Chân Lạp Phong Thổ Ký – doctor76 dịch

Nguồn: https://www.otofun.net/threads/dich-sach-co-chan-lap-phong-tho-ky.1677149/

Bản chữ Hán: https://zh.wikisource.org/wiki/%E7%9C%9F%E8%87%98%E9%A2%A8%E5%9C%9F%E8%A8%98

Bản chữ Hán trên ctext: https://ctext.org/wiki.pl?if=gb&res=764938

doctor76:

Nhân dịp đang rảnh, xin được giới thiệu với các cụ bản dịch sách cổ: Chân Lạp Phong Thổ Ký, đây là cuốn sách đã có tuổi đời hơn 800 năm.
Năm 1295, theo lệnh của vua Nguyên Thành Tông, một đoàn sứ giả của triều đình nhà Nguyên đã lên đường vượt biển đến Chân Lạp.

Chu Đạt Quan là một nhà ngoại giao, bên cạnh nhiệm vụ chính yếu được vua Nguyên giao phó, trong khoảng một năm lưu trú tại Chân Lạp, Chu Đạt Quan đã dành thời gian tìm tòi, quan sát về mọi mặt trong đời sống vật chất, tinh thần của cư dân ở nơi đây.

Dựa trên những thông tin, sự việc đã tiếp nhận được, ông tiến hành ghi chép, sắp xếp chúng thành một cuốn sách hoàn chỉnh với tên gọi Chân Lạp phong thổ ký (chữ Hán: 真臘風土 )
Là tư liệu hiếm hoi về Chân Lạp trong quá khứ, vì vậy, cuốn sách này được xem như một trong những nguồn tham khảo đặc biệt quan trọng quá khứ, nó hay hơn chính là những vùng đất ngày xưa Chu Đạt Quan đến còn thuộc về Chân Lạp, nay đã phần nhiều thuộc về Việt Nam.
Chu Đạt Quan, khác với nhiều người TQ khác, ông rất chịu khó tìm hiểu, quan sát, mô tả cụ thể về những sự vật sự việc mà bản thân đã được chứng kiến trong thời gian lưu trú và khám phá vương quốc Chân Lạp, Chu Đạt Quan còn bộc lộ những đánh giá, cảm nhận riêng của mình về những điều mắt thấy tai nghe với 1 giọng văn khá hiện đại, nhẹ nhàng, đôi lúc dí dỏm.

LỜI NÓI ĐẦU
Chân Lạp (真臘) theo cách phiên âm Hán Việt của tiếng Khmer ចេនឡា Chen La là một vương quốc cổ, nối tiếp của vương quốc Phù Nam, khoảng thời gia mà Chân Lạp tồn tại từ năm 550 đến năm 802.

Hiện tại, sử liệu về Phù Nam, Chân Lạp rất ít ỏi, người ta hầu như không biết nhiều về tổ chức chính trị, cuộc sống, kinh tế, lịch sử…ngoại trừ những tấm bia chữ Sanskrit còn lại rải rác…, vài thư tịch cổ của Trung Hoa.

Không giống như các quốc gia khác ở Đông Á vốn chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa (Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam), hoặc là 1 sắc tộc Thái di cư từ Vân Nam xuống mang theo văn hóa Thái (Lào, Xiêm La…) Phù Nam và sau này là Chân Lạp, Chămpa rồi vương quốc Khmer lại chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn hóa Ấn Độ, gần như 1 bản sao của nền văn minh Ấn Độ tại Đông Nam Á.

Chân Lạp sau này phân ra thành Thủy Chân Lạp và Thổ Chân Lạp, mà lãnh thổ của nó bao gồm phần lớn lãnh thổ của Campuchia, Việt Nam, Lào, Thái Lan và Myanmar hiện tại.

Một nền văn minh rực rỡ và huy hoàng, tuy nhiên nó đã sớm lụi tàn trước sự phá hủy khủng khiếp đến từ những quốc gia lân cận, đó là quân Xiêm và Chăm Pa, rồi Đại Việt cũng thôn tính hầu hết Thủy Chân Lạp, lập ra vùng đồng bằng Nam Bộ bây giờ, nếu như ở Campuchia, Thái Lan, hay Lào, ít nhiều bản sắc Khmer còn được bảo tồn, thì ở Vn, nền văn minh Chân Lạp hầu như không còn tồn tại, thi thoảng người ta còn đào được cài bia ký, các tượng, đồ gốm, một vài vật dụng…

Một cuốn sách hiếm hoi mô tả tương đối đầy đủ về đế quốc Khmer lúc ấy chính là cuốn: Chân Lạp phong thổ ký của Chu Đạt Quan (周達觀) thời nhà Nguyên, khi ông theo đoàn sứ giả ngoại giao đến kinh đô Angkor.

Ông được biết đến nhiều nhất với cuốn sách mô tả về phong tục của Campuchia và các khu phức hợp đền thờ Angkor trong chuyến thăm. Ông đến Angkor vào tháng 8 năm 1296, và ở lại triều đình của Vua Indravarman III cho đến tháng 7 năm 1297. Ông không phải là người đầu tiên và cũng không phải là đại diện cuối cùng của Trung Quốc đến thăm Đế quốc Khmer. Tuy nhiên, thời gian lưu trú khá dài là đáng chú ý vì sau đó ông đã viết một bản tường thuật chi tiết về cuộc sống ở Angkor, Phong tục Khmer. SÁch của ông ngày nay là một trong những nguồn sử liệu quan trọng nhất về lịch sử Angkor và Đế quốc Khmer. Bên cạnh những mô tả về một số ngôi đền lớn, như Bayon, Baphuon, Angkor Wat, và những người khác, văn bản cũng cung cấp thông tin có giá trị về cuộc sống hàng ngày và thói quen của người dân ở Angkor.

Chu Đạt Quan, hiệu là Thảo-Đình Di Dân (người dân TQ gốc Hán, lúc này TQ bị nhà Nguyên đô hộ) quê ở Vĩnh Gia, huyện Ôn Châu, tỉnh Triết Giang. Năm thứ 2 niên hiệu Nguyên Trinh (tức năm Bính Thân 1296) triều Vua Thành- Tông (1295-1308) nhà Nguyên (1277-1368) theo một phải đoàn sứ giả sang Chân Lạp dưới triều Vua Cindravarman (1295-1307).

Là một thành viên của một phái đoàn chính thức được gửi bởi vua Nguyên Thành Tông vào năm 1296, mặc dù các hồ sơ chính thức của Trung Quốc không đề cập đến nhiệm vụ của ông. Vào ngày 20 tháng 2 năm 1296, Chu đi thuyền từ Minh Châu (明州, ngày nay là Ninh Ba) ở tỉnh Chiết Giang, trên một chiếc tàu dẫn đường bằng la bàn, đi qua các cảng Phúc Châu, Quảng Châu, Tuyền Châu, đảo Hải Nam, Bảy Đảo Biển (Quý Châu), biển ngoài khơi miền Trung Việt Nam (biển Giao Chỉ), và dừng lại ở Chiêm Thành hoặc Champa ( nay là Quy Nhơn). Con tàu nối lại chuyến đi qua tỉnh Chân Bồ (Bà Rịa-Vũng Tàu ngày nay), qua biển Poulo Condor ( Côn Đảo), sau đó đi về phía bắc trên sông Mê Kông vào sông Tonle Sap tới thị trấn Kampong Chhnang của Campuchia; Từ đó, ông lên một chiếc thuyền nhỏ, đi thuyền trong hàng chục ngày, qua hồ Tonle Sap đến Yaśodharapura (Angkor Thom), thủ đô của Campuchia vào tháng Tám.

Là một quan chức ngoại giao, Chu được tiếp cận Cung điện Hoàng gia, mặc dù không ở trong cung. Ông mô tả các cung điện và đền thờ, cùng với các tòa nhà trong và xung quanh thành phố. Ông quan sát các cuộc diễu hành và các nghi lễ cũng như cuộc sống hàng ngày của người dân, và ông cũng đi du lịch bên ngoài thủ đô đến vùng nông thôn. Trong phần lớn thời gian ở Campuchia, ông sống trong một ngôi nhà gần cổng phía bắc của Angkor Thom.

Quyền sách duy- nhất mô tả vùng Angkor, đế đô vương quốc Khmer, nhưng Chu Đạt Quan vẫn dùng cái tên Chân Lạp, theo cách gọi mà người TQ đã quen từ ngày xưa

Ông ở đất Khmer hơn một năm, ghi những điều mẩt thấy tai nghe về cuộc du hành xuyên qua miền Nam Việt Nam ngày nay và mọi phương diện sinh hoạt của người bản xứ. Năm thứ nhất niên hiệu Đại Đức (Đinh Dậu 1297), ông trở về và hoàn thành tảc phầm này trước năm 1312, đến đời nhà Minh được ông Ngô Quán, quê ở Tân An, huyện Hấp, tinh An Huy hiệu đính.

Quyển sách này tuy nhỏ nhưng là một tài liệu vô cùng quý giá để tìm hiều về Chân Lạp, một quốc gia không để lại nhiều lịch sử trên giấy mực.

Không thể biết chắc ông Chu Đạt Quan viết quyển Chân lạp phong thổ ký vào lúc nào, ông không có đề ngày tháng trong bài tựa, tuy nhiên có thề tin rằng ông hoàn thành ít lâu sau chuyển công du sang Chân Lạp khoảng năm 1296-1297, quyển sách đã được phổ biến vài năm sau đó ở tỉnh Triết Giang, quê hương của tác giả.

Đáng tiếc, hiện nay không còn nguyên bản của cuốn sách này, tác phẩm còn tồn tại đến ngày nay được cho là một phiên bản rút gọn, có lẽ chỉ chiếm khoảng một phần ba kích thước ban đầu. Vào thế kỷ 17, các học giả đã lưu ý đến sự tồn tại của hai phiên bản của tác phẩm, một bản triều Nguyên, bản còn lại bao gồm trong một tuyển tập triều nhà Minh có tên Cổ Kim Thuyết Hải. Phiên bản Minh được mô tả là “lộn xộn và lộn xộn, sáu hoặc bảy phần mười của nó bị thiếu, hầu như không tạo thành một cuốn sách nào cả”. Bản gốc của tác phẩm không còn tồn tại và các phiên bản còn tồn tại dường như chủ yếu dựa trên phiên bản rút gọn của nhà Minh.

PHẦN II. NỘI DUNG SÁCH

TỔNG TỰ (總敍)


Nước Chân Lạp cũng gội là Chiêm Lạp. Tên bản xứ là Cam Bội Trí (甘孛智 tức là Cambodia). Triều đại hiện thời căn cứ vào kinh sách Tây Phiên (TQ hồi ấy gọi các quốc gia chưa thấm nhuần văn minh là Tây Phiên) gọi tên nước là Cầm Phố Chỉ (澉浦只 Kampuchia) đọc ra gần giống như Cam Bội Trí

Rời bến Ôn Châu ở Triết Giang và thẳng hướng Đinh Vị (Nam-Tây-Nam) chúng tôi đi qua hải cảng của các châu Phúc Kiến tỉnh Quảng Đông và hải ngoại. Chúng tôi vượt biển Bảy Hòn đảo (Thất Chu Dương, Đảo Taya, hồi ấy được coi là biên giới giữa TQ và VN) đi ngang biền An Nam (Giao Chỉ Dương ) và đến xứ Chiêm Thành ( Chiêm Thành hồi ấy do vua Chế Mân cai trị, đóng đô ở Ban Angué, khu vực Quy Nhơn ngày nay, tên vua viết theo tiếng Chăm-pa là Jaya Sinhavarman III, người châu Âu đầu tiên đến đây chính là Marco Polo,ông viết tên vua là Acrambale)

Ở đấy, nhờ thuận gió, trong vòng mười lăm ngày ta có thề đễn thị trấn Chân Bồ (chính là Bà Rịa-Vũng Tàu ngày nay), đó là biên-giới xứ Chân Lạp.

Đoạn, từ Chân Bồ theo hướng Khôn- Thân (Tây-Nam- 1/6 Nam), chúng tôi đi ngang qua biền Côn Lôn (tức là Côn Đảo ngày nay) và vào cửa sông. Sông này có hàng chục ngả, nhưng ta chỉ có thề vào được cửa thứ tư ( cửa Tiền Giang-Mỹ Tho ngày nay), các ngả khác có nhiều bãi đất cạn, thuyền lớn không thể đi được, nhìn lên bờ, chúng tôi thấy toàn cây mây cao vút,cây cổ thụ, cát vàng, lau sậy trắng, nhìn thoáng qua không dễ gì biết được đi lối nào, thế nên các thủy thủ cho rằng rất khó mà tìm đúng cửa sông.

Từ đó, thuận dòng nước tiến lên hướng Bắc khoảng mười lăm ngày, chúng tôi vào một lãnh thổ tên là Tra-Nam (tỉnh Kompong Chnang của Campuchia ngày nay) một trong những tỉnh của Chân Lạp.

Ở Tra Nam, chúng tôi sang một chiếc thuyền nhỏ, thuận dòng đi qua Bán Lộ Thôn ( không rõ ở đâu) và Phật Thôn ( tỉnh Pursat của Campuchia ngày nay, từng là lãnh thổ Vn, gọi là Gò Sặt), vượt biển nước ngọt Đạm Dương ( tức là vùng Biển Hồ, Tonlé Sap) hơn mười ngày đến một nơi gọi là Can Bàn ( phiên âm tiếng Khmer: Kompong nghĩa là bến ghe đậu, như Kompong Thom, Kompong Luong…đây là 1 bến đậu ghe thuyền trên bờ Biển Hồ thuộc Siêm Riệp, từ đây người thời đó đi bộ đến kinh đô Angkor) cách châu thành năm mươi lý (đơn vị đo của TQ cổ rất khó xách định chính xác, từ trước nhà Thanh thì mỗi lý = 500m = 1800 thước mộc, 1 thước mộc = 0,3126m, 1 dặm = 90 lý).

Theo quyển Chư Phiên chí (sách của Triệu Nhữ Quát, một lái buôn TQ ở Tuyền Châu, nói về các nước man di ngoài TQ, in năm 1225) thì lãnh thồ rộng 7.000 lý. Phía Bắc, ta đi mười lăm ngày tới nước Chiêm Thành, phía Tây Nam, đi mười lăm ngày tới nước Triêm La (Siam -tức là Thái Lan bây giờ), phía Nam đi mười ngày tới Phiên Ngu (không biết bây giờ là đâu) và phía Đông là đại dương. Từ lầu rồi quốc gia này giao thương với chúng ta.

Khi Thánh Triều (tức là nhà Nguyên) lãnh mạng trời mở rộng vương quyền khắp bốn biền và Nguyên Soái Toa Đô bình định nước Chiêm Thành ( Toa Đô chiếm Chiêm Thành năm 1821), người phái một vị “Hổ phù bá hộ” (chức quan võ của TQ, mang cái thẻ bài trạm hình đầu hổ, chỉ huy 100 quân, chỉ huy 1000 quân thì gọi là Phủ Hồ Thiên Hộ, 10.000 quân gọi là Phủ Hồ Vạn Hộ) và một vị Kim bài thiên hộ ( tước quan võ nhà Nguyên, quan võ chỉ huy 100 quân mang thẻ bài bằng bạc, chỉ huy 1000 quân mang thẻ bài bằng bạc mạ vàng, chỉ huy 10.000 quân mang thẻ bài bằng vàng phía trên có chạm đầu Sư tử) cùng đến đất này nhưng cả hai đều bị bắt và không thấy trở về.

Tháng sáu năm Ất-vị niên hiệu Nguyên Trinh (khoảng từ 14-7 đến 11-8-1295) Thiên Tử Thánh Vương phái một vị Sứ giả chiêu-dụ dân chúng quốc gia này và cử tôi theo phái đoàn.

Tháng hai năm sau, Bính Thân (khoảng từ ngày 5-3 đến 3-4-1296) chúng tôi rời huyện Minh Châu (Ninh Ba, Triết Giang) vào ngày 20 (ngày Dương Lịch là 24-3-1296), chúng tôi rời bến Ôn Châu ra đại dương.

Ngày mười lăm tháng ba (DL 18-4-1296) chúng tôi ghé Chiêm Thành. Lúc đi đường, chúng tôi gặp gió ngược mới đến nơi vào mùa thu, tháng bảy (khoảng từ ngày 1 đến 29-8-1296). Chúng tôi triều kiến Quốc vưong (Chân Lạp) và trở về thuyền nhổ neo trong tháng sáu năm Đinh Dậu niên hiệu Đại Đức (khoảng từ ngày 21 -6 đến 20-7-1297).

Ngày mười hai thảng tám (DL 30-8-1297) chúng tôi cặp bển Tứ Minh (tên một trấn ở gần huyện Thượng Ngu cũng thuộc Ninh Ba, Triết Giang).

Không chắc rằng chúng tôi biết rõ tất cả chi -tiết về phong tục và sự việc xẩy ra trong quốc gia này, nhưng ít ra chúng tôi cũng có thề phân- biệt được những điềm đại lược.

THÀNH QUÁCH (城郭)
Bức tường quanh thành phố dài có chiều dài khoảng hai mươi lý, có năm cửa ra vào, mỗi cửa có hai lớp. Vách thành về hướng Đông có hai cửa, ba mặt kia mỗi mặt có một cửa mà thôi. Ngoài vách là một cái hào to, ngoài hào có cầu lớn nối liền các con đường lớn. Mỗi bên cầu có năm mươi bốn tượng Thần bằng đá hình dáng giống các vị “Thạch tướng quân” rất lớn và dữ tợn. Cả năm cửa đều giống nhau. Bao lơn cầu toàn bằng đá, tạc hình rắn chín đầu (tượng này hiện vẫn còn, nhưng đúng ra rắn chỉ có 7 đầu thôi). Năm mươi bốn tượng Thần giữ con rắn bằng tay và có vẻ ngăn không cho nó trốn. Trên mỗi cửa thành có năm đầu tượng Phật lớn bằng đá, bốn mặt xây theo bốn hướng, đầu ở giữa có khảm vàng. Hai bên cửa người ta chạm hình voi trên đá.

Vách tường xây toàn bằng đá nguyên khối chồng chất lên nhau, bề cao khoảng hai trượng (1 trượng =3,33 mét). Đá chất rất khít khao, chặt chịa, cỏ dại mọc không được. Không có một lỗ chân mai nào cả. Trêu bờ thành người ta trồng cây quáng lang (có lẽ là cây Thốt nốt?) vài nơi. Từng khoảng từng khoảng có nhiều căn phòng bỏ trống. Phía trong vách tường giống như một cái lề xiên xiên rộng hơn mười trượng. Trên mỗi lề có cửa lớn, đêm đỏng, ngày mở, có người giữ cửa. Có lệnh cấm không cho chó chạy vào.

Tường thành là một hình vuông thật đều nhau, trên mỗi góc có một ngôi tháp bằng đá. Những tội phạm bị chặt ngón chân không được vào thành.Ngay trung tâm thành phố ( đây tác giả đang miêu tả Angkor Thom, nơi triều đình Chân Lạp đóng),có một ngôi tháp bằng vàng (Bayón, là ngôi đền bằng đá có nhiều tượng Thần bốn mặt thật lớn, ngôi tháp bằng vàng ờ giữa đã được các vua Chân Lạp dời kinh đô Angkor hoặc có thể bị quân Xiêm cướp mất), xung quanh có hơn hai mươi ngôi tháp bằng đá và hàng trăm căn nhà bằng đá. Ở hướng Đông có một cấy cầu bằng vàng; hai tượng sư tử bằng vàng đề bên mặt và bên trái đầu cầu; tám tượng Phật bằng vàng để phía dưới những căn nhà đá. Cách ngôi tháp bằng vàng khoảng một dặm về phía Bắc có một ngôi tháp bằng đồng (Tức là tháp Baphuon) cao hơn ngôi tháp vàng, ngắm thật đẹp mắt; dưới chân tháp bằng đồng cũng có hơn mười căn nhà đá.

Cách đó khoảng một dặm cũng về hướng Bắc là cung điện của nhà Vua, trong cung còn có một ngôi tháp bằng vàng nữa. Chúng tôi nghĩ rằng lời tán tụng “nước Chân Lạp giàu và cao nhã” mà các thương gia hải ngoại (dịch thoát từ Bá thương, chỉ các thương gia TQ đi buôn bán bằng thuyền lớn đến các quốc gia khác) thường nhắc nhở là do những ngôi tháp ấy ( sau này,tất cả tượng Thần, ngôi tháp, cây cầu, tượng sư tử bằng vàng đều bị quân Xiêm và Chiêm Thành vơ vét khi lấn công vào Angkor. Có thuyết cho rằng Vua CHân Lạp lúc chạy loạn đã bỏ nhiều của cải dưới hồ Baray ở hưởng Tây).

Ngôi tháp bằng đá (Phnom Bakheng) ờ ngoài cửa thành hướng Nam nửa dặm, người ta thuật lại rằng ông Lỗ Ban, vị kiến trúc sư Trung Hoa theo huyền thoại đã xây cất trong một đêm. Ngôi mộ của ông Lỗ Ban (ở Angkor Wat) ở ngoài cửa Nam quãng một dặm, trong một vòng thành gần mười dặm, có hàng trăm căn nhà bằng đá.

Hồ nước Đông (thực ra là ở phía Tây) ở cách châu thành mười dặm về hướng Đông. Giữa hồ có một ngôi tháp và nhiều căn phòng bằng đá (thực ra đền Mébon ở hướng Tây). Trong tháp có một tượng Phật nằm bằng đồng, tại lỗ rốn nước vọt ra không ngừng.

Hồ nước Bắc (hồ này hiện không còn, đã hóa thành rừng, chỉ còn lại ngôi đền Néak Pean) ở cách châu thành năm dặm về hướng Bắc. Giữa hồ có một ngôi tháp vuông (tức là đền Néak Pean bây giờ) và hàng chục căn phòng bằng đá. Tượng sư tử bằng vàng, tượng Phật bằng vàng, tượng voi, bò, ngựa bằng đồng đều có tại đó.

CUNG ĐIỆN (宫室)

Cung điện nhà Vua cùng các công sở và dinh thự quí phái đều xây cửa về hướng Đông. Cung Vua  về phía Bắc ngôi tháp và cây cầu bằng vàng  gần cữa ra vào, bề dài vòng quanh cung khoảng năm hay sáu dặm. Ngói lợp gian chính của cung Vua bằng chì, trên nóc các điện khác của Hoàng cung đều lợp ngói làm bằng đất sét màu vàng. Những cây xà ngang và cột thật lớn đều có chạm hình Đức Phật và sơn màu. Nóc cung thật là hoành tráng (dịch thoát câu 屋頗壯觀: Ốc đầu trang quán). Những mái hiên dài, những con đường hẹp có mái che xây thẳng tắp và so le thật là tinh-xảo và quy mô, tuy có đôi phần không điều hòa (dịch thoát cụm từ 稍有規模, xảo hữu quy mô). Tại đây, nơi nhà Vua thiết triều có một cửa sổ bằng vàng, bên mặt và bên trái của khuôn cửa, trên những cây cột vuông có từ bốn mươi đến năm mươi tấm kính treo bên cạnh cửa. Phần dưới cửa là hình voi.

Tôi nghe nói ở trong cung có nhiều nơi lạ lùng lắm, nhưng lệnh cấm vô cùng nghiêm nghặt và tôi không thể nào thấy được.

Ban đêm, nhà Vua ngủ trên chót ngôi tháp bằng vàng ở giữa cung. Tất cả dân chúng, tin chắc rằng trong tháp có một vị Thần là con rắn chín đầu, chúa tể cả giang sơn. Mỗi đêm Thần biến thành đàn bà đến ân ái với nhà Vua trước. Các bà vợ Vua cũng không dám vào. Canh hai, nhà Vua ra khỏi phòng, bấy giờ mới có thề ngủ với Hoàng Hậu hoặc các cung phi. Nếu đêm nào vị Thần không xuất hiện đó là ngày chết của nhà Vua (nguyên văn Phiên Vương 番王, xưa nay TQ luôn coi vua các nước là dưới Hoàng Đế TQ 1 bậc) đã đến. Nếu nhà Vua vắng mặt trong một đêm, chắc chắn ngài sẽ gặp một tai họa ( Theo truyền thuyết Khmer, Hoàng tử Prah Thong cưới công chúa con vua Thủy tề là rắn 9 đầu, sau đó vua Thủy tề đã hút cạn nước để tạo ra vương quốc Chân Lạp, nên vua nào sau này cũng phải lấy 1 công chúa rắn).

Dinh thự của các vị Hoàng-thân và các quan lớn xây cất khác kiểu hơn nhà dân chúng. Tất cả phần bên ngoài đều lợp tranh, chỉ có nơi thờ phụng của gia đình và gian phòng chính có thể lợp ngói. Ngạch trật quân, công chính thức hạn định khuôn khổ căn nhà từng người.

Nhà của dân chúng chỉ lợp tranh, họ không dám đề trên nóc nhà họ một miếng ngói nào cả. Kích thước ngôi nhà tùy theo tài sản của từng người, nhưng không bao giờ họ dám bắt chước kiều nhà của hạng quí tộc.

PHỤC SỨC (服飾)
Tất cả mọi người, bắt đầu từ nhà Vua, đàn ông và đàn bà đều bới tóc đề vai trần. Họ chỉ quấn giản dị ngang lưng một miếng vải. Khi ra đường, họ quấn thêm một mảnh vải lớn chồng lên miếng nhỏ. Có nhiều qui tắc dùng hàng vải tùy theo phầm trật của mỗi người. Trong các loại hàng của nhà Vua mặc có loại giá từ ba đến bốn lượng vàng thật lộng lẫy và xinh đẹp vô cùng. Mặc dầu người trong nước cũng có dệt hàng vải và có mua của nước Xiêm và Chiêm Thành nhưng loại dệt khéo và mảnh dẻ được quí trọng nhất thường ở Ấn Độ đưa đến.

Chỉ có nhà Vua mới có thề mặc hàng vải thêu dính liền nhau. Ngài đội một cái mão bằng vàng giống như mũ trên đầu các tượng Phật Kim Cương (thực ra là tượng thần Bà La Môn). Đôi khi Ngài không đội mão chỉ quấn một vòng hoa mùi hoa nhài xung quanh đầu tóc. Trên cổ, Ngài đeo hột trai thật lớn nặng cỡ ba cân (1 cân = 0,250g). Ở cổ tay, cổ chân và ngón tay, Ngài đeo vòng và nhẫn vàng, tất cả đều là ngọc mắt mèo. Nhà Vua đi chân không. Gan bàn chân và lòng bàn tay của Ngài nhuộm thuốc màu đỏ (tục lệ này không có ở Campuchia ngày nay). Khi ra ngoài, Ngài cầm một thanh gươm vàng (Gươm vàng gọi là Prak Khan bièu hiệu của nhà Vua, tương truyền do thần Indra -Vị Thuợng đế của đạo Bà la môn- tặng cho các vua Chân Lạp, bề dài khoảng 1m, cán bằng vàng, lưỡi bằng sắt, gần cán có chạm nổi hình 3 vị Thần Ấn Độ là Indra, Visnhou, Civa, vỏ gươm nạm vàng. Vị Quổc vương kế nghiệp nhận gươm trong ngày lễ đăng quang và cầm theo lúc ra ngoài thành.

Trong dân gian, chỉ có đàn bà được nhuộm gan bàn chân và lòng bàn tay, đàn ông không dám nhuộm. Các vị quan to và các Hoàng thân được mặc hàng vải thêu hoa thưa. Các quan lại tầm thường chỉ được mặc hàng vải thêu hai khóm hoa. Trong dân gian chỉ có đàn bà được phép mặc các loại hàng ấy. Nhưng nếu có người Tàu mới đến mà mặc loại hàng có hai khóm hoa người ta cũng không dám buộc tội vì lẽ “ám đinh bát sát”. Ám đinh bát sát là không biết luật lệ (đoạn này tác giả dùng tiếng Hán Triết Giang, có lẽ là luật lệ hồi ấy).

QUAN THUỘC (官屬 Quan chức)
Trong nước này cùng có thừa tướng, tướng soái (đoạn này tác giả có lẽ không thạo tiếng Khmer nên không thể biết chính xác tên các chức quan Chân Lạp), quan coi thiên văn và các quan chức khác, dưới họ có nhiều hạng chức việc nhỏ, chỉ có danh xưng khác với tên gọi của chúng ta. Đại thể thì chỉ có các vị Hoàng thân được giao phó trách nhiệm, nếu không, người được chọn làm quan phải nộp con gải làm phi tần. Khi các quan chức ra ngoài, những biểu hiệu và đoàn tùy tùng được quy định theo cấp bậc của mình. Các vị quan lớn ngồi trên kiệu gọng khiêng bằng vàng cỏ bốn cây lọng cán vàng; các quan kế tiếp ngồi kiệu gọng vàng và một cây lộng cán vàng, dưới nữa là quan chỉ có một cây lọng cán bằng bạc, và cũng có quan ngồi kiệu gọng khiêng bằng bạc. Quan chức nào được che lọng vàng gọi là Ba Đinh (巴丁) hoặc Ám Đinh (暗丁), quan nào được che lọng bạc gọi là Tê Lạc Đích (廝辣的) (những chức quan này không biết là gì ở Chân Lạp lúc ấy). Tất cả lọng đều làm bằng loại vải mỏng màu đỏ của người Tàu và thân lọng buông dài tới đất. Loại lọng nhúng dầu đều làm bằng vải mỏng màu xanh lá cây và thân lọng ngắn.

TAM GIÁO (三教)
Các nhà học giả gọi là Ban Cật (班詰, tiếng Phạn là Panditta, nghĩa là các tu sỹ Bà La Môn), Sư sãi gọi là Đinh Cô 苧姑, tiếng Khmer là Chaoku), tín đồ đạo giáo gọi là Bát-ti-duy (八思惟 , đây là tác giả phiên âm tiếng Khmer cổ sang tiếng Hán, bây giờ đành chịu không dịch được rõ).

Đối với giới học giả, tôi không biết họ tự xưng theo kiều nào, theo nguồn gốc nào, cũng không nghe nói học ở trường nào và cũng khó biết được họ đọc sách gì. Tôi chỉ thấy họ ăn mặc như mọi người ngoại trừ một đoạn dây nhỏ bằng chỉ trắng cột trên cổ là dấu hiệu đặc biệt của giới này. Các nhà học giả phục vụ Triều đình thường làm quan lớn. Đoạn dây cột ở cổ được họ đeo luôn suốt đời.

Các sư sãi cạo trọc đầu, mặc áo vàng, đề trần vai mặt, phía dưới thân họ vận một cái chăn vải vàng và đi chân không. Chùa của các nhà sư có thể được lợp ngói. Giữa chùa chỉ có một tượng giống hệt Đức Thích-Ca Mâu-Ni và người ta gọi là Bột Lại (tiếng Khmer là Preah, tác giả phiên âm sang tiếng Hán). Tượng mặc áo đỏ, tạc bằng đất sét, người ta sơn nhiều màu; ngoài ra không có tượng nào khác. Các tượng Phật đề trên tháp khác hẳn tượng này, tất cả đều đúc bằng đồng, không có chuông, trống, chập chỏa, lá phướng, tàn kiệu, vân vân… (tác giả không biết Phật giáo ở Chân Lạp, Lào, Thái Lan…là Phật Giáo nguyên thủy Tiểu Thừa, khác nhiều so với TQ).

Nhà sư ăn cá và thịt nhưng không uống rượu. Trong lễ vật cúng Phật người ta cũng dùng cá và thịt. Sư dùng cơm mỗi ngày một lần tại nhà người dâng cúng; trong chùa không có bếp nấu. Kinh sách sư đọc có rất nhiều, tất cả đều viết trên lá gồi chồng lên nhau thật đều đặn. Các nhà sư viết chữ đen trên lá ấy, nhưng vì sư không dùng viết và mực nên tôi không biết sư viết bằng vật gì (người Khmer lúc ấy dùng kim viết trên lá gồi, sau đó họ xoa nhọ nồi hoặc bột đen, nét chữ sẽ lộ ra). Vài vị sư có quyền ngồi võng và che lọng với gọng khiêng và cáng bằng vàng hay bạc (Vua Sãi, vị sư coi sóc giáo phái trong toàn cõi Khmer); nhà Vua tham khảo ý kiến của vị Sư này khi có việc quan trọng. Không có ni-cô Phật giáo.

Tín đồ đạo giáo (thực ra là đạo Hindu, Bà La Môn, tác giả nhầm sang Đạo giáo TQ) ăn mặc hoàn toàn giống mọi người, ngoại trừ trên đầu có đội một miếng vải đỏ hoặc vải trắng theo kiều khăn Cổ-cô (罟姑) của phụ nữ Mông Cổ, nhưng hơi thấp hơn. Họ cũng có đền thờ nhỏ hơn chùa Phật, đó là vì tín đồ đạo giáo không được đông đảo như sư sãi theo Phật giáo. Họ không thờ tượng nào ngoài một cục đá (tức là Linga, tảng đá hình dương vật thần Shiva) giống như cục đá ở bàn thờ Thờ Thần ở Trung Hoa. Đối với họ tôi cũng không biết họ tu theo nguồn gốc nào. Có tín đồ phụ nữ. Đền thờ đạo giáo có thề được lợp ngói. Tín đồ không dùng cơm của kẻ khác, không ăn uống nơi công cộng. Họ không uống rượu. Tôi không được nghẹ họ tụng kinh và không thấy họ làm công quả cho mọi người.

Trẻ con ngoài đời trước tiên đều vào trường học (ở Champa, Chân Lạp, Lào, Xiêm…mỗi ngôi chùa Phật có một 1 lớp học đo sư sãi dạy. Trẻ con trong làng đều vào học chữ và kinh kệ) do các vị sư sãi dạy dỗ. Đến tuổi trưởng thành chúng trở về cuộc sống thế tục. Tôi không thề quan sát tất cả từng chi tiết.

NGƯỜI DÂN (人物)
Dân chúng ở đây theo tôi biết cũng gần như phong tục của giống man di Về dung mạo thì thô lỗ, xấu xí và thật đen. Đó không phải chỉ là trường hợp của những người cư ngụ trong vùng biệt lập trên các hòn đảo ngoài biển, mà đối với những kẻ  tại các bộ lạc thông thường chắc chắn cũng giống như vậy. Về phần các bà ở trong cung và phụ nữ các nhà quí phái, nếu có nhiều người trắng như ngọc thạch là vì họ không thấy ánh sáng mặt trời. Toàn thể đàn bà cũng như đàn ông chỉ mặc một mảnh vải quấn ngang hông, đề trần bộ ngực trắng như sữa, búi đầu tóc và đi chân không; các bà vợ Vua cũng ăn mặc như vậy. Nhà Vua có năm vợ, một bà ở cung chính giữa và bốn bà ở bốn hướng, còn về phần cung phi và thị nữ trong cung, tôi nghe nói ba ngàn đến năm ngàn phân ra nhiều hạng; các bà ít khi ra khỏi cung.

Mỗi lần tôi vào triều kiến nhà Vua, Ngài luôn luôn ngự ra với bà vợ thứ nhất và ngồi trong khuôn cửa sổ vàng của ngôi điện chính. Các bà trong cung đều đứng thành hàng có thứ tự hai bên mái hiên và phía dưới cửa sổ, nhưng lại đổi chỗ và tựa vào cửa để nhìn chúng tôi, nhờ đó tôi có thề ngắm họ rõ ràng.

Gia đình nào có con gái đẹp, tất được triệu nạp vào cung. Dưới các cung phi là những bà phụ trách việc đi lại cho cung Vua gọi là Trần Gia-lan (陳家蘭, không rõ là gì) tổng số không kém một hay hai ngàn. Tất cả đều có chồng và sống trong dân chúng khắp nơi, nhưng trên trán họ cạo tóc theo lối người phương Bắc “mở đường nước” (tức là chải tóc rẽ 2 để đường ngôi ngay giữa đầu). Họ thoa phầm đỏ chỗ cạo ấy và hai bên màng tang, đó là dấu hiệu đặc biệt của họ. Chỉ có các bà này mới được vào cung, tất cả người nào thuộc hạng dưới họ không vào được. Họ đi liên tiếp không ngừng trên các con đường phía trước và phía sau cung Vua.

Phụ nữ bình dân búi đầu tóc nhưng không dắt trâm, không có lược, không có đồ trang sức gì cả. Họ đeo vòng vàng ở cổ tay, nhẫn vàng ở ngón tay, cả những cung phi và các bà ở trong cung đều đeo như vậy. Đàn ông và đàn bà luôn luôn xức dầu thơm mùi bạch đàn, xạ hương và các mùi khác. Tất cả gia đình đều thờ Phật (phản ánh rất quan trọng việc xã hội Khmer lúc ấy đã chuyển đổi mạnh từ Ấn Độ giáo sang Phật giáo).

Trong nước này có rất nhiều nhóm Nhị Hình Nhân (二形人, là các cô gái làm nghề mại dâm, hoặc những người đồng tính) hằng ngày đi từng nhóm mười tên hoặc nhiều hơn trên phố xá, chợ. Thường thường bọn chúng tìm cách quyến rũ người Tàu (nguyên văn Đường Nhân 唐人, người TQ coi thời Đường là mẫu mực, nên nói Đường nhân là nói người Hán) đề lấy những món quà quý giá. Thật là xấu xa, thật là đê tiện.

SẢN PHỤ (產婦)​
Vừa mới sinh con xong, người phụ nữ bản xứ lấy cơm nóng lăn muối để vào bộ phận sinh dục. Sau một ngày một đêm, sản phụ lấy miếng cơm ra. Nhờ đấy sự sinh nở không biến chứng gì tai hại và giúp sản phụ trở lại như một cô gái còn trinh. Khi mới nghe lần đầu, tôi ngạc nhiên và không tin. Nhưng khi người con gái trong gia đình tôi trọ sinh con, tôi được dịp hỏi đầy đủ chi tiết, hôm sau, cô ta bồng đứa bé xuống sông tắm, thật hết sức lạ lùng.

Ngoài ra tất cả những người tôi quen đều nói rằng đàn bà xứ này rất đa- tình. Một hay hai ngày sau khi sanh nở, họ gần chồng ngay. Nếu người chồng không đáp lại sự đòi hỏi của họ thì sẽ bị bỏ rơi như ông Mãi Thần (điển cố TQ, Chu Mãi Thân mất năm 116 TCN, là một tiều phu bị vợ bỏ vì nghèo. Sau ông được làm quan, bà vợ đến xin tái hợp, ông đổ chén nước xuống đất bảo hốt lại được thì ở. Bà vợ xấu hổ thắt cổ chết)

Nếu người chồng có việc phải đi xa vài đêm thì được, nhưng quá mười đêm, người vự tất nhiên phải nói: “Tôi không phải là một hồn ma, làm sao tôi có thề ngủ một mình được?”

Bản tính dâm đãng của họ rất mãnh liệt, tuy nhiên, tôi cũng nghe nói có người giữ được trinh tiết với chồng. Phụ nữ rất mau già có lẽ vì họ lấy chồng và sinh sản quá sớm. Năm hai mươi hoặc ba mươi tuổi họ giống như đàn bà TQ bốn mươi hoặc năm mươi.

THẤT NỮ (室女 Gái chưa chồng)​
Khi một gia đình sinh con gái, người cha và người mẹ không quên van vái: “Vái cho con sau này thành vợ của trăm và ngàn người chồng!”

Giữa năm bảy và chín tuổi đối với con gái nhà giàu, và riêng năm mười một tuổi đối với kẻ thật nghèo, người ta nhờ một tu sĩ Phật giáo hoặc Bà La Môn phá tân. Người ta gọi lễ ấy là Trận Thảm (陣毯 quả thực đây là một nghi lễ kinh khủng, tuy nhiên sau khi tra cứu nhiều tài liệu khác nhau thì có lẽ đây là ảnh hưởng của Ấn Độ giáo nhiều hơn, giống như lễ vào bóng mát, chứng nhận cô gái đến tuổi có chồng, sau lễ ấy cô gái mới có quyền lập gia đình,trong tập Doanh nhai thắng lãm của Mã Hoan tự Vĩnh- Lạc đi cùng với Trịnh Hòa năm 1413, nói về nước Xiêm như sau :

“Trong lễ cưới, các sư sãi đi trước đưa chú rể đến nhà cô dâu. Một ông sư phá trinh cô gái (bằng ngón tay) và chấm dấu đỏ trên trán tân lang. Lễ này gọi là Lợi Thị nghĩa là: cái chợ của Hạnh phúc. Thật là bỉ ổi! Trong vòng ba ngày, nhà sư và cha mẹ cô gái đưa cô dâu đến nhà chú rể bằng ghe có đem theo trầu cau. Nơi ấy, một đại tiệc có âm nhạc được tổ chức vui vầy ».

Trong quyển Bách khoa tự điển: Tam tài đô hội xuất bản vào cuối thế kỷ thứ 16 do danh sĩ Vương Kỳ soạn cỏ một đoạn ở giữa hai câu chuyện về Chân Lạp:

“Khi một cô gái lên 9 tuổi, người ta nhờ một vị tu sĩ tụng những bài kinh và áp dụng luật Fan (Brahmâ) cho cô bé. Tu sĩ dùng ngón tay phá trinh cô gái và chấm dấu đỏ trên trán. Ông cũng chấm trên trán bà mẹ nữa. Ây là lễ Lợi Thị. Sau đấy, đến ngày thành hôn, cô gái luôn luôn vui vẻ và sung sướng. Tất cả thiếu nữ đều lập gia đình vào năm 10 tuổi)

Mỗi năm, chính quyền lựa một ngày trong tháng tương đương với tháng tư của

Trung Hoa, và truyền rao cho khắp nước biết. Gia đình nào có con gái dự lễ Trận- Thảm phải báo trước với chính quyền và viên chức phụ trách trao cho họ cây đèn cầy có khẳc một cái dấu. Đến ngày định trước, khi trời sập tối, người ta đốt cây đèn cầy và khi đèn cháy tới dấu thì lễ Trận Thảm bắt đầu.

Trước ngày ấy một tháng hoặc mười lăm ngày, hoặc mười ngày, cha mẹ cô gái lựa một tu-sĩ Phật giáo hay Bà La Môn tùy nơi họ ở. Thường thường các ngôi chùa Phật và đền thờ Bà La Môn đều có khách riêng. Các vị sư hảo hạng tu theo đường lối cao siêu được những gia đình quan lớn và phú hộ đặt trước, còn những người nghèo thì không có thì giờ rảnh rỗi mà chọn lựa. Quan chức và phú gia dâng tặng tu-sĩ rượu, gạo, hàng vải, tơ lụa, vật dụng bằng bạc nặng đến trăm tạ và trị giá từ hai đến ba trăm lượng bạc trắng của Trung Hoa. Tặng phầm ít hơn có từ ba mươi đến bốn mươi, hoặc từ mười đến hai mươi tạ tùy theo gia sản của mọi người. Nếu những cô gái nghèo đến mười một tuổi mà chưa làm lễ phá tân là tại không thể gánh nổi các tốn phí ấy. Cũng có người cho các cô gái nghèo tiền lệ phí cuộc lễ Trận Thảm và người ta gội đó là “thực hành một việc tốt đẹp”. Một nhà sư chỉ có thề phá tân một cô gái trong năm và khi nhận tiền của một người rồi, sư không được hứa với kẻ khác.

Đêm ấy, người ta tổ chức một đại tiệc có âm nhạc. Giữa lúc đó, thân nhân và láng giềng tụ họp ngoài cửa, trên cái bục cao có để tượng người và thú vật nặn bằng đất sét, có khi nhiều hơn mười hoặc có khi ba hay bốn tượng. Người nghèo không có làm như vậy- Đây là theo những phong tục xưa cũ và chấm dứt sau bảy ngày.

Mặt trời sắp lặn, người ta khiêng kiệu, cầm lọng đi theo giàn nhạc đến rước vị tu-sĩ. Người ta che hai cái rạp bằng hàng lụa nhiều màu, cô gái ngồi trong một rạp, vị tu-sĩ ngồi rạp kia. Người ta không thể nghe họ nói những gì, tiếng nhạc ồn ào và đêm ấy không có lệnh cấm làm náo động.

Tôi nghe nói rẳng đến giờ hành lễ, vị tu- sĩ vào rạp của cô gái dùng bàn tay phá tân và nhúng tay ấy vào rượu. Người ta còn nói rằng cha mẹ, thân nhân và láng giềng lấy rượu ấy chấm trên trán hoặc uống nữa. Cũng có người nói vị tu sĩ phá tân cô gái thật sự, có người nói không có. Vì lẽ người ta không cho phép người Tàu chứng kiến các việc ấy nên không thể nào biết rõ sự thật.

Sáng lại, người ta đưa vị tu-sĩ trở về bằng kiệu, lọng và giàn nhạc. Phải lập tức xin vị tu- sĩ cho chuộc cô gái bằng hàng vải và tơ lụa, nếu không cô ấy sẽ vĩnh viễn thuộc quyền của vị này và không được gả cho người nào khác.

Những gì tôi trông thấy diễn ra trong đêm thứ sáu, tháng tư năm Đinh Dậu, niên hiệu Đại Đức (28-4 D.L 1297). Trước cuộc lễ, cha mẹ và con gái ngủ chung một phòng, từ đó về sau, cô gái bị loại khỏi nhà và muốn đi đâu thì đi, không bị cấm đoán và gìn giữ.

Trong lễ cưới, dù tục lệ có mục tặng hàng lụa, đó là một hình thức không quan trọng, nhiều kẻ ăn ở với nhau trước rồi mới cưới sau, phong tục không cho đó là điều xẩu hổ, không có gì đáng ngạc nhiên.

Trong đêm có lễ Trận-Thảm, có khi tại một xóm hơn mười nhà cử hành lễ. Giữa thành phố, đoàn người rước nhà sư hoặc vị tu-sĩ chạm trán khắp đường sá; không nơi nào mà người ta không nghe tiếng nhạc thật rộn ràng.

NÔ TÌ (奴婢)
Người ta mua những dân man rợ bắt làm công việc của kẻ nô tì ( hoặc nô lệ, nguồn nô lệ ở Chân Lạp đến không chỉ là những người dân tộc thiểu số trên núi, mà có người vì thiếu nợ, hoặc là tù binh chiến tranh như tù binh Xiêm, Champa.., hoặc những người phản loạn, nổi dậy…) Người có nhiều nô tì nhất là trên một trăm tên, người có ít hơn là từ mười đến hai chục tên, chỉ có kẻ thật nghèo thì không có gì cả. Dân man rợ là những người ở trên núi hoang. Bọn chúng hợp thành một sắc dân riêng biệt mà người ta gọi là bọn cướp Chàng (撞, gọi theo tiếng Khmer, thực ra đây là tên 1 dân tộc trên núi phía Tây Biển Hồ). Đem chúng về thành phố, chúng không dám đi ra khỏi nhà. Tại đây, trong cuộc cãi vã nếu có người nào gọi địch thủ là “Chàng tặc” thì kẻ kia cảm thấy sự thù ghét thâm nhập đến xương tủy vì lẽ giống dân ấy bị mọi người khinh bỉ. Tên nào còn trẻ và khỏe mạnh đáng giá một xấp vải dài cỡ trăm thước, tên nào già và yếu, người ta có thể đổi bằng ba chục hay bốn chục thước. Dân nô tì chỉ được phép ngồi và ngủ dưới lầu (đúng ra là dưới nhà sàn, người Khmer ở nhà sàn); chúng có thề lên lầu đề làm việc nhưng phải quỳ gối chắp hai tay lạy rồi mói được đi tới. Chúng gọi ông chủ là ba-đà (巴駞), bà chủ là mể (米); ba-đà nghĩa là cha, mể là mẹ. Nếu chúng vi phạm một lỗi lầm và bị đánh thì cúi đầu chịu đòn không dám cử động chút nào. Đàn ông và đàn bà bọn chúng ăn ở với nhau, không bao giờ chủ nhân muổn kết tình với chúng.

Nếu ngẫu nhiên một người Tàu đến đó, sau thời gian dài sống cô đơn, lỡ vô ý “giao tiếp một lần” ( nguyên văn: 一與之接, ý nói quan hệ tình dục) với một trong đám phụ nữ ấy và bị người chủ biết được thì hôm sau ông này sẽ từ chối không ngồi chung với anh ta nữa vì anh ta đã giao tiếp với dân man rợ.

Nếu người đàn bà nô tì có thai cùng kẻ lạ với nhà chủ và sinh con thì người chủ không cần tìm hiều kẻ nào là cha của đứa bé vì người mẹ không thuộc giai cấp thường dân và chính ông ta có lợi được thêm đứa nhỏ, đó là những tên nô lệ trong tương lai.

Nếu bọn nô tì bỏ trốn và bị bắt thì người ta xăm màu xanh trên mặt, hoặc tròng vào cồ một cái vòng sắt đề giữ, có kẻ mang vòng ấy trên cánh tay hay ở cổ chân.

NGÔN NGỮ (語言)
Quốc gia này có một tiếng nói riêng biệt. Mặc dầu âm thanh gần giổng nhau, nhưng người Khmer và người Xiêm cũng không hiểu được.

Một gọi là mai, hai: biệt , ba là ti , bốn: ban , năm : bột giám(tiếng Khmer là pram), sáu: bột giám mai(tiếng Khmer là pramuoi), bảy: bột giám biệt(pram-bơ), tám : bột giám ti(pramvey), chín: bột giám ban(p rambum), mười: đáp (đao), cha : ba đà , bác cũng gọi là ba-đà, mẹ : mề , cô, dì và láng giềng có tuổi đáng kính trọng cũng gọi là mể, anh: ban , chị cũng gọi là ban; em : bồ ôn( baau), cậu : ngật lại (khlai) , chồng của cô cũng gọi là ngật lại(tác giả phiên âm tiếng Khmer sang tiếng Hán, rồi chúng ta dịch lại Hán Việt nên nghe rất buồn cười và vô nghĩa, nên đoạn này coi như tham khảo thôi, để thấy được tác giả rất chú tâm quan sát, học hỏi)

Theo lối thông thường, những người này đảo ngược thứ tự của tiếng nói, ví như chúng ta nói: “người này là của Trương Tam đứa em” ( dịch đúng cách nói sở hữu của tiếng Hán) , thì họ nói “bồ – ôn Trương Tam” : Em của Trương Tam ; “người này là của Lý-Tứ ông cậu” , họ nói : “ngật-lại Li-sseu” cậu của Lý Tứ(cách nói này gần giống với cách nói của người Việt)

Ví dụ khác, họ gọi nước Trung Hoa là “Bị thế” (備世), ông quan là “Ba-Đinh”; nhà học giả là “Ban-cật”. Nhưng khi gọi một ông quan Trung Hoa” thì họ không nói “Pei-che pa-ting” mà nói “pa-ting pei-che”, đề gọi “một nhà học giả Trung Hoa”, họ không nói “Pei-che pan-k’i mà nói pan-k’i Pei-che”, thường thường họ nói như vậy. Đấy là những nét đại lược.

Ngoài ra, các quan chức có ngữ pháp quan lại đề thảo luận, các nhà học giả có lối đối thoại chu đáo của giới trí thức, nhà sư và tu-sĩ có tiếng nói của sư và tu sĩ, ngôn ngữ ở thành phố và làng mạc khác nhau. Đó cũng không khác gì với Trung Hoa.

DÃ NHÂN (野人người man rợ)
Có hai sắc dân man rợ, sắc thứ nhất là dân biết nói tiếng thông thường, đó là những kẻ mà người ta bán ở thành phố làm nô-tì. Sắc kia là dân không chịu theo nền văn minh và không biết nói tiếng thông thường. Dân này không ở nhà, chúng dắt gia đình đi lang thang trong núi, đội trên đầu một cái hũ bằng đất sét. Khi gặp một con thú rừng, chúng dùng cung tên hay cây giáo giết chết, lấy đá đập ra lửa nấu nướng rồi cùng ăn với nhau, đoạn tiếp tục đi. Tính tình chúng rất hung tợn và thuốc độc của chúng rất nguy hiềm. Ngay trong bọn chúng cũng thường giết lẫn nhau.

Trong những vùng gần thành phố cũng có kẻ trồng cây đậu khấu và cây bông đề dệt vải. Nhưng vải của họ rất thô mang nhiều hình bông hoa phân biệt khác nhau (có lẽ là để phân biệt các giai cấp khác nhau trong xã hội)

VĂN TỰ (文字 CHỮ VIẾT)
Những văn kiện thường cũng như tài liệu chính thức luôn luôn được viết trên da nai hoặc da hoẵng và những vật tương tự nhuộm màu đen. Tùy khuôn khổ theo bề dài hay bề ngang mỗi người tự ý cắt xén.

Người ta dùng một loại bột giống như phấn của Trung Hoa và làm thành thỏi gội là thoaCầm thỏi phấn trên tay họ viết chữ trên miếng da mà không bao giờ phai màu. Khi viết xong, họ dắt thỏi phấn ưên vành tai. Nhìn chữ có thề nhận ra do ai viết. Nếu người ta chùi bằng một vật ướt thì trôi mất. Chữ viết lớn rất giống chữ của người Hồi Hột (những người Trung Á nói chung thuộc sắc tộc Turk, vùng Tân Cương). Tất cả tài liệu đều viết từ trái sang phải và không từ trên xuống dưới. Tôi nghe nói ở Giả tiên Hảỉ nha (也先海牙 Một vùng thuộc Mông Cổ, ý tác giả nói chữ Khmer có nét hao hao giống chữ Mông Cổ) những chữ đọc gần giống chữ Mông Cổ chỉ có hai hoặc ba chữ không phù hợp với nhau mà thôi. Họ không có con dấu nào cả. Về đơn từ, cũng có những cửa tiệm của người viết thuê.

CHÍNH SÓC THỜI TỰ (正朔時序 Năm, tháng và thời tiết)
Những người này luôn luôn dùng tháng mười của Trung Hoa làm tháng thứ nhất của họ. Tháng ấy gọi là Giai-đắc (Tác giả phiên âm tiếng Khmer là Katik: tháng mười dịch theo chữ Hán không có nghĩa gì, ngày nay người Khmer làm lễ Đầu năm vào giữa tháng Tư Dương lịch, gọi là Chôl Chnăm Thmây)

Trước Hoàng thành, người ta cất một cái rạp lớn có thề chứa hơn ngàn người, và treo đầy đèn, hoa. Phía trước, cách khoảng hai chục trượng, người ta dùng những miếng cây sắp nối tiếp nhau cất một cái rạp cao giống sàn xây các ngôi tháp ( tháp Stupa của người Khmer, Champa, bốn mặt bằng nhau, nóc nhọn ) bề cao hơn hai chục trượng ( Trượng cổ =10 thước, mỗi thước dài 0,32m (ba tấc hai), một trượng dài 3,20m, nếu ngôi tháp cao hơn 20 trượng là hơn 64m, Ông Paul Pelliot lại cho là Toise, mỗi toise dài l,949m, ngôi tháp cao hơn 20 toises tức là hơn 38,98m. Theo Tự điển Hoa-Pháp của 1 giáo sỹ ở Tứ Xuyên xuất bản ở Hồng-Kông năm 1893 (trang 513) thì một trượng dài 10 thước (xích) = 3,33m; ở trang 525 thì xích là cách đo bề dài thay đồi tùy theo địa phương và nghề nghiệp. Theo Trung Quốc cổ văn đại-tự điển của F. Couvreur tái bản lần II ở Đài Bắc năm 1967, trang 3, thì Trượng là cách đo chiều dài bằng 10 xích hay 16 chân; trang 243 giảng chữ xích là chân hay gang tay, bề dài thường thay đổi và chưa thống nhất trong khắp lãnh thổ Trung Hoa. Dưới đời nhà Chu (1122 — 255 trước CN), một thước có 20cm và hiện thời là 35cm. Hồi ấy tính theo bề dài cùa hột kê là một phân, 10 phân là một tấc, 10 tấc là một thước. Dưới đời nhà Hạ (2205 – 1766 trước CN) 1 thước có 10 tấc, đời nhà Ân (1766 – 1122 trước CN) 1 thước có 9 tấc, đời nhà Chu 1122 – 255 trước CN) 1 thước có 8 tấc. Tính theo hột kê khoảng 3mm chiều dài thì 1 phân là 3 ly, 10 phân là 30 ly, 1 thước là 300 ly bằng 3 tấc Tây (0,30m), 1 trượng: 3 thước Tây. Tuy nhiên, đến thế kỷ thứ 13 không biết nhà Nguyên tính một trượng là bao nhiêu)

Mỗi đêm người ta cất ba hoặc bốn, hoặc có thể năm, hoặc sáu cái. Trên nóc người ta để pháo thăng thiên và pháo nổ. Tốn phí này do các tỉnh và các nhà quý phái gánh chịu. Tối đến, người ta thỉnh nhà Vua ngự ra dự lễ. Người ta đốt pháo thăng thiên và pháo nổ. Pháo thăng thiên bay cao dù ở ngoài trăm dặm cũng nhìn thấy, pháo nồ lớn bằng súng bắn đá và tiếng nồ làm rung chuyền cả thành phố. Các quan chức và nhà quý phái góp phần đèn nến và cau, số tiền tốn phí thật to lớn. (chứng tỏ hồi ấy trình độ làm pháo và thuốc nổ của người Khmer thật đáng nể)

Nhà Vua cũng có mời quý vị Sứ thần ngoại quốc (hồi ấy chưa có Đại sứ quán, chắc là các đoàn ngoại giao thì đúng hơn, hoặc có lệ vẫn gửi con tin cho nhau giữa các nước) tham dự. Cuộc lễ cử hành như thế trong mười lăm ngày rồi ngưng hết.

Mỗi tháng có một cuộc lễ. Tháng Tư “người ta liệng trái cầu” (nguyên văn: 如四月則抛球, không rõ ý tác giả là gì, hay lễ hội gì). Tháng Chín là lễ Áp-Lạp (nguyên văn: 九月則壓獵, không rõ lễ gì) lễ này gồm có việc tựu họp dân chúng khắp lãnh thổ vào thành phố diễn hành trước hoàng cung. Tháng Năm người ta “đi rước nước của Đức Phật” (nguyên văn: 五月則迎佛水); người ta tập trung tất cả tượng Phật ở khắp các chùa trong lãnh thổ rồi đem nước đến cùng với nhà Vua tắm các tượng ấy. Tháng Sáu, người ta “chèo thuyền trên mặt đất”; (nguyên văn 陸地行舟) nhà Vua ngồi trên lầu cao dự lễ. Tháng Bảy người ta “đốt lúa” (nguyên văn七月則燒稻). Lúc ấy lúa vừa chín, người ta ra ngoài cửa thành hướng Nam gặt lúa và đốt để cúng Phật. Vô số phụ nữ ngồi xe hoặc cưỡi voi đến dự lễ nhưng nhà Vua vẫn ở trong cung. Tháng Tám là lễ Ai Lan (nguyên văn八月則挨藍, tuy nhiên đây là phiên âm tiếng Khmer: roam) nghĩa là nhảy múa, người ta chỉ định những kép hát và nhạc sĩ mỗi ngày đến hoàng cung trình diễn, ngoài ra có những cuộc đấu voi và đấu heo. Nhà Vua cũng mời quý vị Sứ thần ngoại quốc đến dự. Cuộc lễ kéo dài mười ngày. Tôi không thể nhớ rõ ràng những lễ gì trong mấy tháng khác (chứng tỏ người Chân Lạp cổ có rất nhiều lễ hội)

Trong xứ này có người tinh thông khoa Thiên văn (thường là quan chức trong triều gọi là Hora, mỗi năm soạn quyển lịch gọi là Maha Sangkrau) như chúng ta và có thể tính toán Nhật thực và Nguyệt thực. Tuy nhiên đối với tháng dài và ngắn, họ có một phương pháp tính khác với phương pháp của chúng ta.

Trong những năm nhuận họ cũng bị bắt buộc phải có một tháng nhuận, nhưng họ chỉ chen vào tháng Chín, đó là điều tôi không biết gì cả.

Mỗi đêm chỉ chia làm bốn canh (ở các nước chịu ảnh hưởng văn hóa TQ, đêm chia thành 5 canh). Bảy ngày là một tuần, cũng tương tự ở Trung Hoa người ta gọi Khai, Bế, Kiến, Trừ (Khai, Bế, Kiến, Trừ là 4 ngày trong sổ 12 trực của một tháng. Trực là gặp. Người Trung Hoa cho rằng có 12 ngày trực trong năm là Khai, Bế, Kiến, Trừ, Mãng, Binh, Định, Chấp, Phá, Nguy, Thành, Thu, mỗi trực tốt, xấu khác nhau và trở đi trở lại suốt năm. Các thầy bói lựa ngày tốt, ngày xấu, như mở cửa hàng thì lựa ngày Trực Khai, cưới hỏi thì lựa ngày Trực Thành).

Vì lẽ người dân bản xứ ở đây (nguyên văn 番人既無姓名 phiên nhân ký vô tính danh, từ phiên nhân tác giả dùng có ý coi thường người Chân Lạp, đó là quan niệm của người TQ, coi các dân tộc ngoài Trung Nguyên là man di ) không có tên gia đình (Tức là họ; người Khmer, Champa cổ không có họ, con lấy tên cha làm họ ví dụ như: cha lên Hun Boklay thì con đặt là Boklay Kompet) không có tên người và không ghi nhớ ngày sinh nên phần đông đặt một “tên người” theo ngày trong tuần mà họ chào đời. Có hai ngày trong tuần thật tốt, ba ngày bình thường, hai ngày thật xấu; ngày nào người ta có thể đi về hướng Đông, ngày nào người ta có thể đi về hướng Tây. Phụ nữ cũng biết tính toán xem ngày tốt xấu. Mười hai con giáp của chu kỳ cũng giống với mười hai con giáp của Trung Hoa (khác chút là Sửu thay bằng Bò, Mão thay bằng Thỏ) nhưng tên gọi khác nhau. Con ngựa gọi là “Bốc-trại”, con gà gọi là “loan” con heo gọi là “trực-lư”, con bò gọi là “cả” vân vân…( nhắc lại là tác giả phiên âm tiếng Khmer cổ sang tiếng Hán, nên dịch thì rất vô nghĩa, cụ thể con ngựa tiếng Khmer cổ là sek, bò là satv ko, gà là mon, lợn: chruk…)

TRANH TỤNG (争訟)
Những sự tranh tụng của dân chúng, dù không quan trọng cũng phải đến triều trình nhà Vua xét xử (theo đúng tập tục của Ấn Độ). Người ta nói với tôi rằng dân chúng không biết gì về lối xử đánh bằng roi tre hay roi da và chỉ bị phạt vàng (nguyên văn 但聞罰金而已) mà thôi. Đối với những trường hợp đặc biệt nặng cũng không có hình thức xử giảo hoặc chém đầu, nhưng ngoài cửa thành hướng Tây người ta đào một cái hố rồi bắt tội phạm nằm xuống, lấp đất và đá lên, chèn ép thật chặt rồi thôi. Đối với những trường hợp nhẹ hơn có hình phạt chặt ngón tay, ngón chân và bàn tay hoặc cắt mũi. Tuy nhiên không có luật cấm tội ngoại tình và cờ bạc. Khi người chồng bắt được vợ ngoại tình, anh ta lấy hai mảnh gỗ nhọn cột hai chấn tên gian phu rồi siết chặt lại, tên này chịu đau không nổi phải giao hết tài sản mới được tự do. Cũng có người sắp đặt mưu kế đề làm tiền giống như bên nước chúng ta.

Nếu người nào thấy một xác chết trước cửa nhà mình thì cột giây kẻo ra khỏi thành phố bỏ trên bãi đất hoang; không có sự kiện nào mà chúng ta gọi là một cuộc “xét nghiệm đầy đủ”. (nguyên văn: 初無所謂體究檢驗之事, ý tác giả nói là không có quan nào đến khám nghiệm tử thi)

Khi dân chúng bắt được kẻ trộm, người ta có thể áp dụng hình phạt cầm tù và tra tấn. Người ta cũng nhờ một phương pháp đáng chú ý. Nếu có người mất một món đồ và nghi cho người nào ăn cắp mà người ấy không nhận, họ nấu một nồi dầu và bắt buộc kẻ bị ngờ nhúng tay vào (kế thừa từ thời vương quốc Phù Nam, nhưng thời đó họ dùng nước sôi). Nếu quả thật là kẻ gian thì bàn tay nát tả tơi, trái lại thịt da vẫn lành lặn như trước. Đó là phương pháp kỳ diệu của giống phiên dân này. (tác giả vẫn dùng từ phiên dân, có ý khinh miệt)

Ngoài ra, gặp trường họp hai người tranh tụng mà không biết ai phải ai trái thì trước hoàng thành có mười hai ngôi tháp đá nhỏ. (gọi là Khléang, chia làm 2 khóm, 6 ngôi ở hường Bắc và 6 ngôi ở hướng Nam) người ta bắt mỗi vị ngồi vào một ngôi, thân nhân vị này canh chừng vị kia. Hai vị ở trong tháp một hoặc hai ngày, hay là ba hoặc bốn ngày. Khi họ ra khỏi tháp, người nào mà sai thì thể nào cũng không tránh được vài chứng bệnh như nổi mục nhọt, hoặc đau lỗ mũi, hoặc sốt rét nặng. Vị nào mà phải thì không có chút gì cả. Do đó họ mới quyết định người công minh chính đại hay kẻ bất lương; họ gọi là “nhà ngục của Trời” (nguyên văn: 謂之天獄 vị chi thiên ngục) Đây là vị Thần của non sông linh ứng mới có như vậy.

BỆNH LẠI (病癩 Bệnh phong)
Người dân xứ này thường mắc nhiều bệnh nhẹ mà họ điều trị rất dễ dàng bằng cách lặn dưới nước và gội đầu liên tiếp (Đúng ra là xuống sông tắm hoặc xối nước lạnh trên đầu nhiều lần ;cách trị bệnh cảm, nóng sốt của người Khmer, Champa, xét về phương diện Y học hiện đại, cách này khá nguy hiểm, nhưng lúc đó chắc sức đề kháng con người tốt hơn)

Tuy nhiên có rất nhiều người bệnh phong ở từng khoảng trên đường đi. Khi những người này đến ngủ chung hay ăn uống chung với họ, dân bản xứ cũng không phản đối. Có người nói đó là một chứng bệnh phát khởi do tình trạng thời tiết trong xứ. Có một vị Quốc vương mắc phải bệnh này (Theo truyền thuyết thì trong phả hệ Vua Chân Lạp có một vị Quốc vương mắc bệnh phong nhưng trong chính sử thì không ghi cụ thể, nhà khảo cổ Pháp Aymonier đưa ra giả thuyết Vua Yacovarman (889-900) Ngoài ra ở trên Sân voi trong thành Angkor Thom cò một tượng đá mang tên là Vua cùi ngồi giữa bốn tượng cung nữ, nhưng các nhà khảo cổ Pháp nghi ngờ cho đó có thể là tượng của Yama, vị Diêm vương trong thần thoại Bà La Môn. Trước chùa Onalom ở Phnom-Penh cũng có một tượng Vua cùi đắp giống như tượng ở Angkor Thom nhưng nhỏ hơn và không có tượng cung nữ. Tượng này được Hoa Kiều rất hay đến cầu cúng xin lộc lá), vì thế nên dân chúng không xem là chứng bệnh đáng ghê sợ (điều này thì người Khmer khác hẳn với người Việt, chúng ta rất ghê sợ bệnh phong, gọi là cùi, hủi nên hay nói tránh như tránh hủi, bẩn như hủi, miền Nam thì gọi là cùi) . Theo thiền kiến của tôi thì thông thường người mắc bệnh là vì sau khi thỏa mãn xác thịt rồi xuống sông tắm liền, và tôi nghe nói dân bản xứ ân ái xong luôn luốn đi tắm ngay. Về bệnh kiết lỵ, mười người đau chết từ tám đến chín. Giống ở nước chúng ta, họ bán thuốc ngoài chợ, nhưng rất khác các loại thuốc của Trung Hoa và tôi không biết gì cả (tức là các loại lá cây, rễ cây, hạt…thuốc kiểu Khmer). Cũng có loại phù thủy hành nghề ăn tiền thiên hạ; thật là đáng cười. (thời ấy mà tác giả đã không mê tín, quả thật đáng khâm phục).

TỬ VONG (死亡 Người chết)
Đối với người chết, người ta không dùng quan tàì, chỉ dùng một loại chiếu và bó bằng vải. Trong đám tang, họ cũng cầm cờ, phướn và có giàn nhạc đi đầu, Ngoài ra, họ bưng hai mâm gạo rang nổ vãi từng nắm hai bên đường. Họ khiêng xác chết ra khỏi thành phố, đến nơi vắng vẻ không có người ở rồi bỏ đó trở về. Họ đợi kền kền, chó và các thú vật khác đến xé xác. Nếu xác chết bị ăn hết mau chóng, họ nói rằng cha, mẹ họ có phúc đức mới được hưởng điều quả báo ấy, nếu xác không bị thú ăn hoặc ăn từng miếng, họ nói rằng cha, mẹ họ mang vài tội lỗi mới có hậu quả như vậy (đây có thể là Thiên Táng hoặc Điểu Táng). Hiện thời, dần dần cũng có người hỏa thiêu người chết, đó là đối với phần đông con cháu của người Trung Hoa. Khi cha hoặc mẹ chết, con không mặc quần áo tang, nhưng con trai cạo đầu và con gái cắt tóc phía trên trán lớn bằng đồng điếu, đó là lối đề tang cha mẹ. Nhà Vua được chôn trong ngồi tháp, nhưng tôi không biết người ta chôn thân mình hay chỉ chôn bộ xương. (Nhà khảo cổ Pháp Aymonier cho biết Lễ hỏa táng của nhà Vua cử hành rất trọng thể, hình thức Hỏa Táng kiểu Ấn Độ, Tro cốt Vua được giữ ở hoàng thành trong một cái bình bằng vàng. Chính các vị Hoàng tử làm lễ rước tro về Triều và sau đó đem đặt vào ngôi tháp).

CANH CHỦNG (耕種Trồng trọt)
Thông thường, người ta có thể làm ba hay bốn mùa trong một năm; suốt năm thời tiết giống như tháng Năm và tháng Sáu của chúng ta và dân chúng không biết lạnh và tuyết là gì. Ở xứ này trời mưa nửa năm, nửa năm kia trời không mưa. Từ tháng Tư đến tháng Chín, trời mưa mỗi ngày vào xế chiêu. Bấy giờ mực nước ở Biển Hồ có thề lấn cao từ bảy đến tám trượng. Những cây to đều chìm mẩt chỉ còn ló ngọn. Dân chúng ở trên bờ hồ rút hết vào trong núi, kế đó từ tháng Mười đến tháng Ba (năm sau) Trời không rớt một giọt mưa! Bấy giờ chỉ có ghe nhỏ đi được trên Biền Hồ; ở nơi sâu có từ ba đến năm chân nước (cách đo bằng chân ngày xưa, gọi là cước = 20cm). Dân chúng trở về. Các nhà nông tính theo thời tiết lúc nào lúa chín và vùng đất nào nước có thề ngập lúc ấy mà nhân đó gieo giống tùy cuộc đất. Họ không dùng bò kéo cày. Cây cày, lưỡi hái và cuốc của họ tất cả đều giống vài phần trên nguyên tắc với dụng cụ của chúng ta, nhưng cách kiến tạo hoàn toàn khác hẳn. Ngoài ra có một loại ruộng thiên nhiên lúa mọc luôn luôn không ai gieo trồng; khi nước dâng đến một trượng (gọi là lúa trời, lúa ngoi, miền Nam và trước đây miền Bắc cũng có), lúa cũng mọc cao như vậy; tôi cho rằng đó là một giống đặc biệt.

Họ không dùng một thứ phân nào đề bón ruộng và trồng rau vì họ chê dơ dáy. Người Trung Hoa đến đây không bao giờ cho họ biết cách rải phân ở nước mình vì sợ họ khinh bỉ. Hai hoặc ba gia đình đào chung một cái hố (chứa phân) dùng cỏ che ở trên, khi nào đầy họ lấp đất và đào chỗ khác. Sau khi đi vệ sinh rồi, hộ luôn luôn vào hồ nước rửa, nhưng chỉ dùng bàn tay trái; tay phải đề cầm thức ăn (giống người Ấn Độ và các nước theo đạo Hồi khác) Khi họ thấy người Trung Hoa đi đại tiện và chùi bằng giấy thì họ chế nhạo đến nỗi không muốn cho người đó vào nhà họ nữa. Trong giới phụ nữ có người đi tiểu đứng thật là đáng cười vô cùng. (tác giả quan sát rất thú vị, không hiểu phụ nữ đi tiểu đứng kiểu gì???)

SƠN XUYÊN (山川Núi, sông)​
Bắt đầu vào Chân Bồ (vùng Bà Rịa-Vũng Tàu ngày nay, đoạn này rất quan trọng vì tác giả lúc này tuy miêu tả Chân Lạp, nhưng vùng đất mà ông nói này bây giờ đã là miền Nam nước ta rồi) hầu hết cả vùng đều là bụi rậm của khu rừng thấp, những cửa rộng của con sông lớn chạy dài hàng trăm lí, bóng mát um tùm của những gốc cổ thụ và cây mây dài tạo thành nhiều chỗ trú xum-xuê. Tiếng chim hót và thú vật kêu vang dội khắp nơi. Vào nửa đường trong cửa sông, người ta mới thấy lần đầu cánh đồng ruộng bỏ hoang, không có một gốc cây nào. Xa hơn tầm mắt chỉ toàn là cỏ kê đầy rẫy. Hàng trăm hàng ngàn trâu rừng tựu họp từng bầy trong vùng này. Tiếp đó, nhiều con đường dốc đầy tre chạy dài hàng trăm lí. Tại mắt loại tre này có gai mộc và măng thì có vị rất đắng. Bốn phía có núi cao.

XUẤT SẢN (出產 Sản vật)
Trong núi có rất nhiều gỗ quí. Vùng nào không có cây là nơi tê giác cùng voi tựu họp và sinh nở. Loại chim quí, loại thú lạ lùng có vô số. Sản phẩm có giá trị là lông chim trĩ, ngà voi, sừng tê giác, sáp ong. Về sản phẩm thường có cây trầm hương, đậu-khấu, cây họa hoàng, cây cánh kiến, dầu cây máu chó (đại phong tử du).

Chim trả rất khó bắt. Trong rừng rậm có nhiều hồ nước và dưới hồ có cá. Chim trả ở trong rừng bay ra kiếm cá. Người bản xứ núp dưới lá cây trên bờ hồ, treo cái lồng nhốt con chim mái làm mồi tay cầm một miếng lưới nhỏ, rình chim đến tung lưới bắt. Có ngày anh ta bắt được ba hay năm con, có khi suốt buổi không có con nào.

Thồ dân sống trong dãy núi hẻo lánh mới có ngà voi. Mỗi con voi chết có hai cái ngà (tác giả là người TQ, nên chưa thạo về voi). Người ta nói rằng xưa kia voi thay ngà mỗi năm một lần, nhưng điều đó không đúng. Ngà của con thú bị giết bằng giáo và loại tốt nhất. Kế đó là loại ngà người ta tìm thấy sau khi con vật tự nhiên chết ít lâu. Loại kém giá trị là loại người ta gặp trong rừng sau khi con vật chết nhiều năm.

Sáp ong ở trên cây khô trong xóm làng do một giống ong lưng nhỏ như lưng con kiến tạo ra. Người bản xứ lấy sáp ong. Mỗi thuyền có thể chở từ hai đến ba ngàn tảng ong, tảng lớn nặng từ ba chục đến bốn chục cân, tảng nhỏ nặng không dưới mười tám đến mười chín cân.

Sừng tê giác màu trắng và có gân máu đỏ là loạỉ quý giá nhất, sừng màu đen kém giá trị hơn. Cây trầm hương mọc trong rừng rậm. Người bản xứ cắt lấy rất khó nhọc vì loại này ở trong ruột cây và xung quanh có chất gỗ dác dầy từ tám đến chín tấc, những gốc nhỏ dầy ít nhất từ bốn đến năm tấc.

Tất cả đậu khấu đều do người man mọi (đây là người dân tộc vùng Tây Nguyên) trồng trong núi.

Cây họa hoàng là chất nhựa của một giống cây riêng biệt. Người bản xứ rạch thân cây một năm trước đề nhựa chảy ra và năm sau đến lấy.

Cây cánh kiến mọc trên nhánh một loại cây đặc biệt và có hình dáng thật giống loại ký sinh của cây dâu. Cũng rất khó tìm thứ này.

Dầu cây máu chó (đại phong tử) do hột của một loại cây lớn. Trái cây giống trái dừa, nhưng hình tròn có mấy mươi hột.

Cây hạt tiêu đôi khi cũng có. Tiêu mọc leo xung quanh cây mây và đeo dính như loại lục thảo tử. Loại nào tươi và xanh lục là thứ rất cay.

MẬU DỊCH (貿易 Thương Mại)
Trong xứ này phụ nữ rất thông hiểu việc mua bán (chứng tỏ người phụ nữ Khmer cổ rất tháo vát, hơn phụ nữ người Việt, TQ, Lào, Xiêm cùng thời), thế nên khi một người Trung Hoa đến đây luôn luôn lập gia đình ngay để lợi dụng tài thương mãi của vợ. Mỗi ngày chợ họp từ sáu giờ đến trưa thì tan. Tại chợ này không có cửa tiệm có người ở, người bán dùng một loại chiếu trải dưới đất. Mỗi người có chỗ của mình. Tôi nghe nói người ta nộp tiền cho chính quyền đề mướn chỗ ngồi. Đối với việc giao dịch nhỏ, người ta trả bằng gạo, ngũ cốc các loại và đồ vật của Trung Hoa rồi kế đến hàng vải, đối với việc lớn người ta dùng vàng và bạc.

Nói chung, người dân xứ này hết sức giản dị. Khi gặp một người Trung Hoa, họ tỏ vẻ rất sợ sệt, cung kính và gọi là “Phật”. Vừa thấy người Trung Hoa, họ liền quỳ xuống lạy. Trước đây ít lâu cũng cỏ kẻ lường gạt người Trung Hoa và gây nhiều thiệt hại. Đó là việc đã xảy ra cho một số đông người Trung Hoa đến xứ này. (Tác giả đề cao người TQ, thực ra vẫn bị lừa như thường, người Khmer cổ phân chia đẳng cấp như Ấn Độ, những người quỳ lạy người TQ là nô tì, hoặc đẳng cấp thấp, nhiều người dân rất tinh-quái, họ nịnh người TQ để lừa cho dễ)

DỤC ĐẮC ĐƯỜNG HÓA

(欲得唐貨Muốn mua được hàng hóa của Trung Hoa)
Tôi tin rằng xứ này không có sản xuất vàng và bạc; những món người ta thích nhất ở đây là vàng và bạc của Trung Hoa, kế là hàng lụa nhẹ màu sặc sỡ dệt chỉ đôi. Sau đó là thiếc của vùng Chân Chu, mâm sơn mài của vùng Ôn Châu, đồ sứ màu lục lợi của vùng Bàn Châu và Tuyền Châu , thủy ngân, son, giẩy, diêm sinh, thuốc súng, bạch đàn, rễ cây bạch chỉ, xạ hương, vải lanh, vải hoàng thảo, nồi sắt, mâm đồng, nồi đồng, ngọc trai, dầu trẩu, lờ tre (bắt cá), nia, lược gỗ, kim khâu. Những đồ vật thường dùng và nặng xấu như chiếu ở vùng Minh Châu. Những vật mà họ rất muốn có là các loại cây đậu và lúa mạch nhưng sự xuất cảng (khỏi Trung Hoa) bị cấm.

THẢO MỘC (草木)
Chỉ có lựu, đào, mía, hoa và ngó sen, khoai, chuối, khoai môn là giống với các loại trái cây bên Trung Hoa. Trái vải và quít cũng lớn bằng nhưng chua hơn. Tất cả trái cây khác ở Trung Hoa không bao giờ có. Các loại cây cũng rất khác lạ. Hoa có nhiều hơn, thơm và đẹp hơn. Hoa mọc dưới nước có rất nhiều loại mà tôi không biết tên. Còn cây đào, cây lý, cây hạnh, cây mai, cây bách (trắc bách diệp) cây tùng, cây vân sam, cây lê, cây táo, cây bạch dương, cây liễu, cây quế, cây lan, cây cúc vân vân thì khổng có (những giống cây này thường mọc ở xứ ôn đới và hàn đới như TQ, Nhật, Triều Tiên, Bắc Vn, chứ Chân Lạp là xứ nhiệt đới thì lấy đâu ra). Trong xứ này vào tháng giêng đã có hoa sen.

PHI ĐIỀU (飛鳥 Loài chim)
Trong các loài chim, con công, chim trả, con vẹt là không có ở Trung Hoa. Số còn lại có chim ưng, quạ, diệc, chim sẻ, chim cồng cộc, hạc, sếu, vịt trời, chim bạch yến vân vân, nhưng thiếu chim ác là, ngỗng trời, chim hoàng oanh, chim quốc, chim én, bồ câu.

TẨU THÚ (走獸 Loài thú có chân)
Trong các loài thú bốn chân, tê giác, voi, trâu rừng và “ngựa núi” (nguyên văn 山馬 sơn mã) không có bên Trung Hoa. Có rất nhiều cọp, beo, gấu, heo rừng, nai, hươu, hoẵng, vượn, chồn cáo vân vân; thiếu sư tử, đười ươi, lạc đà. Khỏi cần nói ở đây có gà mái, vịt, trâu, bò, ngựa, heo, cừu. Ngựa rẩt nhỏ con. Bò rất nhiều. Người ta cưỡi bò lúc còn sống, nhưng khi nó chết họ không dám ăn thịt, không dám lột da, họ đợi con thú thối rữa và nêu lý do là con vật này đã đem sức lực giúp việc cho người. Họ chỉ bắt bò kéo xe.

Trước kia họ không có ngỗng; từ khi các thủy thủ bên Trung Hoa đem đến mới có. Ở đây có nhiều con chuột lớn như con mèo và cũng có một loại chuột cái đầu thật giống đầu con chó mới sinh.

SƠ, THÁI (蔬菜 Rau, cải)
Về rau củ, có củ hành, cây cải, tỏi, cà, dưa hấu, bí, dưa chuột, rau sam; không có cải củ, rau diếp, rau diếp đắng, rau mồng tơi. Vào tháng giêng đã có các loại bầu bí và cà, có nhiều giống cà sống nhiều năm liền. Cây bông vải cao tới nóc nhà, có cây sống hơn mười năm. Có rất nhiều loại rau mà tôi không biết tên, các loại mọc dưới nước cũng thật nhiều.

NGƯ LONG (魚龍 Cá Rồng?) (không rõ ý tác giả lắm, có thể dịch là cá và bò sát vì từ Long có nghĩa nữa là con cá sấu lớn)
Trong các loài cá và ba ba, cá lý ngư đen (cá chép, cá chép đen ờ Trung Hoa có bốn loại và có bốn màu đỏ, vàng, trắng, đen. Loại đỏ quí nhất vi thịt rất ngon. Mùa mưa là mùa sinh sản) là giống nhiều nhất, kế đó là cá chép thường, cá chép hoang và cá mè cũng gọi là cá trắm trắng (nguyên văn 草魚– thảo ngư- loài cá này ăn cỏ, cá trắm TQ rất to) có rất nhiều. Có giống thồ -bộ-ngư (nguyên văn 吐哺魚, còn gọi là thổ phụ ngư hoặc đổ -phụ-ngư, chính là cá bống tượng, chúngsinh sản vào mùa bông cải nở, tức là mùa Xuân nên còn có tên là Thái Hoa Ngư; cá hoa cải) con lớn nặng hai cân và có khi nặng hơn nữa. Rất nhiều giống cá khác mà tôi không biết tên. Tất cả cá trên đây đều ở Biển Hồ. Còn cá biển thì có đủ loại, con lươn, cá chạch. Người bản xứ không ăn thịt ếch, vì thế về đêm chúng ra đầy đường. Rùa biền và kỳ đà lớn như hợp-trữ (hợp-trữ là hình-dung-từ để so sánh một vật to lớn như cây lọng hoặc cái bàn). Người ta cũng ăn thịt những con rùa “lục tạng” (nguyên văn 六歲之龜 – lục tạng chi quy-, người TQ cho rằng con rùa là linh vật có đủ ngũ lạng, lục phủ như con người nên không ăn thịt rùa và dùng mai rùa để bói toán). Loại tôm ở Tra -Nam (tức là Kompongchhnang) nặng một cân và có khi nặng hơn nữa. Chân rùa ở Chân Bồ dài từ tám đến chín tấc. Cỏ những con cá sấu lớn như chiếc thuyền có bốn chân và rất giống con rồng chỉ trừ nó không có sừng, bụng nó rất dòn. Trong Biển Hồ, người ta có thể bắt các loại sò hến và Ốc, ngao bằng tay. Người ta không thấy giống cua, tôi nghĩ rằng cũng có nhưng người bản xứ không ăn.

ÔN NHƯỠNG (醖釀 Nấu rượu)
Người bản xứ có bốn hạng rượu. Hạng thứ nhất người Trung Hoa gọi là Mật đường tửu (蜜糖酒 rượu mật) người ta chế bằng một thứ thuốc lên men trộn phân nửa mật và nước. Hạng kế đó người bòn xứ gọi là Bằng-nha-tứ (朋牙四) chế bằng lá cây, Bằng-nha-tứ là tên lá của một loại cây. Dưới hết là rượu chế bằng gạo hoặc cơm còn dư, người ta gọi là Bao-lăng-dốc (包稜角); pao-leng-kia nghĩa là gạo. Hạng chót là rượu Đường dám, chế bằng đường. Ngoài ra khi mới vào cửa biền, dộc theo sông người ta có chế một thứ rượu bằng nước nhựa cây “giao” gọi là Giao tương tửu (chính là cây Thốt Nốt). Dọc theo bờ sông có một loại lá giao và nhựa lá có thể chế rượu bằng cách để dậy men.

DIÊM, THỐ, TƯƠNG, MIẾN (鹽醋醬麴 Muối, Dấm, Tương, Bún)
Trong xứ này, ngành khai thác ruộng muối không được đặt dưới một sự hạn chế nào. Dọc theo bờ biền từ Chân Bồ (tức là từ Bà Rịa-Vũng Tàu) và Ba Giàng (nay là Sóc Trăng-Bạc Liêu), người ta làm muối bằng cách nấu nước biển. Trong núi cũng có một hầm mỏ mà mùi vị như muối, người ta có thể đẽo ra và làm vật dụng.

Người bản xứ không biết làm dấm. Nếu muốn nấu món ăn chua, họ bỏ  cây “hàm- bình “ ( nguyên văn 咸平樹葉 Hàm Bình thụ diếp). Khi cây mọc mầm, họ dùng đọt non, khi cây có trái, họ dùng trái.

Họ cũng không biết làm tương vì không cỏ lúa mạch và đậu.

Họ không làm men bằng hột trái cây. Họ chế rượu với mật, nước và lá cỏ, đó là một thứ rượu cốt mà họ dùng giống như rượu cốt màu trắng ở trong làng chúng ta.

TÀM TANG (蠶桑 Trồng Dâu nuôi Tằm)
Người bản xứ không chuyên tâm vào việc nuôi tằm và trồng dâu, vợ họ cũng không biết nhiều gì về kim, chỉ, may, vá. Họ biết dệt vải bằng bông vải mà không biết kéo chỉ bằng guồng quay sợi và chỉ kéo bằng tay. Họ không có khung dệt, họ cột một đầu vải vào lưng và dệt lần đến đầu kia. Họ làm cái thoi bằng ống tre.

Mới đây, người Xiêm đến lập nghiệp ở xứ này chuyên về việc nuôi tằm và trồng dâu, hột cây dâu và trứng tằm đều ở Xiêm đem đến. Người bản xứ không trồng cây gai mà chỉ có cây “lạc-ma” (絡麻- một giống cây đay hoặc cây gai) Người Xiêm dệt loại vải màu đậm bằng tơ tằm mà họ mặc. Phụ nữ Xiêm biết may và vá. Khi áo chăn rách, người bản xứ mướn đàn bà Xiêm vá lại.

KHÍ DỤNG (器用 Đồ Gia dụng)
Người dân thường có một ngôi nhà nhưng không có bàn, ghế, thau hoặc thùng múc nước. Họ chỉ dùng một cái nồi đất để nấu cơm, ngoài ra họ dùng một cái chảo đất đê nấu canh. Họ chôn ba cục đá đề làm lò và dùng một cái gáo dừa làm muôi múc. Khi ăn cơm, họ dùng mâm bằng đất hoặc bằng đồng của Trung Hoa. Họ dùng lá cây nấu canh rồi múc ra bát nhỏ dù múc đầy cũng không tràn ra ngoài. Ngoài ra họ lấy lá cây “giao” (thốt nốt) làm muỗng múc canh trong chén đưa vào miệng, ăn xong, họ bỏ lá. Trong những buổi lễ cúng Thần và cúng Phật họ cũng làm như vậy. Họ để gần bên mình một cái tô bằng thiếc hay bằng đất đựng đầy nước đề nhúng tay vào; họ chỉ dùng ngón tay để bốc cơm, khi cơm dính tay mà không có nước đó thì không rớt ra. Họ uống ruợu đựng trong chén bằng thiếc, người nghèo dùng tô bằng đất, các nhà quý tộc hoặc phú hộ dùng mỗi người một món đồ bằng bạc, có khi bằng vàng.

Trong các buổi lễ của nhà Vua, người ta dùng rất nhiều đồ đạc làm bằng vàng theo kiểu mẫu và hình dáng đặc biệt. Dưới đất người ta trải chiếu làm từ Minh Châu (nguyên văn 明州之草蓆 Minh Châu Chi thảo tịch- chiếu do vùng Minh Châu, TQ sản xuất, rất đẹp), cũng có người trải da cọp, da beo, da nai, da hoẵng vân vân, hoặc chiếu dệt bằng mây. Gần đây, người ta bắt đầu dùng loại bàn thấp, bề cao lối một bước chân (nguyên văn: Cước, cách đo khoảng cách bằng chân). Người ta chỉ dùng chiếu tre để ngủ và nằm trên ván; có người cũng dùng giường thấp thường thường do người Trung Hoa đóng. Người ta đậy thức ăn bằng một miếng vải trong cung Vua, người ta dùng lụa dệt chỉ đôi có chấm vàng toàn là phẩm vật của các thương gia ngoại quốc dâng tặng. Người ta không dùng thớt cối đề xay lúa, họ chỉ vụt bẳng cái chày và cái cối.

XA, KIỆU (車轎Xe và Kiệu)
Kiệu làm bằng một miếng cây cong ở giữa hai đầu đứng thẳng lên, người ta chạm trên kiệu hình hoa phủ vàng hay bạc và gọi đó là đòn kiệu bằng vàng hay bằng bạc. Cách mỗi đầu cỡ một bước chân (cước), người ta đóng một cái móc và dùng giây cột miếng vải rộng xếp thành nếp lớn vào hai cái móc ấy. Người ngồi cong mình dưới tấm vải cho hai người khiêng. Ngoài ra có thêm một món đồ giống như lá buồm cửa chiếc thuyền nhưng rộng hơn, trang trí bằng nhiều hàng lụa lạ lùng; bốn người cầm vật ấy chạy theo kiệu. Cũng có người cưỡi voi hoặc cưỡi ngựa để đi xa, có người ngồi xe bò kiểu mẫu giống loại xe  các nước khác. Ngựa cưỡi không có yên, voi cũng không có ghế để ngồi.

CHU, TIỂP (舟楫 Ghe thuyền và Chèo thuyền)
Những chiếc ghe lớn làm bằng ván lấy trong thân cây cứng. Người thợ không có cưa chỉ dùng búa tách từng tấm ván ra, đỏ là một sự phí phạm gỗ rất lớn và phí sức rất nhiều. Khi muốn làm món đồ bằng gỗ, người ta cũng chỉ dùng cây đục đề móc và đẽo, khi cất nhà cũng làm như vậy. Người ta dùng đinh sắt đóng ghe lớn bộc ngoài bằng lá cây “giao”, lấy nẹp bằng cây cau giữ lại. Chiếc ghe loại này gội là Tân nô (新拿 –không rõ tiếng Khmer là gì). Ghe đi bằng chèo. Người ta trét ghe bằng mỡ cá trộn với vôi.

Ghe nhỏ làm bằng một thân cây lớn khoét theo hình cái máng, người ta hơ lửacho mềm và nới rộng ra bằng những đoạn cây, nên ghe rộng ở giữa và nhọn ở hai đầu. Ghe không có buồm và có thể chở nhiều người, người ta chỉ điều khiền bằng chèo. Ghe gọi là “Bì-lan” (皮闌).

THUỘC QUẬN (屬郡 Các tỉnh và quận)​
Có hơn chín chục tỉnh: Chân Bồ (真蒲 nay là Bà Rịa-Vũng Tàu) , Tra-Nam, Ba-Giàng (巴澗 nay là Bạc Liêu- Hà Tiên) , Mạc-Lương (莫良- nay là An Giang-Kiên Giang) , Bát-Tiết ( 八薛 -nay là Sài Gòn- Đồng Nai), Bồ-Mãi (蒲買- nay là Tây Ninh), Trĩ – Côn (雉棍- nay là Cà Mau), Mộc-Tân-Ba (木津波 nay là Đồng Tháp-Sray Vieng), Lại- Cảm-Khanh (賴敢坑nay là vùng Phnong Penh), Bát-Tê-Lý (八廝里 -nay là Battambang)…. tôi không thề nhớ chi tiết các tỉnh khác. Mỗi tỉnh cỏ quan chức và trong mỗi tỉnh người ta lập một vòng thành vững chắc bằng hàng rào cây (thực tế bây giờ địa danh, vùng đất cũng thay đổi nhiều, không thể so sánh với các tên địa danh mới chính xác được, chỉ nói tương đối mà thôi).

THÔN LẠC (村落 Làng xóm)
Mỗi làng có hoặc một ngôi nhà, hoặc một ngôi tháp. Dù dân cư không có gì đông đảo họ cũng có một vị quan địa phương gọi là “Mãi-tiết” (nguyên văn 買節 -phiên âm tiếng Khmer cổ: Mê Srok). Trên các đường lớn, có những nơi nghỉ chân giống như trạm dịch cùa chúng ta; người ta gọi là “Xâm-Mộc” (森木 –phiên âm tiếng Khmer cổ: Thala). Mới đây trong trận chiến với nước Xiêm các làng bị tàn phá hoàn toàn.

THỦ ĐẢM (取膽 Lấy Mật người)
Trước đây, trong tháng Tám (theo lịch Trung Hoa), người ta lấy mật người: đó là Vua Chiêm-Thành buộc mỗi năm phải nộp một hũ đựng hằng ngàn và hằng hà sa số mật người. Về đêm, người ta cắt người đứng rình ở những vùng trong các thành phố và các làng xóm có nhiều người qua lại. Khi bắt gặp kẻ nào đi đêm, họ chùm đầu bằng một cái mũ vải rút giây và dùng dao nhỏ mổ dưới cạnh sườn bên phải lấy mật ra. Người ta chờ đủ số rồi mới đem dâng Vua Chiêm-Thành. Tuy nhiên, người ta không lấy mật của người Trung Hoa, vì lẽ có một năm, người ta lấy mật của người Trung Hoa để chung với mật người khác tức thì tất cả mật trong hũ đều thối hết không thể nào dùng được. Mới đây, người ta bãi bỏ tập tục lấy mật và an trí riêng các quan chức phụ trách công tác này cùng những thuộc hạ cho ở trong thành gần cửa Bắc.

(Đây quả thực là một tục lệ ghê rợn và dã man, trong tạp chí của Trường Bác Cổ tập 2 năm 1902, trang 173, ông Paul Pelliot ghi rằng: Tục lệ giết người lấy mật là có ở Đông Dương. Người Á Đông tin rằng mật là trung khu của tính can đảm. Vì thế mật các loài thú và mật người là những phương thuốc thần hiệu trong ngành Y học Trung Hoa, người Champa và cả Việt Nam cho rằng biết lấy mật chuột xoa trên miếng giấy ban đêm kê vào mắt như mang kính sẽ thấy mọi vật rõ như ban ngày; mật rái cá xoa trên vải hay giấy bịt mũi lặn xuống sông thi nước sẽ rẽ ra cách mặt lổi một tấc???

Có thuyết cho rằng nếm mật để nuổt vị đẳng cho tri óc không nghĩ đến sự hưởng lạc mà chăm chú vào việc trả thù (Việt Vương Câu Tiễn)

Trương Vĩnh Ký trong quyển “Cours d’hisloire Annamite trang 110: “Vào thế kỷ thứ 14, vị Quốc Vương Annam bất lực, người ta trị bằng một thang thuốc trộn với mật của một gã trai tơ”

Aymonier, nhà khảo cổ Champa nổi tiếng người Pháp, trong quyển: Les Tchames et leurs religions, trang 33 có ghi: “Những người Chiêm Thành (Bình Thuận) thường nhắc lại rằng xưa kia, những tay thợ săn cọp và voi của nhà Vua là những kẻ được dân chúng nể sợ. Nhưng ghê gớm hơn là các vị Djalaouech là người chuyên môn lấy mật người đề tưới trên mình voi trận của Hoàng gia”. “Quả thật, những bản văn Chăm khắc trên đá cho chúng ta biết: Vị Quốc Vương tối cao của các Quốc Vương có con voi được tưới mật người mang tên Pittadvipa.

Ông cũng cho biết: Người Chăm có một niềm tin ghê rợn rằng mật người dùng để uống là một chất thuốc kích thích thần diệu giúp các chiến sĩ đánh giặc rất hăng. Người ta mổ những binh lính bị thương lấy mật ngay trên chiến trường.

Trong quyền: Kinh sai thắng lãm xuất bàn năm 1436 tập I trang 3, các Hoạn quan TQ ghi về Chăm-pa: “vị tù trưởng hằng năm lấy mật người sống hòa với rượu cùng người nhà uống, rồi thoa ướt mình mẩy”

Minh Sử cũng ghi những chi tiết như thế và viết thêm ở đoạn Thi Đảm: “Người nước ấy -Chân Lạp- lấy mật dâng nhà Vua, người ta cũng dùng mật rửa mắt voi. Thường thường rình ngưòi dọc đường thừa lúc không để ý giết thật nhanh, lấy mật đem đi. Nếu kẻ đó sợ hãi biết dược thì trái mật đã tan trước không dùng được nữa. Mật để trong hũ, mật người Tầu nổi lên trên ngay nên rất quí”

Trong bài: Première étude sur les inscriptions tchames đăng ở tạp chí Journal Asiatique, Aymonier viết: “Ở Cambodia tục lệ này hoàn toàn bị bãi bỏ vào giữa thế kỷ thứ 19 dưới triều Vua Ang Duong (1845-1859). Linh mục Bouillevaux viết rằng: “tháng 12 năm 1850, khi Linh mục vừa đến tỉnh Battambang thì lời đồn làm người ta sợ hãi; người ta nói trong vùng có nhiều tên “ioc pomat” nghĩa là kẻ giết người lấy mật. Vài người tỏ vẻ nghi ngờ Linh mục, e rằng ông là một “ioc pomat”.

Tài liệu đầy đủ nhất về vấn đề lấy mật người là tác phẩm của giáo sĩ Filippo de Marini, người Tây Ban Nha, nhan đề: Historia e relatione del Tunchino e del Giappone xuất bản ở Rome năm 1665, đoạn nói về Chân Lạp: “Hoàng triều đều có góp phần vào. Đây là một lối giết người tàn bạo và đáng thương, dù sự việc không xảy ra thường xuyên, trong một khoảng thời gian nào của mùa Đông có những kẻ hết sức dã man và vô nhân đạo chỉ vì tiền -hai mươi lăm hoặc ba muơi đồng vàng- mà chúng vào rừng rình bắt người và vô phúc cho người nào chúng gặp đầu tiên dù đàn ông hay đàn bà, già hay trẻ, tu sĩ hay thường dân, chúng sẽ rượt bắt sống rồi mổ bụng cắt túi mật. Chúng không cho hành động này là sát nhân, lại thản nhiên chặt đứt đầu người xấu số mà thân mình đẫm máu còn đang run rẩy, đoạn đem nộp cho vị quan nào chúng tôn trọng để chứng minh chúng lấy mật của người thật. Nếu chúng không tìm được ai và không thể thực hiện được kế hoạch kinh tởm, tàn bạo kia trong thời hạn ấn định với vị quan thỉ buộc lòng chúng phải tự sát hoặc giết vợ hay một đứa con. Kẻ bỏ tiền mua túi mật nhỏ một giọt thứ nhất vào rượu rồi đem lễ bái trong cuộc lễ ghê rợn, hoặc đề xoa trên đầu con voi. Họ tin tưởng chắc chắn đó là một sự thật hiển nhiên, con thú được xoa mật người sẽ trở nên mạnh bạo, can đảm, mập béo, nhất định sẽ thắng dễ dàng trong các trận đấu sức và trên các chiến trường.)

DỊ SỰ (異事 Chuyện dị thường)
Trong thành gần cửa Đông, có một tên man mọi gian dâm với đứa con gái. Da thịt của hai người dính nhau không thề tách rời, sau ba ngày không ăn uống, cả hai đều chết. Bạn đồng hương với tôi, họ Tiết, đã sống ở xứ này ba mươi năm có xác nhận rằng có thấy chuyện này xảy ra hai lần, nếu quả đúng vậy, đó là dân chúng biết áp dụng uy lực thiêng liêng của đức Phật. (đoạn này hơi khó hiểu, có lẽ bị thiếu)

TÁO DỤC (澡浴 Tắm gội)
Xứ này nóng dữ- dội, người ta không thể nào chịu nổi một ngày mà không tắm nhiều lần. Ban đêm cũng vậy, người ta không thể nào không tắm một hoặc hai lần. Không có nhà tắm, không có thau, không có thùng nhưng mỗi gia đình có một cái ao, nếu không hai hay ba gia đình xài chung một cái. Tất cả đàn ông và đàn bà vào tắm trần- truồng, chỉ khi nào cha mẹ hoặc người lớn tuổi  trong ao thì con trai, con gái hoặc người trẻ tuổi không vào.Khi bộn trẻ ở trong ao thì người lớn tránh ra nhưng nếu cùng một tuổi thi người ta không chú ý; đàn bà che chỗ kín bằng tay trái, họ trầm mình xuống nước và thế là hết.

Luôn luôn ba hay bốn, năm hay sáu ngày, các phụ nữ trong thành phố đi từng đoàn ba hoặc năm người ra khỏi chợ tắm dưới sông. Đến bờ sông, hộ cởi miếng vải quấn ngang mình rồi đi xuống nước. Hàng ngàn người tựu họp dưới sông như thế. Cả đến các bà thuộc gia đình quí phái cũng tham dự vào và không có ý thẹn thùng chút nào. Mọi người đều có thể ngắm họ từ đầu tới chân. Trên dòng sông lớn ngoài thành phố, không ngày nào không có cảnh ấy. Người Trung Hoa vào ngày rảnh rỗi thường hoan hỉ đến đây xem chơi cho vui. Tôi nghe nói có kẻ lặn dưới nước thừa cơ hội làm xằng.

Nước luôn luôn nóng như ở trên lửa, chỉ đến canh năm mới mát một chút, nhưng khi mặt trời mọc thì nóng lại như thường.

LƯU NGỤ (流寓 Người ngụ cư)
Người thủy thủ Trung Hoa nhận thấy ở xứ này rất thuận tiện, người ta không cần mặc quần áo và ngoài ra gạo rất dễ kiếm, đàn bà dễ kiếm, nhà dễ cất, đồ đạc dễ mua, việc mua bán dễ thao túng nên thường có kẻ bỏ trốn ở lại. (chứng tỏ Chân Lạp rất giàu có,và có rất nhiều người TQ di cư đến lập nghiệp, ngay cả tác giả cũng gặp người đồng hương Chiết Giang ở đây)

QUÂN MÃ (軍馬 Quân đội)
Quân lính cũng ở trần và đi chân không. Tay phải họ cầm giáo, tay trái cầm khiên. Không có cung, tên, không có nỏ, không có đạn, không có áo giáp, không có nón ( không hiểu tác giả miêu tả thế nào, nhưng trong Tùy Thư vào thế kỷ thứ 7, đoạn 82, trang 4, nói về Chân Lạp ghi rằng: “có hơn ngàn thị-vệ luôn luôn võ trang đứng trước Hoàng cung, mặc áo giáp và sẵn sàng chiến đấu”. Cựu Đường-thư vào thế-kỷ thử 10, đoạn 197, trang 2 ghi rằng: “các thớt voi trận của Chân Lạp mang trên lưng một cái tháp (bành) chở bốn chiến binh và trang cung tên).

Người ta thuật lại rằng trong trận đánh với người Xiêm người ta bắt buộc tất cả dân chúng phải tham chiến. Với một phương pháp thông thường, những người này không có chiến thuật và chiến lược.
( Qua miêu tả của tác giả, có thể thấy là quân đội Chân Lạp không mạnh, họ đã bị quân Xiêm, Chăm-pa đánh, thậm chí phải nộp cống mật người cho vua Chăm-pa)

QUỐC CHỦ XUẤT NHẬP (國主出入Nhà Vua ra, vào)​Tôi nghe nói rằng dưới triều các Vua trước, dấu bánh xe của các Ngài không bao giờ in khỏi cửa cung, đó là đề đề phòng những trường hơp bất trắc. Tân vương là rể của nhà Vua trước. Xưa kia, Ngài giữ chức chỉ huy quân đội. Ông cha vợ (bị con rể lật đổ) thương con gái, đứa con gái ăn cắp cây gươm vàng (Prah Khan) của cha đem cho chồng. Người con ruột sau này không được lên ngôi. Ông ta âm mưu chiêu mộ quân sĩ nhưng Tân vương biết được bắt chặt ngón chân và nhốt trong ngục tối (Tùy Thư vào thế kỷ thứ 7 có ghi việc các Quốc Vương Chân Lạp khi lên ngôi truyền chặt tay hoặc cắt mũi mấy người em rồi đem giam vào một nơi kín đáo cho ăn uống tử tế, nhung không giao phó chức vụ nào cả). Trên thân thể Tân vương có khảm (có lẽ là gắn vào) một miếng sắt thiêng dù dao và tên chạm vào cũng không thể gây thương tích. Tin chắc như vậy nên Ngài mới dám ra khỏi cung.
Tôi ở trong nước hơn một năm và tôi thấy Ngài đi ra bốn hay năm lần. Khi nhà Vua du hành, quân đội đi đầu để hộ tống, kế đến là cờ của kỵ binh, cờ hiệu, giàn nhạc. Các thị nữ trong cung từ ba đến năm trăm, mặc hàng vải thêu cành lá, dắt bông trên đầu tóc, tay cầm đèn cầy, họp thành một toán riêng, mặc dù giữa ban ngày đèn cầy vẫn đốt cháy. Tiếp đó là các thị nữ bưng vật dụng của nhà Vua bằng vàng, bằng bạc, và tất cả bộ đồ trang hoàng với kiều mẫu hết sức đặc biệt mà tôi không biết cách dùng. Kể đến các thị nữ cầm khiên, vác giáo là đoàn canh phòng riêng biệt trong cung; các thị nữ này cũng hợp thành toán riêng. Tiếp theo là xe do dê kéo, xe ngựa tất cả đều trang hoàng bằng vàng.
Các quan, các vị Hoàng thân đều cưỡi voi, trước mặt quí vị người ta thấy những cây lọng đỏ của những bậc quyền quí từ xa, nhiều vô số.
Sau các bậc quyền quí là các bà vợ và cung phi của nhà Vua ngồi kiệu, ngồi xe, cưỡi ngựa, cưỡi voi, các bà có hơn trăm cây lọng thêu chỉ vàng lóng lánh. Sau quý bà là nhà Vua đúng trên lưng voi, tay cầm gươm báu. Ngà voi cũng được bọc trong bao vàng. Có hơn hai chục cây lọng trắng thêu chỉ vàng lóng lánh và cán bằng vàng. Rất nhiều voi đi xung quanh Ngài và có thêm toán quân lính hộ vệ Ngài.
Nếu nhà Vua đến một vùng láng giềng, Ngài chỉ dùng kiệu vàng do các cung nữ khiêng.
Thường thường Ngài ra ngoài để viếng ngôi tháp vàng nhỏ, trước tháp có một tượng Phật vàng. Người nào trông thấy nhà Vua phải quỳ gối và dập đầu xuống đất, người ta gọi đó là “Tam bãi” (三罷, phiên âm tiếng Khmer, không rõ là gì) nếu không họ sẽ bị các ông Mạo Sự (事者-quan coi việc nghi lễ) bắt mà không khi nào được tự do không. (nguyên văn 不虚釋也 -sở cầm bất hư thích dã- không khi nào được tự do không, không hiểu “không” đây là không nộp tiền phạt, nộp hối lộ hoặc bị tù tội, vì tác giả không giải thích rõ ràng) Mỗi ngày, nhà Vua thiết triều hai lần đề xét đoán các việc quốc gia. Không có giấy tờ, công văn quy định. Công chức hoặc dân chúng muốn triều kiến nhà Vua đều ngồi dưới đất chờ. Một lát, người ta nghe một điệu nhạc văng vẳng trong cung và ở ngoài người ta liền thồi vỏ ốc ( điều này cho thấy, dù đạo Phật đã rất thịnh hành, nhưng ảnh hưởng của Ấn Độ Giáo vẫn rất mạnh, các tu sĩ Bà La Môn ở trong triều thổi vỏ ốc khi Vua ngự ra ngai vàng hoặc trong các buổi lễ lớn) như đón chào nhà Vua.
Tôi nghe nói rằng nhà Vua chỉ ngồi trên một cái kiệu vàng đến đó. Ngài dừng lại cách xa chúng tôi. Lát sau, người ta thấy hai cung nữ đưa ngón tay thon nhỏ vén màn, và nhà Vua tay cầm gươm xuất hiện đứng trong cửa sổ vàng. Các quan và dân chúng chắp tay, dập đầu xuống đất. Khi tiếng vỏ ốc ngưng thổi, hộ mới có thề ngẩng lên. Liền khi ấy, nhà Vup ngồi xuống. Nơi Ngài ngồi có một miếng da sư tử là bảo vật của Hoàng triều truyền lại. Khi các việc thương nghị chấm dứt, nhà Vua trở về cung, hai cung nữ bỏ màn xuống, mọi người đứng dậy. Theo đó, người ta thấy rằng mặc dầu là một nước man di, những người này không phải không biết thế nào là một vị Quốc vương (nguyên văn 以此觀之,則雖蠻貊之邦,未嘗不知有君也 -dĩ thử quan chi tắc tuy man, mịch chi ban, vị thường bất tri hữu quân dã- nghĩa là: cứ thử mà coi thì mặc dầu là một nước man di cũng vẫn biết có Vua).


Vài hình ảnh minh họa cho sinh động cụ ạ, cho ấn bản xuất bản năm 2001 tại Trung Quốc.

Hoàng Gia Chân Lạp, tranh vẽ của họa sĩ Bắc Triều Tiên, cho lần xuất bản 2001 của TQ:

Quân Chăm-pa tấn công Chân Lạp, tranh của họa sĩ BẮc Triều Tiên, cho lần xuất bản 2001

Cuộc sống Chân Lạp mà Chu Đạt Quan đã mô tả, tranh của họa sĩ Bắc Triều Tiên, cho lần xuất bản 2001

Bản đồ hành trình của cụ Chu Đạt Quan từ TQ sang Chân Lạp:

Chân dung tác giả, cụ Chu Đạt quan, rất đúng trang phục thời nhà Nguyên