Ki là đồ đương bằng tre, mây thường dùng mà xúc đất, hoặc hốt rác. (Theo Huỳnh Tịnh Paulus Của trong Đại Nam quấc âm tự vị).
Người Khmer gọi cái ki là “bangki” បង្គី.
(Ảnh chụp tại Tri Tôn ngày 28/8/2022)

Ki là đồ đương bằng tre, mây thường dùng mà xúc đất, hoặc hốt rác. (Theo Huỳnh Tịnh Paulus Của trong Đại Nam quấc âm tự vị).
Người Khmer gọi cái ki là “bangki” បង្គី.
(Ảnh chụp tại Tri Tôn ngày 28/8/2022)
Theo Wikipedia, Cá cóc hay cá cóc sông, tiếng Thái: ปลาตะโกก (Danh pháp khoa học: Cyclocheilichthys enoplos là một loài cá trong họ Cá chép Cyprinidae. Đây là một trong số ít thủy sản đặc hữu thuộc lưu vực sông Mekong (như cá tra dầu, cá hô, cá vồ cờ, cá bông lau…). Ở Việt Nam thường ẩn nấp nơi vực sâu xoáy nước, trụ cầu hoặc bến phà hay gốc cây ngầm, dọc sông Tiền và sông Hậu, theo một số thợ câu chuyên nghiệp ở Vĩnh Long, Bến Tre. Đây là một loại cá đặc sản, quý hiếm ở sông Tiền. (https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1_c%C3%B3c)
Cái Răng là tên rạch, tên xứ, tên chợ, tên chợ nổi, tên quận, tên thị trấn… nay thuộc địa bàn thành phố Cần Thơ.
Rạch Cái Răng là một chi lưu của rạch (cũng gọi là sông) Cần Thơ. Vàm Cái Răng cách vàm Cần Thơ khoảng 6 km. Rạch Cái Răng có một chi lưu là rạch Cái Răng Bé, nhưng Chợ nổi Cái Răng lại nằm trên rạch Cần Thơ. Rạch Cái Răng, Lê Quang Định trong Hoàng Việt nhất thống dư địa chí 1806 (Quyển 7) chép là “Cái Răng rạch” 丐𪘵瀝 (tờ 1010-(74b)); trong đó chữ “Răng” 𪘵 gồm bộ “xỉ” 齒 bên trái và chữ “lăng” 夌 bên phải.
Theo Huình Tịnh Paulus Của trong Đại Nam quốc âm tự vị, kèo nèo là cái “móc dài, cái kèo móc” (Quyển I, tr.473), là “cây khều móc” (Quyển II, tr.76). Cây kèo nèo cũng gọi là cây cù nèo. Trong dân gian có các câu ví “Lấy vợ không cheo như cù nèo không mấu”, “Phảng ở đâu cù nèo ở đó”. Phảng và cù nèo là 2 nông cụ: phảng dùng để phát (chém, chặt) cỏ, cù nèo dùng để móc, ngéo cỏ.
សៃវៀន | () ring (for boxing or cock-fighting), arena; fishing ground IPA: /sayvien/ |
Cá cóc hay cá cóc sông, tiếng Thái: ปลาตะโกก, tiếng Khmer ឆ្កោក /ckaok/ (Danh pháp khoa học: Cyclocheilichthys enoplos là một loài cá trong họ Cá chép Cyprinidae. Đây là một trong số ít thủy sản đặc hữu thuộc lưu vực sông Mekong (như cá tra dầu, cá hô, cá vồ cờ, cá bông lau…). Ở Việt Nam thường ẩn nấp nơi vực sâu xoáy nước, trụ cầu hoặc bến phà hay gốc cây ngầm, dọc sông Tiền và sông Hậu, theo một số thợ câu chuyên nghiệp ở Vĩnh Long, Bến Tre. Đây là một loại cá đặc sản, quý hiếm ở sông Tiền.
Cá linh cám (tên khoa học: Thynnichthys thynnoides) là một loài cá thuộc chi Cá linh cám thuộc họ Cá chép[5][6]. Loài này được Bleeker miêu tả năm 1852. Chúng phân bố trong lưu vực các sông Mê Kông và Chao Phraya, bán đảo Mã Lai, Sumatra, Borneo. Có thể có tại sông Mae Klong. Tên gọi trong tiếng Khmer là លេញ /lǝɲ/ linh, trey kros memay, trey lenh, trey linh.[7]
លេញ | () kind of small white bony freshwater fish (prob. Dangila siamensis) (v) to speak ironically; to joke, kid around IPA: /lǝɲ/ |
Cá sặc rằn (danh pháp hai phần: Trichopodus pectoralis[4]) là một loài cá nước ngọt nằm trong họ Cá tai tượng, bản địa của Đông Nam Á.
Cá sặc rằn còn được biết đến với nhiều tên gọi khác như cá sặc bổi, cá rô tía da rắn/cá rô tía Xiêm (tiếng Thái: ปลาสลิด, Phát âm tiếng Thái: [Plà salịt]) hay cá lò tho[5], tiếng Khmer gọi là ត្រី កន្ធរ /trei kantho/. Loài cá này là một món ăn quan trọng trong nền ẩm thực của nhiều nước, đồng thời nó cũng được sử dụng làm cá cảnh.
Cá chốt (Danh pháp khoa học: Mystus) là một chi cá da trơn trong họ Cá lăng.
kind of small catfish with two barbs or whiskers (Macrones nemurus) កញ្ចុះ kɑɲcoh
Cá he nghệ hay còn gọi là cá he vàng (Danh pháp khoa học: Barbonymus altus) là một loài cá nước ngọt trong họ cá chép phân bố ở Đông Nam Á.[5][6][7] Loài này sống ở vùng sông Mê Kông và bồn địa sông Chao Phraya. Ở Việt Nam, chúng được bắt gặp nhiều ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, người dân quê thường đánh bắt loại cá này khi vào mùa nước nổi, chúng là một loài cá làm nguyên liệu để chế biến nhiều món ăn.