Đào Thái Sơn – RỪNG QUANG HÓA VÀ CUỘC NỔI LOẠN CỦA LÊ VĂN KHÔI

Đào Thái Sơn

Yêu thích  · 26 Tháng 3 lúc 06:34  · 

RỪNG QUANG HÓA VÀ CUỘC NỔI LOẠN CỦA LÊ VĂN KHÔI

Nhắc tới Lê Văn Khôi người ta thường nhớ đến ông với cuộc nổi loạn chiếm thành Phiên An năm 1833 và khu Mã Ngụy ở đất Sài Gòn, chứ ít ai nhớ đến căn cứ rừng Quang Hóa. Nhưng thực chất cuộc nổi loạn này có liên quan trực tiếp tới khu rừng xưa của đất Tây Ninh. Trong bài viết ngắn này, chúng tôi xin trở lại một chút chuyện xưa để phần nào giúp các bạn trẻ có thể hình dung về một góc nhỏ lịch sử của quê hương mình.

Trước thế kỷ XVII, Tây Ninh chủ yếu là rừng hoang và đầm lầy. Giai đoạn Trịnh Nguyễn phân tranh, người dân vùng Ngũ Quảng bắt đầu tiến vào Phương Nam để làm ăn sinh sống, trong đó có Tây Ninh. Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam ổn định tình hình và thiết lập bộ máy hành chính để quản lý lưu dân trên đất mới. Phủ Gia Định được thành lập với hai dinh Trấn Biên và Phiên Trấn – Tây Ninh thuộc Phiên Trấn. Bấy giờ Tây Ninh được thành lập hai đạo là Quang Hóa và Quang Phong thuộc Phước Long, năm 1779 thì cắt qua cho Tân Bình. Năm 1802 vua Gia Long lên ngôi đổi Phủ Gia Định thành Trấn Gia Định. Năm 1808 Trấn Gia Định lại đổi thành Thành Gia Định gồm 5 trấn, Tây Ninh thuộc Phiên An. Năm 1832 vua Minh Mạng đổi 5 trấn thành 6 tỉnh, Tây Ninh thuộc Phiên An tỉnh thành. Năm 1838 vua Minh Mạng đổi Phiên An tỉnh thành thành Tỉnh Gia Định có 3 phủ, phủ Tây Ninh có hai huyện là Quang Hóa và Tân Ninh.

Tây Ninh nói chung, Quang Hóa nói riêng thuở ấy chủ yếu là rừng già. Rừng Quang Hóa theo sách Gia Định Thành Thông Chí được Trịnh Hoài Đức mô tả : “ Ở địa giới cùng tột phía Tây của trấn. Ở đây gò đống trùng điệp, rừng rậm liên tiếp, cây gỗ cao lớn đứng chọc trời, chen kín mặt trời, um tùm chừng vài trăm dặm. Ở đây có gỗ đóng ghe đóng thuyền, nên thợ rừng, thợ mộc cất lều trại để đốn gỗ, làm than củi, lấy dầu rái, mây cứng, mây nước và săn bắn những loài tê, voi, hươu nai, ngựa rừng, trâu rừng, chim muông để lấy nanh, sừng, lông thú, lông chim, phơi khô thịt và da rồi đem bán kiếm rất nhiều lợi”. Chính vì đặc điểm của rừng Quang Hóa có nhiều yếu tố phù hợp với việc đóng ghe thuyền nên Tổng trấn Gia Định Thành Lê Văn Duyệt mới sai Chánh Vệ Úy Lê Văn Khôi lên đây lập căn cứ khai thác gỗ để sửa sang các dinh thự bị hư hoại do chiến tranh trước đó, đặc biệt là đóng chiến thuyền để đề phòng quân Xiêm sang xâm lược. Việc này về sau trở thành cái cớ để Bạch Xuân Nguyên hạch tội Lê Văn Khôi và hạ bệ danh dự Lê Văn Duyệt.

Lê Văn Khôi tên họ gốc là Bế Khôi, khi tòng quân lấy tên là Nguyễn Hựu Khôi. Ông là người dân tộc Nùng ở Cao Bằng từng dấy loạn nên bị quân triều đình đánh chạy vào Thanh Hóa. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện chép: “ Năm Gia Long thứ 18 (1819), ở hai trấn Thanh Nghệ và Thanh Bình, Thiên Quan, những lưu dân, thổ phỉ tụ họp nhau làm giặc, quan sở tại không kiềm chế nổi, vua sai Tả quân Lê Văn Duyệt tới đó kinh lược. Khôi mộ quân lệ thuộc dưới trướng, đánh dẹp thường có công. Duyệt yêu mến dùng làm nanh vuốt ”. Sử gia Trần Trọng Kim cho biết thêm: “ Lê Văn Khôi, khởi binh làm loạn, bị quan quân đuổi đánh, mới chạy vào Thanh Hóa, gặp Lê Văn Duyệt xin đầu thú. Ông Duyệt tin dùng cho làm con nuôi, đổi tên họ là Lê Văn Khôi, rồi đem về Gia Định cất nhắc cho làm đến phó Vệ Úy”. Lê Văn Khôi có võ nghệ cao cường và sức khỏe phi thường. Ông là người không những có khả năng tay không giết cọp mà còn bắt sống được mãnh hổ.

Theo sách Cuộc đời oanh liệt của Tả quân Lê Văn Duyệt tác giả Lê Đình Chân có chép : “ Khi Lê Văn Duyệt giữ chức tổng trấn thành Gia Định, một hôm, có sứ thần Xiêm La (Thái Lan bây giờ) ngồi trên vọng đài xem các võ sĩ ta đấu với hổ. Dân chúng thành Gia Định chen chúc nô nức đến xem. Lệnh của Tả quân là chỉ được bắt sống. Nhưng võ sĩ Lê Văn Khôi gặp con hổ dữ đã bị nó chồm lên và tát ngay vào gáy. Khôi né mình đánh một côn sắt vào hổ, hổ ngã lăn giãy giụa một lúc rồi chết. Sứ thần Xiêm La tấm tắc khen ngợi. Nhưng Tả quân tức giận truyền cho quân sĩ bắt trói chịu tội. Lê Văn Khôi đến trước vọng đài cúi đầu xin tha tội vì đã giết lỡ hổ mà lệnh chỉ bắt sống. Võ sĩ xin đấu lại để chuộc tội, Tả quân đã bớt giận, truyền lính thả hổ khác cho Khôi bắt sống. Cuộc tỉ thí lần này thật hồi hộp, vờn nhau với hổ dữ, Khôi đã dùng miếng võ hiểm đá vào hàm dưới của hổ bất ngờ. Hổ đau quá, nằm lăn ra. Khôi lấy cuộn thừng giắt trong mình trói lại, trước khán đài xin chuộc tội. Sứ thần không dứt lời khen dũng sĩ đấu với hổ. Tả quân Lê Văn Duyệt ung dung nói: – Bọn quân sĩ dưới trướng tôi đều như thế cả, có gì mà đại nhân phải ngợi ca ”. Nếu so Lý Quỳ hay Võ Tòng với Lê Văn Khôi thì hai anh hùng Tàu còn kém xa.

Khi vua Gia Long cử Tả quân Lê Văn Duyệt làm Tổng trấn thành Gia Định thì Lê Văn Khôi được cha nuôi phong chức Chánh Vệ Úy, cùng hai người khác làm Phó Vệ Úy là Nguyễn Văn Chắm và Tú tài Hoành. Lê Văn Duyệt ra lệnh cho Lê Văn Khôi cùng Mạch Tấn Giai đưa binh lính lên đạo Quang Hóa ( Trảng Bàng Gò Dầu và Bến Cầu ngày nay) lập căn cứ và khai thác gỗ đóng chiến thuyền cho quân đội của Đức Tả Quân đề phòng quân Xiêm tấn công Thành Gia Định.

Như chúng ta đã biết, sau khi vua Gia Long băng hà, ngôi báu không truyền cho Hoàng Tôn Đán mà lại truyền cho Thái Tử Đảm. Thái Tử Nguyễn Phúc Đảm lên ngôi lấy niên hiệu là Minh Mạng. Vua Minh Mạng vốn có nhiều hiềm khích và tư thù với Tả quân Lê Văn Duyệt nhưng không dám làm gì bởi công lao và uy quyền của Lê Văn Duyệt quá lớn. Cho nên ngay sau khi năm 1832 Lê Văn Duyệt mất, việc đầu tiên của nhà vua Minh Mạng là giành lại quyền lực của mình ở Gia Định. Cũng cùng năm đó, nhà vua cho bãi bỏ chế độ Tổng trấn, cải 5 trấn thành 6 tỉnh gọi là Nam Kỳ lục tỉnh gồm: Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, tất cả đều trực thuộc vào triều đình Huế. Đồng thời biến thành Gia Định thành trị sở của quan Tổng đốc tỉnh Phiên An. Sau đó vua Minh Mạng cắt đặt quan lại vào thay là: Nguyễn Văn Quế (Tổng đốc), Bạch Xuân Nguyên (Bố chính), và Nguyễn Chương Đạt (Án sát). Nhà vua mật sai dựng lên vụ án Lê Văn Duyệt để hòng triệt hạ tất cả gia quyến cũng như các thuộc hạ của ngài.

Ngay khi vừa mới nhậm chức, Bạch Xuân Nguyên cho triệu hồi Lê Văn Khôi và các thuộc hạ để điều tra về nguồn lợi khai thác từ rừng Quang Hóa. Và sau đó Bạch Xuân Nguyên khép tội cha con ngài Tả quân khai thác rừng Quang Hóa là có ý đồ cát cứ, chứ không phải đề phòng quân Xiêm. Lê Văn Khôi bắt đầu bị giam lỏng. Phần tức giận vì cha bị nhục mạ, phần thì sợ tội, nên Lê Văn Khôi quyết mưu với mấy người cùng cánh để khởi binh chống lại triều đình.

Ngày 15 – 5 – 1833 Lê Văn Khôi cùng các tướng Nguyễn Văn Chắm, Tú tài Hoành…và 27 lính hồi lương kéo đến Dinh Tổng Trấn chém đầu Bạch Xuân Nguyên, Nguyễn Văn Quế, Nguyễn Như Xuân, riêng Nguyễn Chương Đạt thì trốn thoát. Sau khi chiếm được thành Phiên An, Lê Văn Khôi ra lệnh mở cửa nhà tù, thả hết phạm nhân và phát khí giới cho họ. Lê Văn Khôi bèn tự xưng làm Nguyên súy, phong tặng các tướng và sắp đặt quan chức cai trị như một triều đình riêng. Để có chính nghĩa và có nhiều người theo, Lê Văn Khôi tuyên bố tôn phò Hoàng tôn Đán, con trai trưởng của Hoàng tử Cảnh. Sau đó, Lê Văn Khôi sai Phó tướng Lê Đắc Lực mang quân tiến đánh và chiếm được thành Biên Hòa, Thái Công Triều thì mang quân đi đánh chiếm các tỉnh thành phía Nam. Đêm 7 tháng 6 năm 1833, quân nổi dậy tiến công, lần lượt chiếm được các tỉnh: Định Tường, Vĩnh Long, An Giang…và chưa đầy một tháng cả Nam kỳ lục tỉnh đều thuộc về lực lượng nổi dậy của Lê Văn Khôi.

Vụ nổi loạn này làm vua Minh Mạng cả giận, vua sai các tướng tài giỏi của triều đình Huế vào chinh phạt Lê Văn Khôi, nhưng đều bị quân Lê Văn Khôi đánh bại. Tuy nhiên sau đó tướng của Lê Văn Khôi là Thái Công Triều đã phản bội và đầu hàng triều đình, dẫn quân đánh lại Lê Văn Khôi. Rơi vào tình cảnh này, Lê Văn Khôi vừa phòng thủ thành Phiên An vừa củng cố căn cứ cũ ở rừng Quang Hóa đề phòng khi vỡ thành thì có nơi để rút lui. Quân triều đình tấn công quân nổi dậy mấy chục trận nhưng vẫn không phá được thành. Mãi đến năm 1834, Lê Văn Khôi lâm trọng bệnh và qua đời thì quân triều đình mới dần chiếm được ưu thế. Tháng 7 năm 1835, quân triều đình dưới sự chỉ huy của các tướng Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Xuân, Nguyễn Hữu Tâm, Nguyễn Văn Trọng…cùng công thành. Mất người chỉ huy tài giỏi, thành Phiên An tan vỡ, tổng cộng 1831 người bị bắt giết và chôn tập trung tại khu Mã Ngụy – Sài Gòn hiện nay.

Sau khi dẹp yên, năm 1835, triều thần ở Đô sát viện là Phan Bá Đạt dâng sớ hài tội Lê Văn Duyệt và khép Tả quân vào tội gây nên sự biến ở thành Phiên An. Vua Minh Mạng dụ rằng: “…bọn tiêu hạ của hắn (chỉ Lê Văn Duyệt) toàn là quân hung đồ, quen làm những việc bất thiện. Chúng nó đã quen thấy hắn dối chúa, lấn trên…”. Kết cục, Tả quân Lê Văn Duyệt bị khép bảy tội phải chém, hai tội phải thắt cổ, một tội phải sung quân; nhưng vì ông Duyệt mất đã lâu nên chỉ cho người truy đoạt quan tước, sang phẳng mồ mả và dựng lên đấy bia đá trên viết to những chữ : Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ ”. Còn riêng Lê Văn Khôi và các thuộc hạ thì Đại Nam chính biên liệt truyện có chép: “ Tra xét nơi chôn thây tên nghịch Khôi, đào lấy xương đâm nát chia ném vào hố xí ở 6 tỉnh và cắt chia từng miếng thịt cho chó, đầu lâu thì đóng hòm đưa về kinh rồi cùng đầu lâu những tên phạm khác bêu treo khắp chợ búa nam bắc, xong vất xuống sông. Còn bè đảng a dua không cứ già trẻ trai gái đều ở vài dặm ngoài thành chém ngay, rồi đào một hố to vất thây lấp đất, chồng đá làm gò dựng bia khắc: nơi bọn nghịch tặc bị giết, để tỏ quốc pháp”.

Từ vấn đề nổi loạn của Lê Văn Khôi cộng thêm mối thù với Lê Văn Duyệt nên vua Minh Mạng có dụ rằng: ““Phạm viên : viên quan phạm tội. Lê Văn Duyệt, lúc còn sống, mạo danh nghĩa, tự cho mình là công bằng trung trực đối với nước, nhưng xét đến việc làm, điều gì cũng ngông cuồng bội nghịch, dần dần gây nên vụ án quan trọng. Trước đây ta đã giao cho [đình thần] công nghị, nêu rõ tội danh, đủ làm gương răn ngàn đời cho kẻ hoạn quan chuyên quyền. Nay xét lời tâu thấy rằng [Văn Duyệt] thực có lòng tham lam bỉ ổi, ngay như việc ẩn lậu dân Man đến hàng nghìn người và lại uỷ cho hạng tâm Phước là nghịch Khôi, thu vét sản vật để làm lợi riêng cho mình ! Nghịch Khôi nhân đó gây nên tệ hại, phạm pháp, làm loạn, nói sao cho xiết tội nó được ! Quản đạo Quang Hoá là Nguyễn Văn Thái bấy lâu nương tựa cửa quyền hoạn quan, khéo léo xoay xoả, vậy chuẩn cho lập tức phát vãng thành Trấn Tây làm lính ; đội trưởng, lại dịch là bọn Hoàng Phi Hán, Lê Công Hi, 10 người thông đồng ẩn lậu, đều phát vãng đồn Côn Lôn làm lính. Tổng đốc Nguyễn Văn Trọng, Bố chính Tôn Thất Lương không biết kiểm sát, tâu trình, đều giáng 2 cấp. Nay đổi đặt đồn Xỉ Khê làm huyện Tân Ninh ; đạo Quang Hoá làm huyện Quang Hoá, gọi thành Quang Hoá là huyện thành. Lại đặt phủ Tây Ninh kiêm lý huyện Tân Ninh. Nhân cái đồn bảo cũ, chữa cao rộng thêm, để làm thành phủ thành. Đổi sông Đục là sông Thanh Lưu, đặt đồn, bảo Thanh Lưu, cho lệ thuộc vào huyện Tân Ninh”( Đại Nam thực lục, quyển 4, trang 989 – Thực lục về thánh tổ nhân hoàng đế, Bính Thân, Minh Mệnh năm thứ 17 (1836) – Nguyễn Thế Đạt, Trương Văn Chinh, Nguyễn Danh Chiên, Ngô Hữu Tạo, Nguyễn Mạnh Duân, Đỗ Mộng Khương – dịch).

Cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi cuối cùng cũng bị dìm trong bể máu. Nhưng trước sau, Lê Văn Khôi vẫn là một nhân vật lịch sử lớn của vùng đất Nam Bộ. Công hay tội của ông không phải vài trang giấy mà nói hết được. Và một điều cần lưu ý là trong sự nghiệp lẫy lừng của ông có một giai đoạn gắn liền với vùng đất Tây Ninh mà cụ thể là rừng Quang Hóa. Nếu đọc sử Tây Ninh mà bỏ quên Lê Văn Khôi thì coi như là một điều thiết sót lớn vậy.

ĐÀO THÁI SƠN