Trịnh Hoài Đức – GIA ĐỊNH THÀNH THÔNG CHÍ (1820)
Hậu học LÝ VIỆT DŨNG (dịch và chú giải)
Tiến sĩ HUỲNH VĂN TỚI (hiệu đính, giới thiệu)
Quyển II a: SƠN XUYÊN CHÍ
– TRẤN BIÊN HÒA
ĐẠI PHỐ CHÂU 大舖洲
Tục gọi là Cù Lao Phố 庯, một tên gọi khác là Đông Phố 東浦 (Giản Phố) [34] cũng còn gọi là Cù Châu, bởi địa thế cù lao uốn mình khoanh duỗi hình như con cù bông giỡn nước, nên có tên như vậy. Cù lao nầy cách phía đông trấn độ 3 dặm, dài hơn 7 dặm, rộng bằng 2 phần 3 bề dài, như con kim ngư trấn nơi thủy khẩu, cây trụ đá ngăn sóng lớn cho trấn thành.
Phước Giang (sông Đồng Nai) quanh phía nam, sông Sa Hà (Rạch Cát) vòng phía bắc, thuở trước có chiếc cầu ván bắc qua sông rộng rãi bằng phẳng, thông đến trấn lỵ.
Hồi tháng giêng năm Đinh Mão (1747) đời vua Thế Tông Hiếu Võ hoàng đế thứ 10 Võ vương Nguyễn Phúc Khoát (Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 8; Đại Thanh Càn Long thứ 12) ([35][35]) có khách buôn xứ xa người tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) là Lý Văn Quang đến khách ngụ ở Đại Phố 大舖, thấy cảnh thái bình, võ bị lơ là, lòng mừng thầm, bèn lén lút kết bè đảng [7b] hơn 300 người tự xưng là Đông Phố (Giản Phố) đại vương 東浦大王, dùng Hà Huy làm ngụy Quân sư, Tạ Tam làm ngụy Tả đô đốc, Tạ Tứ làm ngụy Hữu đô đốc, âm thầm tính chuyện xằng bậy, định đánh úp dinh Trấn Biên, nhưng chỉ sợ Khâm sai Cai đội Cẩn Thận hầu Nguyễn Cư Cẩn là người có võ nghệ cao cường, nên chúng bàn mưu trước tiên phải giết ông Cẩn thì việc sẽ dễ thành như trở bàn tay. Nhân ngày tết Nguyên đán, chúng bèn phục binh ở trong phố, rồi đem hơn 50 tên dũng cảm bày y phục theo kiểu đi mừng lễ ngày xuân, đến mừng tuổi tại dinh Cẩn Thận hầu, thừa lúc ngài vô ý cử sự, cùng rút đoản đao trong tay áo chém Cẩn Thận hầu bị thương. Cẩn Thận hầu lăn xuống vọt chạy chụp lấy ngọn phốc đao trên giá binh khí ở vách, giết được 5, 6 tên giặc, chúng bèn rút lui, chạy ùa vào trại quân đoạt được một số thương dài, rồi từ hai phía đông tây đánh ép. Lúc ấy Cẩn Thận hầu đã bị trọng thương đuối sức, kéo đao đánh bước giật lùi, không ngờ cán đao bị vướng hàng rào cây khiến ông vấp ngã, [8a] liền bị giặc đâm chết. Thế rồi thuộc binh của ông liền đến tiếp ứng, quân giặc chạy về tụ tập chận cầu để chống cự. Quan Lưu thủ Cường Oai hầu họ Nguyễn điều lính thủy bộ của dinh dàn trận ở bờ bắc, đốt phá cầu ván để cứ thủ, không dám tiến qua đánh dẹp, rồi đưa hịch báo cáo cho Cai cơ Đại Thắng hầu Tống Phước ([36][36]) Đại ở đạo Mô Xoài để cùng hiệp binh đánh dẹp. Quan quân bắt được bọn Lý Văn Quang cùng bọn đầu sỏ hung ác 57 tên. Nhưng nghĩ chúng nó là người của Thiên triều (Thanh triều) không nên giết vội, bèn giam chúng vào ngục rồi đem việc ấy tâu lên.
Mùa đông năm Ất Hợi (1755), nhân có bộ hạ của Tổng đốc Mân Chiết (Trung Quốc) là Thiên tổng Lê Huy Đức, Bá tổng ([37][37]) Thẫm Thần Lang, Hồ Đình Phụng đi tuần thú Đài Loan, thuyền bị gió bão bạt đến nước ta, nhân đó phối hợp cùng tàu buôn để đưa họ về nước, tiện thể tháng 7 mùa thu năm Bính Tý (1756) (Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 17, Đại Thanh Càn Long thứ 21) soạn công văn và bản án kể rõ tội trạng của tặc đảng. Bọn tù phạm trừ những kẻ đã thọ thương bị bệnh chết, hiện còn đám Lý Văn Quang, [8b] Hà Huy, Tạ Tứ cộng 16 người, giao cả cho đoàn Lê Huy Đức lãnh giải về tỉnh Mân, trình lên quan Tổng đốc xét xử trị tội.
Từ đó cầu bị phá bỏ rồi dần dà cho đến khi Tây Sơn nổi loạn vẫn không sửa lại được, nay phải dùng đò đưa người qua lại. Đầu phía nam cũng có bến đò đưa ngang qua chợ Bình Tiên (tục gọi là chợ Lò Giấy, khi quân Tây Sơn vào cướp phá đóng ở đấy lại gọi chợ Đồn, thuộc đất thôn Bình Tiên), từ đó do đường bộ đến thành Gia Định.
([34][34]) Giản Phố (柬埔): Cù lao nầy nguyên có tên là Giản Phố châu, nhưng do chữ giản (柬) và chữ đông (東) tự dạng trông rất dễ lầm nên có lẽ đã bị đọc lầm.
([35][35]) Chú thêm của dịch giả về niên hiệu các đời vua tương ứng (Bt).
([36][36]) Bản VHN chép Tống Văn (文) Đại.
([37][37]) Thiên tổng (千總), Bá tổng (百總) là chức quan võ ở tam đại doanh có từ đời nhà Minh, do các quan có công to đảm nhiệm, nhưng về sau thì quyền chức dần dần bị xem nhẹ, đến đời Mãn Thanh thì chỉ là chức quan võ cấp thấp, lục quân và hải quân đều có cả, như Doanh thiên tổng.

DAI-PHO OU CU-LAO-PHO.
L’île de Dai-pho, vulgairement appelée Cu-lao-pho, est encore nommée Dong-pho, et enfin Cu-châu (île du dragon), à cause de ses nombreuses sinuosités, qui lui donnent la ressemblance d’un immense dragon dans l’eau. Cette île est située dans l’est de la citadelle 1, à plus de 3 lis de distance.
Elle a une longueur de 7 lis, et sa largeur est égale aux deux tiers de sa longueur. Elle est placée devant la citadelle comme un beau poisson d’or préposé à sa garde.
Elle forme dans la rivière une barrière de pierre suffisamment élevée pour la protéger.
Gabriel Aubaret (1863), Histoire et description de la Basse Cochinchine (pays de Gia-Dinh), Paris: Imprimerie Impériale, truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2008
. (tiếng Pháp)
LA NHA GIANG (SÔNG LA NGÀ)
Ở phía bắc thượng lưu Phước Giang, sông này phát nguyên từ núi Phố Chiêm 浦占山 thuộc trấn Thuận Thành chảy về nam. Lại từ núi Phố Chiêm chảy ra phía bắc gọi là sông Dã Dương rồi vòng quanh núi Cộp Cộp (nước sông chảy xiết cọ vào đá, tiếng kêu cộp cộp nên còn gọi là núi Sông Bập) chảy xuống đông rồi hợp lưu với nguồn Bàn Thạch ở trấn Phú Yên.
SA HÀ (RẠCH CÁT)
Tục gọi là Rạch Cát, ấy là bắc lưu của Phước Giang, cách phía đông trấn 3 dặm rưỡi. Sông này chảy quanh cù lao Đại Phố 大舖洲. Lại có tên là Hậu Giang, đầu phía tây nhiều khúc cạn, khi nước ròng thì lội bộ qua được.

- Lý Việt Dũng; Huỳnh Văn Tới (2004), Gia Định Thành thông chí, Việt Nam: Nhà xuất bản Tổng hợp Đồng Nai, Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 4 năm 2008, truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2008
- Bản in khắc gỗ lưu trữ tại thư viện Gallica https://gallica.bnf.fr/ark:/12148/btv1b10093307r
- Bản dịch của Lý Việt Dũng: https://cvdvn.net/2018/05/23/gia-dinh-thanh-thong-chi-trinh-hoai-duc/