Đại Nam Thực Lục tập 01 – bản dịch NXB Giáo Dục 2003

Tiền biên – Quyển V – Thực lục về Thái Tông Hiếu triết hoàng đế (Hạ)

Kỷ mùi, năm thứ 31 [1679], mùa xuân, tháng giêng, tướng cũ nhà Minh là Long Môn tổng binh 龍門總兵 Dương Ngạn Địch 楊彥迪 và Phó tướng Hoàng Tiến 黃進 [Huỳnh Tấn], Cao Lôi Liêm tổng binh 高雷廉總兵 Trần Thượng Xuyên 陳上川 và phó tướng Trần An Bình 陳安平 đem hơn 3.000 quân và hơn 50 chiến thuyền đến các cửa biển Tư Dung 思容 và Đà Nẵng 沱㶞, tự trần là bô thần 逋臣 (1. Bề tôi vì nước mất nên trốn ra ngoài.) nhà Minh, nghĩa không chịu làm tôi nhà Thanh, nên đến để xin làm tôi tớ [chúa Nguyễn]. Bấy giờ bàn bạc rằng : Phong tục tiếng nói của họ đều khác, khó bề sai dung, nhưng họ bị thế cùng bức bách đến đây thì không nỡ cự tuyệt. Nay đất Đông Phố 東浦 (tên cổ của Gia Định) nước Chân Lạp đồng ruộng phì nhiêu nghìn dặm, triều đình chưa rỗi mà kinh lý, chi bằng nhân lấy sức của họ cho đến khai khẩn để ở, làm một việc mà lợi ba điều. Chúa theo lời bàn, bèn sai đặt yến úy lạo khen thưởng, trao cho quan chức khiến đến ở đất Đông Phố. Lại cáo dụ nước Chân Lạp rằng như thế là có ý không để nước Chân Lạp ra ngoài. Bọn Ngạn Địch đến cửa khuyết tạ ơn để đi. Binh thuyền của Ngạn Địch và Hoàng Tiến đi vào cửa biển Lôi Lạp 雷巤 (nay thuộc Gia Định), trú đóng ở Mỹ Tho 美湫 (nay thuộc Định Tường); Thượng Xuyên và An Bình đi vào cửa biển Cần Giờ 芹蒢 [Cần Trừ, Cần Dừa], trú đóng ở Bàn Lân 盤轔 (nay thuộc Biên Hòa 邊和). Họ vỡ đất hoang, dựng phố xá, thuyền buôn của người Thanh 清人 và các nước Tây Dương 西洋, Nhật Bản 日本, Chà Và 闍婆 [Đồ Bà] đi lại tấp nập, do đó mà phong hóa Hán 漢風 [phong hóa văn minh] thấm dần vào đất Đông Phố.

Tiền biên – Quyển VII – Thực lục về Hiển tông Hiếu minh hoàng đế (Thượng)

Hiển tông Anh Mô Hùng Lược Thánh Văn Tuyên Đạt Khoan Từ Nhân Thứ Hiếu Minh Hoàng đế, húy là Chu 淍, sinh năm ất mão [1675] (Lê Đức Nguyên năm 2, Thanh Khang Hy năm 14), là con cả của Anh tông Hiếu nghĩa hoàng đế, mẹ là Hiếu nghĩa hoàng hậu Tống thị.

Mậu dần, năm thứ 7 [1698], mùa xuân, tháng giêng, sai quan làm duyệt tuyển lớn.

Trịnh Căn nhà Lê sai tướng là Trịnh Huyên làm Trấn thủ Nghệ An, kiêm trấn châu Bắc Bố Chính.

Tháng 2, sai Cai cơ thủy quân là Nguyễn Hữu Khánh 阮有慶 và Nguyễn Cửu Vạn 阮久萬 giữ các cửa biển.

Bắt đầu đặt phủ Gia Định 嘉定府. Sai Thống suất Nguyễn Hữu Kính kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố 東浦, lấy xứ Đồng Nai 鹿野處 [Lộc Dã xứ] làm huyện Phước Long 福隆 (nay thăng làm phủ), dựng dinh Trấn Biên 鎮邊 (tức Biên Hòa 邊和 ngày nay), lấy xứ Sài Gòn 柴棍 làm huyện Tân Bình 新平 (nay thăng làm phủ), dựng dinh Phiên Trấn 藩鎮 (tức Gia Định 嘉定 ngày nay), mỗi dinh đều đặt các chức lưu thủ, cai bạ, ký lục và các cơ đội thuyền thủy bộ tinh binh và thuộc binh. Mở rộng đất được nghìn dặm, được hơn 4 vạn hộ, bèn chiêu mộ những dân xiêu dạt từ Bố Chính trở về Nam cho đến ở cho đông. Thiết lập xã thôn phường ấp, chia cắt giới phận, khai khẩn ruộng nương, định lệnh thuế tô dung, làm sổ đinh điền. Lại lấy người Thanh 清人 đến buôn bán ở Trấn Biên lập làm xã Thanh Hà 清河社, ở Phiên Trấn, lập làm xã Minh Hương 明香社  (nay là Minh Hương 明鄉 ). Từ đó người Thanh tới buôn bán hay cư ngụ đều thành dân hộ [của ta].

Tiền biên – Quyển X (10) – Thực lục về Thế tông Hiếu vũ hoàng đế

Thế tông Càn Cương Uy Đoán Thần Nghị Thánh Du Nhân Từ Duệ Trí Hiếu vũ hoàng đế, húy là Khoát 濶, lại húy là Hiểu 曉, sinh năm Giáp ngọ [1714] (Lê Vĩnh Thịnh năm 10, Thanh Khang Hy năm 53), là con cả của Túc tông Hiếu ninh hoàng đế.

Giáp tý, năm thứ 6 [1744], mùa hạ, tháng 4. Bấy giờ có điềm tốt cây sung 優曇 [ưu đàm] nở hoa, bầy tôi là bọn Nguyễn Đăng Thịnh 阮登盛 dâng biểu xin chúa lên ngôi vương (Đại lược nói rằng : Chính danh phận khi nước buổi đầu đổi mới, sửa lễ nhạc sau khi tích đức trăm năm. Lại nói :  Nghiệp bá vững bền, miền Đông Nam cờ vàng xuất hiện ; triệu vương rộng thấy, bên Vị bắc ấn ngọc rủi ngay. Bầy tôi sắp hàng mà trấn thỉnh : Các sao đã chầu về Tử vi (1. Tử vi : Một chòm sao ở bắc cực, tượng trưng ngôi vua.); mặt trời đã lên đến Hoàng đạo (2. Hoàng đạo :Theo thiên văn xưa, là đường đi của mặt trời, ví với đạo làm vua.). Chỉ với 70 dặm bờ cõi, [nhà Thương] đã dựng nền huyền điểu (3. Huyền điểu : Bà Giản Địch nuốt trứng chim Huyền diệu mà đẻ ra thủy tổ nhà Thương.), huống hồ 3.000 dặm dư đồ, sao còn đứng địa vị hoàn khuê (4. Hoàn khuê : Cái hốt bằng ngọc khuê, tước công cầm khi chầu vua.)?.

Chúa nhún nhường không chịu nhận. Bầy tôi hai ba lần nài xin, chúa mới theo.

Ngày Canh tuất, đúc ấn quốc vương 國王印 (Trước thì khi bổ dùng quan lại chỉ dùng chữ “phó” 付, bên dưới kèm dấu “Thái phó quốc công 太傅國公”, và dùng ấn “Tổng trấn tướng quân 總鎮將軍”).

Ngày Kỷ mùi, chúa lên ngôi vua ở phủ chính Phú Xuân. Xuống chiếu đại xá trong nước. Chiếu rằng : “Trời đất thi nhân cởi mở, khắp bờ cõi đều thấm nhuần; nhà vua thuận đạo lên ngôi, mọi người vật đều đổi mới. Vàng ngọc rực rỡ, lời tơ truyền xa. Nhà nước ta, phát tích Ô Châu 烏州, vâng mệnh dựng nước. Hoàng tổ một phương hùng cứ, đã có được một nửa non sông; Thần tông bảy huyện mở mang (1. Bảy huyện : Phú Vang, Hương Trà, Quảng Điền, Vũ Xương, Hải Lăng, Lệ Thủy, Khang Lộc.), sắp thu cả đất đai gấm vóc. Nghiệp bá đường kinh doanh lớn ; ơn trời giúp mở rộng thêm. Minh miếu (2. Minh miếu : Hiếu minh hoàng đế [Phúc Chu].) vũ uy, dẹp yên giặc chốn Đông Phố 東浦, hoàng khảo (3. Hoàng khảo : Người sinh ra vua, tức Hiếu ninh hoàng đế Nguyễn Phước Chu.) văn trị trau chuốt lòng dân miền Nam. Bốn phương nhờ ơn ; đời đời để đức. Phong thư vào ngọc kiểm (4. Ngọc kiểm : Nắp hòm sách dát ngọc, xưa nhà vua khắc đá ghi thành công, bỏ vào  hòm đậy nắp như thế phong lại.), nguyện vọng non sông còn chờ; chưa đổi bực hoàn khuê (5. Hoàn khuê : Xem chú ở tr.150.), tấm lòng quỳ hoắc (6. Quý hoắc : Lòng hướng về vua Lê, như hoa quỳ lá hoắc hướng về ánh mặt trời.) giữ mãi. nay ta tuổi trẻ, vâng nối nghiệp xưa, mới cầm quyền chính bảy năm, chưa có uy quân tháng sáu (7. Tuyên vương Tĩnh nhà Chu, tháng sáu cất quân đánh giặc Nghiễm Doãn, thành công, người ta làm thơ thuật lại chiến sự, tức là bài “Lục nguyệt” trong Tiểu nhã Kinh Thi.). Thầm nghĩ nước chưa thống nhất, giặc chưa dẹp yên, vẫn gắng noi theo tiên tổ. Ngờ đâu người đều đồng tâm, thần báo điềm tốt, ân cần khuyên giục xưng vương. Vừa rồi lớn nhỏ đều tin, thứ hàng đầy đủ. Theo hào bốn quẻ Kiền, rồng hoặc đã nhảy, còn chờ thời nên khiêm tốn; theo hào ba quẻ Khôn, ngựa lợi đi nhanh, nên tất cả đều tôn phò. Mặc dầu thoái thác ba bốn lần, khó ngăn được thần dân nguyện vọng. Ta đành buộc lòng, thuận theo ý chúng. Cho nên ngày 12 tháng 4 năm nay lên ngôi vương, đại xá trong nước, để sáng thêm ơn đức của tám đời, để tỏ lòng lợi dân trong bốn cõi. Mong thần dân các ngươi thấm nhuần mỹ hóa. Ôi ! đổi mới mệnh trời ở người có đức, để chở cơ đồ Hậu Tắc Công Lưu ; dìu dắt thiên hạ đến cõi thái bình, mong thấy cảnh đời Thành Chu Ngu Thuấn”.

Khiến gọi nơi phủ ở là điện, đổi chữ “thân” làm chữ “tấu”, phàm văn thư vẫn dùng niên hiệu vua Lê, nhưng với các thuộc quốc thì xưng là thiên vương.

Đinh mão, năm thứ 9 [1747], mùa xuân, tháng giêng, khách buôn người Thanh là Lý Văn Quang 李文光 đánh úp dinh Trấn Biên. Cai cơ Tống Phước Đại 宋福大 đánh dẹp được. Văn Quang người Phước Kiến sang ngụ ở bãi Đại Phố, Biên Hòa. Bấy giờ trong nước bình yên đã lâu, ít dùng binh. Văn Quang ngấm ngầm có ý dòm ngó, bèn mưu làm loạn. Hắn tụ đảng hơn 300 người, tự xưng là Đông Phố đại vương 東浦大王, lấy đồng đảng là Hà Huy 何輝 làm quân sư, Tạ Tam, Tạ Tứ làm tả hữu đô đốc, mưu đánh úp dinh Trấn Biên. Sợ Cai bạ Nguyễn Cư Cẩn 阮居謹 võ nghệ giỏi mạnh nên chúng mưu trừ trước. Bèn nhân tiết Nguyên đán phục quân để đâm. Cư Cẩn bị thương mà còn tự tay đâm chết được 5, 6 người, sau vì vết thương nặng mà chết. Quân bộ thuộc nghe tin tới cứu. Văn Quang chạy, chặn cầu để chống. Lưu thủ Nguyễn Cường đem binh của dinh dàn ở bờ phía bắc, gửi hịch báo Cai cơ đạo Hưng Phước là Tống Phước Đại hợp quân đánh dẹp. Bắt được Văn Quang và đồ đảng 57 người. Chúa thấy là người Thanh không giết vội, đều hạ ngục.

Chính biên

Đệ nhất kỷ – Quyển II – Thực lục về Thế tổ cao hoàng đế

Quý mão, năm thứ 4 [1783] (Lê Cảnh Hưng năm thứ 44, Thanh Càn Long năm thứ 48), mùa xuân, tháng giêng, lấy Hồ Văn Lân, Đặng Văn Lượng và Nguyễn Văn Thảo làm Khâm sai chưởng cơ.

Tháng 6, vua đóng ở hòn Điệp Thạch [hòn Đá Chồng] thuộc Phú Quốc. Thống suất giặc là Phan Tiến Thận thình lình đem quân đến. Cai cơ Lê Phước Điển xin mặc áo ngự mà đứng ở đầu thuyền. Giặc tranh nhau đến bắt. Vua bèn đi thuyền khác ra đảo Côn Lôn. Tôn Thất Điển (con thứ sáu Hưng Tổ), cùng Chưởng Thủy dinh Tôn Thất Cốc, Chưởng cơ Hoảng và Vinh Li Ma đều bị Tây Sơn bắt. Giặc lấy lời dụ dỗ và muốn dùng. Cốc cả tiếng mắng rằng : “Ta thà làm ma ở Đông Phố 東浦, không thèm làm tôi của Tây Sơn!” Tôn Thất Điển và Lê Phước Điển lại chửi mắng không ngớt. Tây Sơn đều giết cả. (Tôn Thất Điển năm Gia Long thứ 5 được tòng tự ở Thái miếu; năm Minh Mệnh thứ 5 đổi cho tòng tự ở Thế miếu ; năm thứ 12 phong Thông Hóa quận vương ; Cốc được tặng Chưởng dinh, Phước Điển tặng Chưởng cơ). Vợ Hoảng là Thị Tính bị giặc bắt, đến đây nghe tin Hoảng bị hại, cũng gieo mình xuống sông tự tử.