, Thủ hợp Nguyễn Khoa Chiêm đi Quảng Bình trông coi các quân sửa đắp chính lũy, từ núi Đâu Mâu đến cửa biển Nhật Lệ ; lại ở hai lũy Trấn Ninh và Sa Phụ đắp thêm đài súng lớn, đặt điếm tuần thủy và bộ.

(Quân bộ binh Quảng Bình chia đặt 26 sở tuần trên chính lũy từ Ông Hồi đến Mỗi Nại : 2 thuyền Tân chí, Đại an thuộc đội Tả tiệp, 3 thuyền  Phú nhị, Hậu súng, An nhất thuộc cơ Tả kiên, 4 thuyền Tả hùng, Hữu hùng, Hậu đao nhất, Hậu đao nhị, thuộc cơ Hữu kiên, 5 thuyền Tả nhất, Quảng nhất, Súng Nhị, An Nhị, Tiền  kiên súng thuộc cơ Tả bộ, 5 thuyền Chí nhất, Chí nhị, Tráng súng, Kiên súng, Nhuệ súng, thuộc cơ Hữu bộ, các đao thuyền và các súng thuyền thuộc Trung cơ. Quân thủy bộ dinh Bố Chính chia đặt 36 sở tuần từ đường Phong Nha men sông và Đại Thành đến lũy Trấn Ninh : 3 thuyền Đột tam, Tiên trụ và Nhuệ súng thuộc đội Tuần bộ, đội Tả hùng, đội Tiền thắng, 3 thuyền Hữu súng, Kiên trụ, Hậu kiên đao thuộc đội Tả thắng, 3 thuyền Tân  nhất, Trụ súng, Hữu cai thuộc đội Hữu thắng, 3 thuyền Tả đao, Tiền trụ, Hữu kiên thuộc đội Hậu thắng, 2 thuyền Lý ninh, An náu thuộc đội Thủy sai, thuyền Kiên nhất thuộc Trung cơ, 5 thuyền Tiền kiên, Tả kiên, Hữu kiên, Hậu kiên, Toàn kiên thuộc Tả tuần hà, 5 thuyền  Tiền thắng, Tả thắng, Hữu thắng, Hậu thắng, Toàn thắng thuộc Hữu tuần hà. ? Các cửa lũy và các đường trọng yếu ở dinh Bố Chính đặt 14 sở : 12 thuyền Tiền kiên, Tả nhị, Tả trụ, Hữu trụ, Hữu đao, Hậu hùng, Chí nhất, Bố nhất, Bố nhị, Đông sơn, An mô, Kỳ hoa thuộc Trung cơ, đình phố của Mã đội thuộc Trung cơ, thuyền Hữu súng thuộc đội Tả thắng).

Lại coi khắp những hình thế đầu non cửa biển, đường sá xa gần, núi sông hiểm dễ, vẽ đồ bản dâng trình. Sau 3 tháng công việc làm xong, thưởng cho tướng sĩ 500 lạng bạc, 800 quan tiền.

Mùa thu, tháng 8, mở khoa thi. Ngày thi, chúa ra đầu đề. Lấy trúng cách về chính đồ được 4 người giám sinh, 4 người sinh đồ và 5 người nhiêu học, trúng cách về hoa văn được 17 người, trúng cách về thám phỏng được 1 người. Giám sinh bổ tri phủ, sinh đồ bổ tri huyện, nhiêu học bổ huấn đạo, hoa văn và thám phỏng bổ vào ba ty.

Chúa đến thăm trường súng, xem quân thủy quân bộ thuộc nội đội diễn tập, quân thủy thi đứng trên nên được hậu thưởng.

Tháng 9, lấy văn chức Trần Đình Khánh làm cai bạ dinh Quảng Nam.

Mùa đông, tháng 11, chúa đến thăm trường bắn, triệu các tướng và các nội ngoại đội trưởng cùng tam ty thi bắn cung, chọn người bắn giỏi làm giáp bộ để luân lưu hầu diễn bắn.

Nhâm ngọ năm thứ 11 [1702], mùa xuân, tháng giêng, sai thủy quân sửa đóng chiến thuyền, chia làm 3 đội tiền hậu trung, đến cuối mùa xuân thì diễn tập thủy trận.

Sai các tướng thi ngựa, hai bên tả hữu mỗi bên đều 30 con, bên tả cầm cờ đỏ, bên hữu cầm cờ vàng, theo thứ tự chạy phi, thưởng tiền bạc theo thứ bực.

Nhà quân Nội thủy phát hỏa, cháy lan hơn 600 nhà.

Mùa hạ, tháng 5, ngày mồng 1, có nhật thực.

Sai bọn Hoàng Thần 黃辰, Hưng Triệt 興徹 đem quốc thư và cống phẩm (kỳ nam 5 cân 4 lạng, vàng sống 1 cân 13 lạng 5 đồng cân, ngà voi 2 chiếc nặng 350 cân, mây song hoa 50 cây) sang Quảng Đông để cầu phong (Thần và Triệt người Quảng Đông nước Thanh, theo hòa thượng Thạch Liêm 石濂 đến yết kiến, nhân đó [chúa] sai đi. Bấy giờ thuyền đi cống của Xiêm La bị gió đậu ở hải phận ta, ta sửa sang thuyền lái và giúp đỡ lương thực cho họ, rồi sai bọn Thần Triệt đáp đi). Vua Thanh hỏi bầy tôi, đều nói rằng “Nước Quảng Nam 廣南國 hùng thị một phương, Chiêm Thành, Chân Lạp đều bị thôn tính, sau tất sẽ lớn. Duy nước An Nam 安南 còn có nhà Lê ở đó, chưa có thể phong riêng được. Việc [phong] bèn thôi. (Thuyền Thanh thường đến buôn ở Quảng Nam, nên gọi ta là nước Quảng Nam).

Mùa thu, tháng 8, người châu Bố Chính bắt được thám tử của họ Trịnh đem về. Thủ tướng châu Bắc Bố Chính là Trịnh Huyên gửi thư sang dinh Bố Chính trách việc ấy. Khổn thần báo lên. Chúa sai Cai bạ Trần Đình Khánh viết thư trả lời. Huyên được thư bèn thôi.

Giặc biển là người An Liệt Man 安烈蠻 (1. Tức người Anh (English).) có 8 chiếc thuyền đến đậu ở đảo Côn Lôn 崑崙 [nay là Côn Đảo]. Trưởng là bọn Tô Lạt Già Thi 蘇喇伽施 5 người tự xưng là nhất ban, nhị ban, tam ban, tứ ban, ngũ ban (2. Tức các cấp bực quan một, quan hai v.v… ) (mấy ban cũng như mấy bực, nguyên người Tây phương dùng những tên ấy để gọi bọn đầu mục của họ) cùng đồ đảng hơn 200 người, kết lập trại sách, của cải chứa đầy như núi, bốn mặt đều đặt đại bác. Trấn thủ dinh Trấn Biên là Trương Phước Phan 張福攀 (con Chưởng dinh Trương Phước Cương 張福崗, lấy công chúa Ngọc Nhiễm 玉冉) đem việc báo lên. Chúa sai Phước Phan tìm cách trừ bọn ấy. [Xem Côn Đảo, John Crawfurd.]

Tháng 9, khai đường thủy đạo ở xã Lệ Kỳ (thuộc huyện Phong Lộc).

Quý mùi, năm thứ 12 [1703], mùa xuân, tháng giêng, lại thu thuế ruộng dân hiện cày cấy. Trước là đời Thái tông năm thứ 21, Kỷ dậu , sai đo ruộng lậu để thu thuế. Năm đầu đời Anh tông ra lệnh giảm nửa thuế cho những ruộng mới tăng. Đến đây lại thu cả theo lệ năm Kỷ dậu.

Sai quan làm duyệt tuyển lớn.

Tháng 3, sai Ngoại tả chưởng dinh Tôn Thất Diệu, văn chức Trần Đình Thuận (con Trần Đình Ân) đốc suất quân lính đắp kè đập ở kênh Hà Kỳ, từ xã Lai Cách đến xã Thủy Liên, phàm 5 sở, để tiện việc vận tải. Một tháng công việc xong, thưởng bạc cho bọn Diệu theo thứ bực.

Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, có nhật thực.

Mùa thu, tháng 8, Tham chính đoán sự Trần Đình Ân 78 tuổi, xin về trí sĩ, trần thỉnh hai ba lần chúa mới cho. Khi vào tạ, chúa nhân làm bài thơ và lời tựa, viết vào lĩnh hoa trắng để cho như sau :

“Quốc chúa Thiên túng đạo nhân ngự chế thơ và tựa, sắc cho Tham tri chánh đoán sự Đông Triều hầu Trần Đình Ân từ chức về làng. Khanh trải giúp bốn triều, quốc chính triều cương, có nhiều giúp đỡ. Bề tôi siêng năng, duy khanh hơn cả. Lại tính hay nhún nhường êm dịu, vui đạo thích lành, cho nên lan quế thơm tho, một nhà vinh hiển. Tuổi gần tám chục, mà chưa suy hèn, thực là Phước thọ của nước nhà ta. Nay vì mến đạo ưa tĩnh, từ quan chức về làng, ta hai ba lần cố giữ mà cuối cùng không cản được chí. Khi từ biệt ra về, ta đặc tứ 10 mẫu ruộng và 10 lính hầu, dùng để dưỡng lão. Sợ thế chưa phỉ lòng ta, nên tặng một bài thơ thất ngôn để trọn ý ta vậy. Thơ rằng :

[Phiên âm]

Bình sinh trì thiện tính tinh thuần.

Tán phụ ngô triều tứ thế nhân.

Chính nghiệp dĩ thành từ tử thụ.

Đạo tâm hằng hiện khước hồng trần.

Hi hi hạc phát đồng Thương hạo,

Nghiễm nghiễm tiên phong diệc Hán thần.

Thử khứ Quảng Bình hà sở sự,

Thanh sơn lục thủy lạc thiên chân.

[Dịch]

Suốt đời giữ thiện tính tinh thuần,

Giúp đỡ triều ta trải bốn đời.

Sự nghiệp đã thành, trả giây ấn tía,

Đạo tâm thường hiện, lánh cõi bụi hồng.

Tóc hạc phơ phơ giống bốn hạo núi Thương (1. Bốn ông già trên 80 tuổi trốn vào núi Thương Sơn để tránh loạn cuối đời Tần, sau Hán Cao tổ mời không ra. Râu mày đều bạc nên gọi là tứ hạo.);

Dáng tiên nghiêm chỉnh như [Trương Lương] nhà Hán.

Nay về Quảng Bình thì làm việc gì?

Non xanh nước biếc, vui hưởng tính trời.

Đình Ân về hưu, ở chùa Bình Trung (thuộc xã Hà Trung, huyện Minh Linh), dựng đá khắc tờ sắc thư đặt ở trước chùa, lấy thiền học làm vui.

Mùa đông, tháng 10, dẹp yên đảng An Liệt 安烈黨. Trước là Trấn thủ Trấn Biên Trương Phước Phan mộ 15 người Chà Và 闍婆 [Đồ Bà] sai làm kế trá hàng đảng An Liệt để thừa chúng sơ hở thì giết. Bọn An Liệt không biết. Ở Côn Lôn hơn một năm không thấy Trấn Biên xét hỏi, tự lấy làm đắc chí. Người Chà Và nhân đêm phóng lửa đốt trại, đâm chết nhất ban, nhị ban, bắt được ngũ ban trói lại, còn tam ban, tứ ban thì theo đường biển trốn đi. Phước Phan nghe tin báo, tức thì sai binh thuyền ra Côn Lôn, thu hết của cải bắt được dâng nộp. Chúa trọng thưởng người Chà Và và tướng sĩ theo thứ bực. Tên ngũ ban thì đóng gông giải đi, chết ở dọc đường. [Xem Côn Đảo, John Crawfurd.]

Tháng 11, mưa gió to, cây gẫy nhà tốc, dân bị chết trôi nhiều.

Giáp thân, năm thứ 13 [1704], mùa xuân, tháng 3, chúa đến phủ Phù Tôn (nay là Phù Chính), xem kho Lai Cách và cửa biển Minh Linh, dừng chân ở Lương Phước năm ngày rồi trở về.

Mùa hạ, tháng 4, ngày Canh thìn, cầu vồng trắng hiện suốt ngang trời.

Mùa thu, tháng 7, lửa bốc cháy từ chợ Phú Xuân đến phủ Đông Trì, cháy lan hơn một vạn nhà.

Tháng 8, lấy văn chức Trần Đình Thuận làm Đô tri, coi Xá sai ty, Đô tri Trịnh Tường làm Cai bạ dinh Quảng Nam, văn chức Nguyễn Hữu Khôi làm Ký lục.

Mùa đông, tháng 10, lấy Chưởng cơ Nguyễn Hữu Hào làm Trấn thủ Quảng Bình. Hào đến trấn, yêu nuôi quân sĩ, yên vỗ trăm họ, quân dân đều thân mến.

Tháng 11, ngày Giáp thìn, hai mặt trời cùng mọc.

Ất dậu, năm thứ 14 [1705] (Lê Vĩnh Thịnh năm 1, Thanh Khang Hy năm 44), mùa xuân, tháng 2, Trịnh Căn nhà Lê sai tướng là Lê Thời Liêu trấn thủ Nghệ An, kiêm trấn châu Bắc Bố Chính.

Tháng 3, Tạo Vĩ 造尾 ở Lục Hoàn 六凡 nước Ai Lao thả quân sang quấy dân biên thùy, cướp bóc khách buôn. Tuần binh của đồn Ai Lao đem việc chạy báo. Chúa sai Cai đội Tả súng Lê Định 黎定 làm Cai cơ, Nội đội trưởng Chu Nhuận Trung 朱潤忠 làm Cai đội, đem quân đi đánh. Hai người đến địa giới Ai Lao được vài tháng thì chết, bèn rút quân về.

Tháng 4, mùa hạ, vua nhà Lê truyền ngôi cho thái tử Duy Đường, đổi niên hiệu là Vĩnh Thịnh, tức là Dụ Tông. Tôn vua Lê làm thái thượng hoàng.

Mùa thu, tháng 7, Chưởng cơ dinh Tả bộ là Nguyễn Đức Khang 阮德康 (con Nguyễn Đức Bảo) dâng nỏ tốt. Chúa sai văn võ, các tướng, nội ngoại đội trưởng và tam ty, chia làm hai bộ giáp ất để tập bắn nỏ, trúng liền 5 phát thì được thưởng một tấm nhiễu hồng. Sau đó người ta tranh nhau mua nỏ, giá nỏ thành đắt. Vì thế mà bãi.

Sai Chánh thống cai cơ Nguyễn Cửu Vân 阮久雲 (con Nguyễn Cửu Dực 阮久翊) đánh Chân Lạp và đưa Nặc Yêm về nước. Yêm là con Nặc Nộn. Trước là Nặc Nộn chết, Nặc Thu phong Yêm làm chức Tham Đích Sá Giao Chùy 參的詫膠錘 [Samdach Chauvea, Tể tướng], đem con gái gả cho. Sau Thu vì tuổi già, truyền ngôi cho con là Nặc Thâm 匿深. Thâm ngờ Yêm có dị chí, nổi binh đánh nhau, lại nhờ Xiêm La giúp. Yêm chạy sang Gia Định cầu cứu với triều đình. Chúa bèn sai Vân lãnh quân thủy bộ Gia Định tiến đánh Nặc Thâm. Vân đến Sầm Khê 岑溪 gặp quân Xiêm, đánh vỡ tan. Thâm cùng em là Nặc Tân 匿新 chạy sang Xiêm. Nặc Yêm lại trở về thành La Bích 羅壁. Bấy giờ Xá sai ty Phiên Trấn là Mai Công Hương 枚公香 làm tào vận tới sau, bị quân giặc chặn lại, lính vận tải sợ chạy. Hương bèn đục thủng thuyền làm đắm lương thực, rồi nhảy xuống sông chết. Giặc không được gì hết. Chúa nghe tin, sai phong Hương làm thần “Vị quốc tử nghĩa 為國死義”, dựng đền để thờ. Chân Lạp dẹp xong, Vân nhân khẩn ruộng ở Cù Úc 虬澳 [Vũng Gù] (thuộc tỉnh Định Tường), làm gương cho quân dân noi theo. Lại vì giặc thường đến đất này quấy rối sau lưng quân ta, bèn đắp lũy dài để vững phòng ngự.

Tháng 8, có sâu keo, mùa màng không tốt, giá thóc một hộc là 1 quan 5 tiền.

Trấn thủ Quảng Bình là Chưởng dinh Nguyễn Cửu Ưng chết, tặng Khiêm cung công thần đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Tả quân đô đốc phủ chưởng phủ sự Trấn quận công, thụy là Thận cần.

Bính tuất, năm thứ 15 [1706], mùa xuân, tháng giêng, Tham chính chánh đoán sự trí sĩ là Trần Đình Ân chết, tặng Đôn hậu công thần đặc tiến trụ quốc kim tử vinh lộc đại phu Đại lý tự khanh, thụy là Thuần thiện. Cho 10 người phu mộ, và miễn thuế cho 30 mẫu tư điền.

Sai quan làm duyệt tuyển nhỏ.

Mùa hạ, tháng 4, mưa dầm nước lụt, nhiều nhà trôi mất.

Mùa thu, tháng 9, ngày mồng 1, có nhật thực. Mùa đông, tháng 11, lấy Đô tri Trần Đình Thuận làm Cai bạ phó đoán sự coi Tướng thần lại ty, Tri bạ Lữ Hữu Ninh làm Đô tri coi Xá sai ty, Tri bạ Tống Phước Đào (lại tên là Mai, vốn họ Hồ, được cho họ Tống) làm Cai đội coi đội Tả trung bộ.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

web counter