Đào Thái Sơn
Yêu thích · 9 Tháng 4 lúc 17:29 ·
MIẾU THỜ BẠCH MÃ THÁI GIÁM – TÀ CÔNG – THỔ CÔNG Ở ĐÌNH PHƯỚC HỘI
Ở các ngôi đình thần Nam Bộ nói chung và Tây Ninh nói riêng đều có tích hợp miếu thờ Bạch Mã Thái Giám. Ngôi miếu này thường là xây khá nhỏ được đặt một phía góc trước của sân đình, bên trong có vẽ khắc bốn chữ Hán – 白 馬 太 監 – hoặc đắp nổi hình con ngựa trắng. Vậy vị thần này là ai? Trong bài viết ngắn này, chúng tôi có vài lời sau.
Đầu tiên xin nói về hai chữ Bạch Mã mang dấu ấn đậm nét trong Phật giáo. Theo Từ điển Phật học tinh tuyển của Thích Nguyên Tâm thì: “ Bạch Mã: Ngựa trắng. Tương truyền dưới thời vua Minh Đế nhà Hậu Hán, nhóm Ca Diếp. Ma Đằng lần đầu tiên mang một số kinh điển Phật giáo như Tứ Thập Nhị Chương bên Tây Vực sang, chở trên lưng con bạch mã, đến trú tại Hồng Lô Tự. Nhân đó nhà vua xây dựng Bạch Mã Tự tại kinh đô (Lạc Dương, tỉnh Hà Nam) để an trí các kinh điển này..” (NXB Phương Đông – 2013, trang 52). Hình tượng Bạch Mã về sau tượng trưng cho tin mừng thỉnh được Chân Kinh. Cũng chính vì vậy, khi viết bộ tiểu thuyết Tây Du Ký, Ngô Thừa Ân đã để cho Trần Huyền Trang cưỡi con ngựa trắng đến Tây Trúc thỉnh kinh là vậy.
Ở Việt Nam, thời Lý, Phật giáo là quốc giáo, các bậc vua chúa đều rất chuộng và xây dựng nhiều công trình đền chùa còn tồn tại đến ngày nay. Một trong những ngôi đền cổ xưa ấy là đền Bạch Mã, một trong tứ trấn của kinh thành Thăng Long xưa, nơi thờ thần Long Đỗ. Sách Thăng Long cổ tích khảo có chép truyền thuyết về con ngựa trắng đã giúp Lý Thái Tổ xây thành Thăng Long như sau: Lý Thái Tổ đắp thành mấy tháng không xong. Một đêm nằm mộng thấy một con ngựa trắng nói tiếng người chỉ vua cách xây thành và khai thông long mạch. Tỉnh giấc, vua bèn làm như lời ngựa trắng. Thành xây được. Khi hoàn tất có con ngựa trắng hiện cạnh thành. Quân sĩ đuổi đi, ngựa chạy đến đền Long Đỗ thì mất dấu. Vua cho đó là hiện thân của thần Long Đỗ và phong là Bạch Mã đại vương. Dấu ấn Bạch mã trở nên rất sâu sắc đối với văn hóa Đại Việt đời Lý, thậm chí ông nhà vua này còn đặt tên con trai mình là Lý Phật Mã (Ngựa Phật), sau ngài lên ngôi chính là vua Lý Thái Tông .
Trong văn hóa Bà la môn cũng có hình ảnh vị thần Kalkyavatara, một hóa thân của thần Wishnu, mình người đầu ngựa. Đây là hóa thân cuối cùng của thần Vishnu. Theo thần thoại Ấn Độ, khi kết thúc một chu kì của vũ trụ, Vishnu sẽ trở lại thế gian, cưỡi trên một con ngựa trắng cùng với thanh gươm rực rỡ của mình để hủy diệt những con quỷ cuối cùng và những con người độc ác còn sót lại trước khi thế giới được thiết lập lại. Trong sự giao thoa và chịu ảnh hưởng giữa văn hóa Bà la môn và văn hóa Phật giáo, trong câu chuyện Tiền thân của Đức Phật có kể về chuyện Đức Phật hóa thân thành con ngựa trắng như sau. Có 800 người lái buôn đường biển đi lạc đến hòn đảo của các nữ nhân ăn thịt người. Khi gặp các lái buôn này thì các nữ nhân buộc phải kết hôn với họ. Một hôm các anh lái buôn nhớ nhà và cầu nguyện Đức Phật cứu giúp. Đức Phật hóa ra con ngựa thần và bảo họ nắm vào cổ, bờm, lông, đuôi,… Trước khi bay qua biển, Phật dặn họ không được luyến tiếc những lạc thú mà họ đã gặp trên đảo nhưng do thương nhớ vợ con, họ đã quay lại nhìn và bị rơi xuống biển. Chỉ có một người nhớ lời Phật dặn, làm chủ được mình, nên sống sót và về làm vua xứ Ấn Độ.
Về sau này trong văn học Phật giáo Đại Thừa có nhắc đến một trong tám hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát là thần Mã Đầu La Sát. Theo Huỳnh Ngọc Trảng và Trương Ngọc Tường: “Mã Đầu La Sát là hóa thân của Bồ Tát Quan Âm, mình người đầu ngựa. Avalokitesvara (Quan Thế Âm bồ tát) của Phật giáo Đại thừa không phân biệt giới tính vì ngài có thể hóa ra nữ hoặc nam. Phật giáo thường gọi vị Bồ Tát này là “Quan Âm Đại sĩ” (một hóa thân của Quan Âm). Quan Âm thường là nữ, nhưng gọi là “Sĩ” tức nam, do tính chất trung tính này nên gọi là “Thái Giám” (Đình Nam Bộ xưa và nay, trang 133, NXB Văn hóa – Văn nghệ -2018). Có thể nói Mã Đầu La Sát hay Bạch Mã Thái Giám là vị thần phật có chức năng phù hộ cho những thương nhân đi biển, được tai qua nạn khỏi khi sóng to gió lớn. Hoặc đối với người đi buôn bán trên đường bộ thì tránh được những chuyện rủi ro, không may. Về vị thần này, Nhà Nguyễn phong Bạch mã Thái giám làm Thượng đẳng thần “Dương Uy Ngự Vũ Bảo chướng Kiện thuận Hòa nhu Hàm quang Thượng đẳng thần” (Sắc phong ngày 29/11 năm Tự Đức thứ V – 1852). Qua sắc phong này cho thấy các triều đại phong kiến Việt Nam trước đây rất tín ngưỡng vị thần này.
Ở các ngôi đình, Bạch Mã Thái Giám thường được thờ chung với Đại Càn tứ vị thánh nương, Thiên Y Ana Chúa Ngọc và một số vị thần khác tại các đình làng. Tuy nhiên do tính chất đặc biệt về tín ngưỡng nên một số địa phương đã dựng nên những ngôi miếu để thờ riêng vị thần này và gọi bằng một cái tên dân gian là miếu ông Thái Giám. Riêng một số đình ở Tây Ninh ta còn thấy Bạch Mã Thái Giám được thờ chung gian miếu với Tà Công, Thổ Công, điển hình ở đình Phước Hội xã Suối Đá huyện Dương Minh Châu.
Tà Công là Ông Tà, một vị thần gốc Khmer gọi là Neakta. Tín ngưỡng Neakta – [អ្នកតា – Ông Tà] là loại tín ngưỡng phổ biến nhất, hầu hết các làng Khmer Tây Ninh đều có hình thức tín ngưỡng này. Đối với người Khmer, Neakta được quan niệm vừa là thần linh bảo hộ phum sóc xóm làng vừa là những bậc tiền nhân đã khuất ở những địa bàn cụ thể. Neakta không thờ theo từng gia đình mà Neakta luôn là chung của cộng đồng. Chính vì vậy việc lập miếu hay cúng Neakta là công việc chung của cả phum sóc, mọi người đều phải có nghĩa vụ với vị thần bảo hộ này. Hiện nay, bà con Khmer Tây Ninh thờ Neakta ở khá nhiều nơi, tùy theo đặc điểm của từng vị trí mà có vị Neakta khác nhau, chẳng hạn trong khuôn viên chùa thì có Neakta Wat (Tà chùa), ngoài ruộng thì có Neakta Sre (Tà ruộng), cặp sông suối thì có Neakta Prek (Tà rạch), dưới gốc đa thì có Neakta chray (Tà cây đa), khu đồng trảng thì có Neakta veal (Tà đồng trảng)….Nói chung người Khmer rất tin tưởng vào Neakta, bất kỳ nơi nào có bà con Khmer làm ăn sinh sống thì nơi đó có Neakta ngự trị. Trong quá trình cộng cư giữa Việt – Khmer, người Việt đã tích hợp tín ngưỡng Neakta và các đình chùa, và xem như là một vị thần bảo hộ, xua đuổi tà ma, đem lại sự yên ổn.
Thổ Công là vị thần đứng đầu trong Ngũ Thổ Long Thần bao gồm Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Chủ, Thổ Phủ và Thổ Kỳ. Thường Thổ Công được lập miếu riêng, nhưng cũng có nơi thờ chung với các thần khác. Thổ Công vốn là vị thần long mạch của khu vực nền nhà hoặc nền khu đình thờ. Sau này được hiểu đại khái Thổ công là vị thần cai quản nhà cửa, đất đai, định đoạt họa phúc cho một gia đình hay cơ sở thờ tự nào đó. Người ta thờ Thổ công với mong cầu được ngài che chở, giúp chúng ta yên tâm về mặt tâm linh, tránh phạm phải long mạch vùng đất sinh sống cũng như ngăn chặn ma quỷ, tà ma quấy rối.
Có thể nói, Bạch Mã Thái Giám là một vị thần phật được dân gian hóa trong quá trình tích hợp tín ngưỡng giữa văn hóa Phật giáo – Ấn giáo và văn hóa Việt. Bạch Mã biểu trưng cho sự uy nghi, tượng trưng những đấng cứu thế trong các tôn giáo độc thần và đa thần xa xưa. Khi đi vào văn hóa Việt, Bạch Mã đã được thiêng hóa ở mức rất cao, chính vì vậy nên mới được triều Nguyễn phong làm Thượng đẳng thần. Càng về sau Bạch Mã Thái Giám được thờ chung với các vị thần dân gian khác như Tà Công, Thổ Công…nói trên, qua đó thể hiện tính chất hỗn dung trong văn hóa Việt theo dòng chảy lịch sử từ hơn ngàn năm nay.
ĐÀO THÁI SƠN
