Cao Văn Nghiệp – NĂM THÀNH LẬP 4 QUẬN TRỰC THUỘC TỈNH GIA ĐỊNH

Cá Vàng cùng với Nguyễn Thanh Lợi.

Yêu thích  · 7 Tháng 4 lúc 11:11  · 

NĂM THÀNH LẬP 4 QUẬN TRỰC THUỘC TỈNH GIA ĐỊNH

Trong cuốn Địa chí hành chính các tỉnh Nam Kỳ thời Pháp thuộc (1859-1954), chương VIII: Tỉnh Gia Định (Nxb Tổng Hợp Tp. HCM, 2017), tác giả Nguyễn Đình Tư viết về “Ngày thành lập các quận trực thuộc” như sau (xin lược trích):

“Giai đoạn 1913-1914 địa bàn tỉnh Gia Định đã được chia là 4 quận: Quận Gò Vấp do Nguyễn Văn Thám – Phủ hạng 1 làm Quận trưởng, quận Hóc Môn do Đỗ Cao Sô – Phủ hạng 2 làm Quận trưởng, quận Thủ Đức do Lê Bá Trang – Phủ hạng 1 làm Quận trưởng, quận Nhà Bè do Trần Văn Phương – Phủ hạng 2 làm Quận trưởng. Theo thống kê năm 1916, tỉnh Gia Định có các quận, tổng, làng như sau (xin lược trích): read more

Cao Văn Nghiệp – Cây Bàng, Cỏ Bàng

Cá Vàng cùng với Nguyễn Thanh Lợi.

Yêu thích  · 2 ngày  · 

CỎ BÀNG & CÂY BÀNG TRONG 2 ĐỊA DANH Ở SÀI GÒN XƯA?

Trong bài “Tên cỏ cây hoa lá Sài Gòn xưa vẫn mãi còn”, tác giả Phúc Tiến có nêu khá nhiều tên “cỏ cây hoa lá”, ví dụ như Bằng Lăng, Bần – tên Hán Việt là Thủy Liễu, Lá Buông (Bối diệp), Cám, Cui, Củ Chi, Da, v.v…

Vì tác giả không nêu tên khoa học của từng tên “cỏ cây hoa lá” được nêu, cũng không viết chữ Hán đối ứng với tên Hán Việt (nếu có), nên chúng tôi băn khoăn không biết tác giả muốn nói cây gì. Ví dụ như “cỏ Bàng” và “cây Bàng”, tác giả Phúc Tiến viết như sau: read more

Cao Văn Nghiệp – CÀ RÒN

Cá Vàng

Yêu thích  · 4 giờ  · 

CÀ RÒN

Cà ròn, cũng gọi là bao cà ròn. Cà ròn là từ đọc trại từ tiếng Khmer là “ka rông/ ការុង”, nghĩa là cái bao. Hồi xưa, cỏ bàng (tên khoa học là Lepironia articulata) thường được dùng để đươn đệm, cà ròn, nóp, giỏ xách, nón… Theo Nguyễn Văn Nam, trong cuốn Liên Phân Bộ Công Kỹ Thương Việt Nam – Tỉnh An Giang 1959 (Nhà in Nguyễn Đ. Vượng, Sài Gòn, 1959), ở vùng Ba Chúc, Lạc Quới đến mùa nước lên, dân chúng dươn đệm và cà ròn, phần lớn chở lên bán tại Cao Miên (tr.32). Lúc đó Ba Chúc và Lạc Quới là 2 xã thuộc quận Tịnh Biên, tỉnh An Giang. read more

Cao Văn Nghiệp – NÚI SẬP VÀ NÚI SAM

Cá Vàng cùng với Nguyễn Thanh Lợi và Nguyễn Tân.

Yêu thích  · 2 giờ  · 

NÚI SẬP VÀ NÚI SAM

“Công nghiệp” của ông Thoại Ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại gắn liền với việc đào Thoại hà (còn gọi là Thoại Sơn hà)[1] và Vĩnh Tế hà. Kinh thứ nhất có liên quan đến núi Sập, kinh thứ hai có liên quan đến núi Sam (“Sam sơn” 旵山).

* Trong địa bạ thôn THOẠI SƠN (tổng Định Phước, huyện Tây Xuyên, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang) lập năm Minh Mạng thứ 17 [1836][2] có câu: read more

Cao Văn Nghiệp – “THỊ ĐEN SỐC” Ở TỔNG CHÂU PHÚ, HUYỆN TÂY XUYÊN, PHỦ TUY BIÊN, TỈNH AN GIANG NĂM 1836

“THỊ ĐEN SỐC” Ở TỔNG CHÂU PHÚ, HUYỆN TÂY XUYÊN, PHỦ TUY BIÊN, TỈNH AN GIANG NĂM 1836

Theo Nguyễn Đình Đầu, trong Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn – An Giang (Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1995), tổng Châu Phú (huyện Tây Xuyên, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang) gồm 29 thôn, trong đó:

– 25 thôn còn địa bạ: An Nông, An Thạnh, Bình Thạnh, Hưng An, Khánh An, Long Thạnh, Nhơn Hoà, Nhơn Hội, Phú Cường, Thân Nhơn Lý, Thới Hưng, Vĩnh Bảo, Vĩnh Điều, Vĩnh Hội, Vĩnh Khánh, Vĩnh Lạc, Vĩnh Nguơn, Vĩnh Phước, Vĩnh Tế Sơn, Vĩnh Thành, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Thọ, Vĩnh Thông, Vĩnh Trung, Vĩnh Trường. read more

Cao Văn Nghiệp – NGÀY KHỞI CÔNG ĐÀO KINH VĨNH TẾ

Trong bài Kênh Vĩnh Tế – Dấu ấn lịch sử biên giới đất liền vùng Châu Đốc – Hà Tiên nửa đầu thế kỷ XIX[1] của 3 tác giả Bùi Hoàng Tân, Huỳnh Thị Ngọc Loan, Trần Minh Thư (Trường Đại học Cần Thơ) có đoạn sau đây:

“Công trình đào kênh này bắt đầu từ năm 1819 dưới triều vua Gia Long đến năm 1824 được hoàn tất dưới triều vua Minh Mạng. Tuy nhiên việc đào kênh không xuyên suốt mà có những thời kỳ gián đoạn. Tổng cộng thời gian đào kênh được chia làm 3 giai đoạn: read more

Truyền thuyết về Cá Chình

Trong sách “Mộng khê bút đàm” của nhà khoa học nổi tiếng Thẩm Khoát thời Bắc Tống ghi lại một truyền thuyết về dùng cá chình chữa bệnh: “Có người bị bệnh lao, lúc đó lây lan cho rất nhiều người. Khi những người bị lao đó chết, dân làng cho vào hòm, để không hại đến những người còn lại. Có một chiếc quan tài trôi nổi đến Kim Sơn, được người đánh cá vớt lên mở ra xem, thấy một phụ nữ trẻ đang còn sống, liền đưa về lều đánh cá, thường xuyên cho ăn cá chình Nhật (con Lệch), lâu ngày khỏi bệnh, người đánh cá lấy làm vợ… read more

Đào Thái Sơn: các bài viết cho đến 29-10-2024

Đào Thái Sơn

Yêu thích  · 7 giờ  · 

Xã Tân Hưng được xem là cội rễ của Tân Châu. Sau khi các làng của tổng Chơn Bà Đen sáp nhập thì lập ra xã Khedol năm 1956. Đến năm 1957 thì xã Khedol đổi tên thành xã Tân Hưng. Lúc ấy Tân Hưng vô cùng rộng lớn. Cuối năm 1957 thì Tân Hưng chia làm 3 là Tân Hưng, Tân Hội và Tân Long. Sau đó Tân Hưng chia ra lập xã Tân Phú. Còn Tân Long nhập vào Kà Tum, lập Tân Đông. Sau cắt ra Suối Ngô và Tân Hoà. read more

Cao Văn Nghiệp – ĐÔI ĐIỀU VỀ ĐỊA DANH “CẦN BỘT/ CẦN VỌT”

Cá Vàng

Yêu thích  · 2 giờ  · 

ĐÔI ĐIỀU VỀ ĐỊA DANH “CẦN BỘT/ CẦN VỌT”

Trong Gia Định thành thông chí (quyển 2: Sơn xuyên chí, mục Hà Tiên trấn) của Trịnh Hoài Đức, Phạm Hoàng Quân dịch, chú và khảo chứng, Nxb Tổng Hợp Tp. HCM, 2019 (ở sau gọi tắt là bản dịch PHQ 2019) có đoạn sau đây:

“Cần Bột cảng [cảng Kampot], cách trấn thự 165 dặm rưỡi về phía tây, rộng 49 trượng, sâu 5 thước, có sở thủ ngự Đồ Bà ở đó. Dòng suối tuôn dài, cây cối xanh tốt, trước là đất trống của người Man Lão, dân Việt đến ở lập thành xóm thôn Tiên Hương; hiện nay người Cao Miên, người Hoa, người Đồ Bà đông đúc, có phố chợ nhỏ[1]. Ở đầu nguồn, nơi sách [srok] An Phủ Ghê của Cao Miên có nhà công vụ ở chỗ giáp giới, là nơi dành cho sứ Xiêm La, Chân Lạp ghé họp nghỉ.” (tr.122) read more

Cao Văn Nghiệp – “GIA ĐỊNH KINH” LÀ GÌ?

Trong Đại Nam nhất thống chí (tỉnh Gia Định, mục Kiến trí duyên cách) của Quốc Sử quán triều Nguyễn, bản dịch của Nguyễn Tạo 1959[1] có các đoạn sau đây:

“Xưa nước Phù-nam 扶 南 sau bị Chân-lạp thôn tính, gọi là Thủy Chân-lạp, gọi là Giản-phố-trại 柬 埔 寨. Đầu năm Kỷ-vị (1739) vua Thái-tông Hiếu-triết-Hoàng-Đế (bản triều) mệnh tướng mở biên cảnh, lập đồn dinh ở Tân-mỹ. Năm mậu-dần (1758) (sic) vua Hiển-Tông-Minh Hoàng-Đế[2] lại mệnh Thống-suất chưởng-cơ Nguyễn-hữu-Cảnh kinh lược đất ấy, đặt phủ Gia-định lấy xứ Sài-côn làm huyện Tân-bình, dựng dinh Phiên-trấn đặt chức Giám-quân cai-bộ và ký-lục để cai trị, năm Bính-thân (1776) bị Tây-sơn hãm lấy. Năm Định-dậu (1777) Thế-tổ Cao-Hoàng-Đế cử binh Long-xuyên thu phục Sài-côn[3]. Năm Kỷ-hợi (1780) vua khiến tu định địa-đồ lập địa-giới dinh Phiên-trấn. Năm canh-tuất (1790) bắt đầu đắp thành Bát-quái trên gò cao thôn Tân-khai, tổng Bình-dương gọi là Gia-định-Kinh. Niên hiệu Gia-long nguyên-niên (1802) cải tên phủ Gia-định làm trấn Gia-định đặt Trấn quan để thống trị[4]. Năm thứ 7 cải làm Gia-định thành đặt một Tổng-trấn, 1 Hiệp-tổng-trấn và 1 Phó-tổng-trấn thống trị trấn Phiên-an, Biên-hòa, Định-tường, Vĩnh-thanh, Hà-tiên, lại kiêm lãnh trấn Bình-thuận ở xa nữa. read more