Người miền Tây hồi xưa có câu: “Lấy táu đong lúa chớ không ai lấy táu đong chữ”. “Táu” trong câu vừa nêu có thể hiểu là cái táu, tức dụng cụ dùng để thể tích. “Táu” cũng là đơn vị thể tích bằng “nửa giạ”.
Huình Tịnh Paulus Của 1896, trong Đại Nam quấc âm tự vị, dùng chữ “奏” (âm Hán Việt là “tấu”) để ghi âm TÁU và cho biết: “Cái táu [là] cái lường nhỏ bằng nửa giạ, đồ đong muối”.