Cao Văn Nghiệp – ĐỊA DANH BÌNH THỦY – TP. CẦN THƠ

Cá Vàng cùng với Lê Ngọc Quốc và 3 người khác.

Yêu thích ·13 Tháng 7 lúc 15:14 ·

ĐỊA DANH BÌNH THỦY – TP. CẦN THƠ

(Cập nhật ngày 23/7/2025)

Bình Thủy là tên sông/ rạch, tên thôn/ làng/ xã/ phường, tên quận, tên chợ, tên đình…

Trong sách Hoàng Việt nhất thống dư địa chí 1806 (Quyển 7, mục Ghi chép về dinh Vĩnh Trấn) của Lê Quang Định, Phan Đăng dịch (Nxb Thuận Hoá, năm 2005) có đoạn sau đây có liên quan đến rạch Bình Thủy:

“2.000 tầm, hai bên bờ có dân cư thưa thớt và rừng rậm, đến rạch Bình Thủy, rạch ở phía bên phải, rộng 8 tầm, sâu 2 tầm, chảy 300 tầm đến ngả ba: Nhánh bên phải thông ra rạch Ổ Môn[1], nhánh bên trái đến Ngả Ba Láng, phía trái thông ra rạch Cần Thơ rồi chảy xuống Hậu Giang, phía phải thông ra láng Rạch Giá rồi ra Cửa Bé.” (tr.333)

Đối ứng với “rạch Bình Thuỷ”, trong nguyên tác chép là “Bình Thuỷ rạch” 平水瀝[2].

Trong sách Gia Định thành thông chí 1820 (Quyển 2: Sơn xuyên chí, mục Trấn Vĩnh Thanh) của Trịnh Hòai Đức, Phạm Hoàng Quân dịch, chú và khảo chứng (Nxb Tổng Hợp, Tp. HCM, 2019) có đoạn sau đây có liên quan đến sông Bình Thủy:

“Cần Thơ giang, ở bờ tây sông Hậu, rộng 8 tầm, sâu 5 tầm, cách trấn lỵ về phía nam 210 dặm rưỡi. Bên bờ tây là thủ sở đạo Trấn Giang, chợ phố sầm uất, khách buôn tụ tập đông đảo. Từ sông lớn xuống nam 121 dặm rưỡi ra cửa biển Ba Thắc. Từ cửa sông đi về tây 8 dặm rưỡi đến ngã ba, ngã bắc chuyển qua đông 1 dặm rưỡi thông với sông Bình Thủy rồi ra sông Hậu (trước đó nửa dặm chảy về bắc rồi chuyển qua đông 1 dặm, chảy ra Ô Môn thông với sông Hậu); ngã tây 78 dặm rưỡi đến Nê Trạch (tục gọi Ba Láng), 165 dặm rưỡi ra cửa Cảng Nhỏ đạo Kiên Giang (tục gọi Của Bé)…” (tr.108).

Đối ứng với “sông Bình Thủy”, nguyên văn chép là “平水江” (Bình Thủy giang)[3].

Theo Gia Định thành thông chí 1820 (Quyển 3: Cương vực chí), “Bình Thủy thôn” 平水村 là 1 trong số 37 thôn, xóm (điếm) thuộc huyện Vĩnh Định (chưa chia thành nhiều tổng), phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh, thành Gia Định.

Vì trong số 37 thôn, xóm (điếm) thuộc huyện Vĩnh Định có một số thôn mới lập (“thủy lập” 始立), thí dụ như thôn Bình Trung mới lập, Bình Lâm mới lập, Bình Đức mới lập, Mỹ Phước mới lập…, nên chúng tôi phỏng đoán thôn Bình Thủy được thành lập trước năm 1816.

Năm 1832, tỉnh An Giang được thành lập. Theo địa bạ lập năm 1836 (năm Minh Mạng thứ 17), thôn Bình Thủy thuộc tổng Định Thới, huyện Vĩnh Định, phủ Tân Thành, tỉnh An Giang. Thôn này gồm 2 xứ “Bình Thường” 平常 và “Bình Phú” 平富; đông giáp 2 thôn Thới Bình và Tân An [đều thuộc] tổng Định Bảo, tây giáp thôn Thới An Đông và giáp rừng[4], nam giáp thôn Nhơn Ái tổng Định Bảo và giáp rừng[5], bắc giáp sông. (Theo Gia Định thành thông chí 1820 (Quyển 3: Cương vực chí), các thôn Thới Bình 泰平, Tân An 新安, Thới An Đông 泰安東 đều thuộc huyện Vĩnh Định (chưa tổng), phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh, thành Gia Định).

Hiện nay trong đình thần Bình Thủy còn lưu giữ “Sắc Bổn Cảnh Thành Hoàng Chi Thần” do vua Tự Đức ban ngày 29 tháng 11 năm Tự Đức thứ 5 (nhằm ngày 8/1/1853 dl). Trong Sắc này ghi địa danh hành chính là: “Phong Phú huyện, Bình Thủy thôn” 豊富縣平水村.

Trong Từ điển địa danh hành chính Nam Bộ (Nxb Chính trị Quốc gia, 2008), Nguyễn Đình Tư cho biết về thôn/ làng Bình Thủy, tổng Định Thới như sau (xin trích một đoạn): “Ngày 11-5-1889, nhượng một khoảng đất rồi chia đôi, một nửa nhập vào làng Mỹ Khánh, tổng Định Bảo, một nửa nhập vào làng Thới Giai cùng tổng, một khoảng khác cho làng Thới Bình, tổng Định Bảo, đổi lại được sáp nhập một khoảnh của làng Tân Khánh và một khoảng của làng Bình Thủy Đông giải thể. Sau đó không rõ năm nào giải thể nhập vào làng Long Tuyền.” (tr.237)

Còn theo cuốn Lịch Annam thông dụng trong Nam Kỳ 1899 (Saigon, Nhà in Quản hạt, 1899), tổng Định Thới có 10 làng: Bình Phước, Bình Xuân, Tân Thới, Thới An, Thới An Đông, Long Tuyền, Phú Luông, Thới Giai, Thới Hanh, Thới Hưng. (tr.198). Như vậy, theo tác phẩm này, làng Long Tuyền được ghi nhận, còn làng Bình Thủy thì không còn nữa.

Từ các thông tin nêu trên, chúng tôi tạm phỏng đoán làng Bình Thủy bị sáp nhập vào làng Long Tuyền vào khoảng giữa năm 1889 đến giữa năm 1899[6]. Còn xã/ phường Bình Thủy (mới) được thành lập từ năm nào thì chúng tôi chưa biết.

Theo cuốn Cần Thơ xưa và nay (Nxb Cánh Bằng, 1966) của Huỳnh Minh, tỉnh Phong Dinh cũng không có tên làng Bình Thủy, còn xã Long Tuyền thì thuộc tổng Định An, quận Châu Thành, tỉnh Phong Dinh.

Theo Quyết định ngày 21 tháng 4 năm 1979, phường Bình Thủy bị cắt đất để thành lập phường An Thới. Từ tháng 1/2004, 3 phường Bình Thủy, An Thới, Trà Nóc và 3 xã Long Hòa, Long Tuyền, Thới An Đông thuộc quận Bình Thủy (mới lập), tp. Cần Thơ. Từ 1/7/2025, phường An Thới, phường Bình Thủy và một phần phường Bùi Hữu Nghĩa (quận Bình Thủy cũ) sáp nhập lại và lấy tên là phường Bình Thủy.

Chúng tôi chưa biết chợ Bình Thủy thành lập từ năm nào, chỉ thấy tên chợ “Binh-thủy” thuộc thôn Bình Thủy, tổng Định Thới, hạt thanh tra Cần Thơ được ghi trên trên Bản đồ Nam Kỳ (Carte de la Cochinchine) được vẽ khoảng tháng 9/1867 đến tháng 4/1868. Còn theo cuốn Lịch Annam thông dụng trong Nam Kỳ 1899 (Saigon, Nhà in Quản hạt, 1899), chợ Bình Thủy thuộc làng Long Tuyền, tổng Định Thới [hạt Cần Thơ]. (tr.199). Cũng theo cuốn này, Bình Thủy cũng là tên trường học, tọa lạc trong địa bàn làng Long Tuyền, tổng Định Thới. (tr.197).

Bình Thủy cũng là tên đình. Trong bài Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Đình Bình Thủy (Long Tuyền Cổ Miếu), Huỳnh Thị Tuyết Nhung – Nguyễn Thị Ngọc Lụa cho biết: “Năm 1909, ông Hương cả Nguyễn Doãn Cung và Hương chủ Dương Lập Cang xây dựng lại ngôi đình tại chỗ cũ ở vàm rạch Bình Thủy, do ông Huỳnh Trung Trinh thiết kế. Công cuộc xây dựng bắt đầu từ ngày 12 tháng 7 năm 1909 đến 1910 thì hoàn thành và tồn tại đến ngày nay”. Nếu đúng như vậy thì lúc đó đình nằm trong địa phận làng Long Tuyền, tổng Định Thới, tỉnh Cần Thơ.

Về nguồn gốc địa danh Bình Thủy, trong Tự vị tiếng nói miền Nam (Nxb Trẻ, 1999), học giả Vương Hồng Sển cho biết:

“Cơ me: kompul mas (di cảo TVK trong Le Cisbassac).

Dịch từ chữ: kompul mas là viết theo lối xưa, nay viết rẻ lại cho ít gai gốc, thì kompul hay kômpòl: huppa (Dict. J.B. Bernard)[6] mãs: méas: vàng, kim. Như vậy, Bình Thủy: kômpòl méas: Xứ chóp vàng, chóp, ngọn chóp bằng vàng.

cũng viết kompoul méas: chóp vàng (sommet d’or)”. (tr.74)

Từ lời giảng trên, chúng tôi phỏng đoán: Kompul/ kampoul/ កំពូល nghĩa đỉnh, chóp;

Mas/ Meas/ មាស nghĩa là vàng. Có thể vào thời xa xưa, ở Bình Thủy từng có cái tháp mà chóp tháp được làm bằng vàng hoặc dát vàng (?).

———–

[1] Ổ Môn: Nguyên văn là “塢門”. Mặc dù chữ “塢” (gồm chữ “thổ” 土 bên trái và chữ “ô” 烏 bên phải) có thể đọc là ổ, ỏ, ụ, ủ, nhưng địa danh này xưa nay vẫn được gọi là Ô Môn, có một số người nói trại thành Ôn Môn. Địa danh Ô Môn trong Gia Định thành thông chí 1820 của Trịnh Hoài Đức chép là “烏門” (chữ 烏 không có bộ “thổ” 土).

[2] Như vậy, tên rạch Bình Thủy xuất hiện trễ lắm là vào năm 1806, tức không phải địa danh này do Tuần phủ Huỳnh Mẫn Đạt đặt tên vào năm 1852 (theo một giai thoại do Huỳnh Minh chép trong cuốn Cần Thơ xưa và nay, Nxb Cánh Bằng, 1966, tr.182).

[3] Trong chú thích về “Bình Thủy giang” của Phạm Hoàng Quân có: “Di cảo TVK không đối chiếu tên sông nhưng ghi thị trấn Bình Thủy có tên tiếng Khmer là Kompul mas.” (tr.245).

[4] [5]: “và giáp rừng”: Nguyên văn là “hựu cận lâm” 又近林. Nguyễn Đình Đầu, trong Nguyên cứu địa bạ triều Nguyễn – An Giang (Nxb Tp HCM, 1995. tr.216), dịch sót các chữ này.

[6] Có lẽ tác giả Bản đồ địa hình hạt tham biện Cần Thơ 1890 (Plan topographique de l’arrondissement de Can Tho 1890) căn cứ vào các thông tin khoảng nửa cuối năm 1899 nên trong địa bàn tổng Định Thới có tên làng Bình Thủy, còn tên làng Long Tuyền thì không.

[7] Có lẽ cụ Vương đã lầm, vì theo J.B. Bernard, trong Dictionnaire cambodgien-français (Hong Kong, Imprimerie de la Société des Missions Etrangères, 1902), “Kǒmpōi” (không phải kômpòl) có nghĩa là “Huppe” [đầu rìu, cái mào của con chim]; còn “Kǒmpul” mới có nghĩa là “Sommet, cime” [đỉnh, ngọn, chóp]. (tr.144)