Chân Lạp trong bộ Tùy Thư

Brian Wu đang  cảm thấy có phúc cùng Lê Ngọc Quốc và 2 người khác.

Yêu thích  · 21 Tháng 9, 2022  · 

Chân Lạp trong bộ Tùy Thư

#tuy_thu#zhenla

Bộ Tùy Thư 隋書 quyển 82 卷八十二 phần Liệt Man 47 列傳第四十七 chương Nam Man 南蠻 có viết về 4 quốc gia xưa là Lâm Ấp [林邑 Linyi], Xích Thổ [赤土 Chitu], Chân Lạp [真臘 Zhenla] và Bà Lợi [婆利 Poli] mà bạn có thể đọc phần Hán ngữ tại đây >> https://zh.m.wikisource.org/…/%E9%9A%8B%E6…/%E5%8D%B782.

Sẵn đã có phần dịch Anh ngữ với chú thích (xem >> https://ari.nus.edu.sg/wp…/uploads/2018/10/wps13_208.pdf) và phần dịch Việt ngữ (xem >> https://www.otofun.net/…/dich-sach-sieu-co-bo…/page-35). Mình xin tạm dịch lại phần Việt ngữ và nêu ra đây để cho các bạn nào có đang nghiên cứu các quốc gia này mà chưa đọc hoặc không đọc đủ trọn vẹn, sẽ được đọc qua phần tạm dịch lại này.

Trong bài viết này, mình xin viết xuống phần tạm dịch lại dành cho nước Chân Lạp

Enjoy nha bạn

Thanks

Brian

Chân Lạp

Nước Chân Lạp [真臘 Zhenla], nằm ở phía tây nam Lâm Ấp [林邑 Linyi], vốn là thuộc quốc của Phù Nam [扶南 Funan] vậy. Chân Lạp cách quận Nhật Nam [日南 Rinan] đi bằng thuyền mất 60 ngày, phía nam giáp nước Xa Cừ [車渠 Chequ], phía tây có nước Chu Giang [朱江 Zhujiang]. Vua nước này họ là Sát Lợi [剎利 Chali], tên là Chất-Đa-Tư-Na [質多斯那 Zhìduōsīnà – Citrasena]. Từ đời tổ tiên của vị vua này, thế nước đã dần dần cường thịnh, đến Chất-Đa-Tư-Na, thì đã đạt được việc thôn tính có được Phù Nam vậy. Khi Chất-Đa-Tư-Na mất đi, con là Y-Xa-Na-Tiên-Đại [伊奢那先代 Yīshēnàxiāndài – Īśānavarman] kế vị. Vua sống ở thành Y-Xa-Na [伊奢那 Yīshēnà – Īśānapura]. Thành ngoài thì có hơn 2 vạn nhà. Thành trong thì có một tòa đại đường, là nơi mà vua ngự triều. Nước có 30 thành lớn, mỗi thành có vài ngàn nhà. Mỗi thành đều có bộ soái [chỉ huy], quan chức thì giống như ở Lâm Ấp. Vua mỗi 3 ngày thính triều 1 lần, ngồi trên sàng gỗ ngũ hương thất bảo [五香七寶], phía trên sàng giăng màn bảo trướng. Trướng này dùng gỗ tốt làm cột, vách trướng khắc ngà khảm kim, diện mạo [ngự] sàng tựa như ngôi buồng nhỏ, treo lửng lơ sáng tỏa ánh vàng, giống như cảnh tại Xích Thổ [赤土 Chitu] vậy. Phía trước sàng là lò hương bằng vàng, với hai kẻ hầu đứng hai bên. Vua khoác [triều phục] triều hà cổ bói [朝霞古貝 chaoxia gubei], trùm quấn lưng bụng, rủ xuống đến cẳng chân, đầu đội mũ hoa kim bảo, cổ đeo chuỗi ngọc trân châu, chân đi hài da, tai đeo khuyên tai châu ngọc. Vua ngày thường mặc bạch diệp [白疊 baidie], đi guốc ngà. Nếu vua đầu để trần thì cổ không đeo chuỗi ngọc trân châu. Cách ăn mặc của quần thần, phần lớn đều tương tự như nhau.

Triều đình có 5 vị đại thần. Vị thứ nhất là Cô-Lạc-Chi [孤落支 Gūluòzhī]. Vị thứ hai là Cao-Tương-Bằng [高相憑 Gāoxiāngpíng]. Vị thứ ba là Bà-Hà-Đa-Lăng [婆何多陵 Póhéduōlíng]. Vị thứ tư là Xá-Ma-Lăng [舍摩陵 Shèmólíng]. Vị thứ 5 là Nhiêm-Đa-Lâu [髯多婁 Ránduōlóu], cùng với các quan tiểu thần. Khi chầu vua, thời phải rập đầu mà lạy dưới thềm ba lạy. Vua vời lên thềm, thì phải quỳ xuống, dùng hai tay ôm lấy cánh tay, ngồi xung quanh cạnh vua. Việc chính sự nghị luận xong rồi, thì nép mình quỳ xuống mà rời đi. Nơi lầu gác môn cổng ở thềm điện cung đình, có hơn ngàn lính thị vệ, mặc giáp cầm trượng. Nước này cùng 2 nước Tham Bán [參半 Canban] và Châu Giang [硃江 Zhujiang] đều sống hòa thuận, nhưng nhiều lần có chiến tranh với 2 nước Lâm Ấp và Đa Hoàn [陀桓 Tuohuan]. Người nơi này lúc làm việc hay nghỉ ngơi đều mặc giáp trượng, để nếu có chinh phạt, thì có thể dùng vũ khí ngay vậy. Phong tục nơi này nếu không phải con của người vợ chính thất của vua, thì không thể nối ngôi. Những ngày đầu mà vua lên ngôi, toàn thể anh em trai của nhà vua đều chịu hình phạt tàn khốc, như chặt một ngón tay, hoặc bị xẻo mũi, rồi họ được cung cấp [lương thực tiền bạc] để sống biệt xứ, không được làm quan.

Người Chân Lạp dáng người nhỏ, nước da sắc đen. Phụ nữ cũng có người da trắng. Tất cả đều búi tóc và đeo khuyên tai, tánh khí nhanh nhẹn cứng cỏi. Nhà cửa và đồ dùng tương tự như tại Xích Thổ vậy. Dùng tay phải cho việc sạch sẽ, tay trái cho việc uế tạp. Sáng nào cũng đều tắm rửa, và dùng que cây [楊枝 dương chi] để làm sạch răng, rồi tụng đọc kinh kệ. Lại rửa ráy rồi ăn, ăn xong lại dùng que cây để làm sạch răng, rồi lại đọc kinh kệ. Ăn uống nhiều món sữa đông [蘇酪 – Anh ngữ Milk Curd], cùng đường cát, gạo tẻ, và bánh gạo. Khi muốn ăn, họ trước tiên chan nước canh hầm nhiều loại thịt vào cùng với bánh bột, rồi dùng tay bốc lấy mà ăn. Để lấy vợ, chỉ cần đưa [cho nhà gái] một bộ quần áo, chọn ngày rồi nhờ bà mối đến đón dâu. Hai bên gia đình nhà trai nhà gái trong cả 8 ngày đều không ra khỏi nhà, cả ngày lẫn đêm đều đốt đèn không dứt. Khi việc cưới hỏi đã xong, thì người đàn ông tức thì cùng cha mẹ phân chia tài sản sống riêng. Lúc cha mẹ mất, con trai còn nhỏ hoặc chưa kết hôn thì chia nhau số gia tài còn lại. Nếu đã cưới hỏi xong, thì gia tài sẽ bị sung công. khi có tang, con trai, con gái đều nhịn ăn trong 7 ngày, bức tóc gào khóc, tăng ni [Phật tử], đạo sĩ [Bà La Môn], thân bằng cố hữu cùng lại tụ họp, và cử nhạc đưa tiễn. Lấy gỗ ngũ hương để thiêu xác, thu tro cốt lấy bình vàng bạc để mà đựng, rồi thả táng xuống vùng nước lớn. Nhà nghèo có thể dùng hủ sành, nhưng phải vẽ màu vậy. Cũng có khi không đem thiêu, thì đưa thi thể vào rừng, như là để cho thú hoang ăn thịt.

Nước này phía bắc nhiều núi đồi, phía nam lắm sông đầm, khí hậu nóng lạ, không có tuyết sương, nhiều chướng khí có hại, lắm trùng độc rắn rết. Thổ nhưỡng hợp với cao lương, ít lúa nếp, so với Nhật Nam và Cửu Chân thì ít rau hơn. Những loại khác biệt có cây Bà-Na-Sa [婆那娑 – Sanskrit पनस, Panasa – cây Mít], không hoa, lá giống lá hồng [柿 – Anh ngữ Persimmon], trái to như trái bí đao. Cây Yểm-La [奄羅 – Sanskrit आम्र Amra – cây Xoài), hoa lá giống như táo [棗 – Anh ngữ Apple], trái giống trái mận [李 – Anh ngữ Plum]. Cây Bì-Dã [毗野 – Sanskrit बिल्व Bilva – Anh ngữ Bael – cây Bầu Nâu], hoa giống hoa mộc qua [木瓜 – Anh ngữ Quince], lá giống lá mơ hạnh [杏 – Anh ngữ Apricot], trái giống trái dó [楮 – Anh ngữ Paper Mulberry]. Cây Bà-Điền-La [婆田羅 – Sanskrit बदर Badarā – Anh ngữ Indian jujube – cây Táo Tàu], hoa lá quả đều giống táo [棗 – Anh ngữ Apple], nhưng có chút khác biệt. Cây Ca-Tất-Đà [歌畢佗 – Sanskrit कपित्थक Khāpittha – Anh ngữ Elephant Apple – cây Quách], hoa giống táo tây [林檎 lâm cầm – Anh ngữ Apple (Malus domestica)], lá giống lá du [榆 du – Anh ngữ Elm] nhưng to dày, trái giống trái mận, loại cây này to mà cao. Còn lại thì hầu hết giống Cửu Chân.

Ở biển thì có loài cá tên Kiến-Đồng [建同 Jiàntóng], có bốn chân [四足], không vảy, mũi như mũi voi, hút nước phun lên, cao đến năm sáu mươi thước. Có loài cá Phù Hồ 浮胡 (浮胡 phù hồ – nổi trên mặt hồ), hình dáng loài này như loài cá Thư [Thư 䱉 là từ cổ của từ Nghê 鮨 – Anh ngữ Whale – cá Kình], nhưng mỏ như mỏ vẹt, có 8 chân [八足]. Hầu hết những con cá lớn, nửa thân nổi lên mặt nước, nhìn như trái núi vậy.

Cứ đến tháng 5 tháng 6, lúc khí độc trôi giạt, tức thì người ta đem lợn trắng, bò trắng, dê trắng đến ngoài cổng thành phía Tây để hiến tế vậy. Nếu không như thế, thì ngũ cốc không được mùa, lục súc lăn ra chết, con người bị dịch bệnh.

Gần đô thành có núi Lăng-Cà-Bát-Bà [陵伽缽婆 – Sanskrit Lingaparava – Mountain of Linga – Núi Linga – một giả thuyết là núi Mount Santuk gần đô thành Īśānapura], trên núi có đền thần, luôn luôn có 5.000 lính gác ở đó. Phía Đông thành có vị thần tên là Bà-Đa-Lợi [婆多利 – Sanskrit Bhadreśvara – thần Shiva] khi cúng tế phải dùng thịt người. Mỗi năm nhà vua phải giết người, và cúng tế cầu đảo vào ban đêm, nơi này cũng có ngàn lính bảo vệ. Việc kính thờ quỷ thần nơi này là như thế. Hầu hết đều thờ Phật pháp, nhưng cũng tin vào đạo sĩ [Bà La Môn]. Phật tử lẫn đạo sĩ [Bà La Môn] đều đặt tượng thờ tại các công quán.

Đại Nghiệp năm thứ 12 [thời Tùy Dạng Đế – năm 616], [Chân Lạp] sai sứ giả sang cống tiến, Hoàng đế tiếp đãi rất hậu hĩnh, sau đó [việc cống tiến lại] chấm dứt đi.

****

真臘

  真臘國,在林邑西南,本扶南之屬國也。去日南郡舟行六十日,而南接車渠國,西有朱江國。其王姓剎利氏,名質多斯那。自其祖漸已強盛,至質多斯那,遂兼扶南而有之。死,子伊奢那先代立。居伊奢那城,郭下二萬餘家。城中有一大堂,是王聽政之所。總大城三十,城有數千家,各有部帥,官名與林邑同。其王三日一聽朝,坐五香七寶牀,上施寶帳。其帳以文木為竿,象牙、金鈿為壁,狀如小屋,懸金光焰,有同於赤土。前有金香鑪,二人侍側。王著朝霞古貝,瞞絡腰腹,下垂至脛,頭戴金寶花冠,被真珠瓔珞,足履革屣,耳懸金璫。常服白疊,以象牙為屩。若露髮,則不加瓔珞。臣人服製,大抵相類。有五大臣,一曰孤落支,二曰高相憑,三曰婆何多陵,四曰舍摩陵,五曰髯多婁,及諸小臣。朝於王者,輒以階下三稽首。王喚上階,則跪,以兩手抱膊,遶王環坐。議政事訖,跪伏而去。階庭門閣,侍衛有千餘人,被甲持仗。其國與參半、朱江二國和親,數與林邑、陀桓二國戰爭。其人行止皆持甲仗,若有征伐,因而用之。其俗非王正妻子,不得為嗣。王初立之日,所有兄弟並刑殘之,或去一指,或劓其鼻,別處供給,不得仕進。

  人形小而色黑。婦人亦有白者。悉拳髮垂耳,性氣捷勁。居處器物頗類赤土。以右手為淨,左手為穢。每旦澡洗,以楊枝淨齒,讀誦經咒。又澡洒乃食,食罷還用楊枝淨齒,又讀經咒。飲食多蘇酪、沙糖、秔粟、米餅。欲食之時,先取雜肉羹與餅相和,手擩而食。娶妻者,唯送衣一具,擇日遣媒人迎婦。男女二家各八日不出,晝夜燃燈不息。男婚禮畢,即與父母分財別居。父母死,小兒未婚者,以餘財與之。若婚畢,財物入官。其喪葬,兒女皆七日不食,剔髮而哭,僧尼、道士、親故皆來聚會,音樂送之。以五香木燒屍,收灰以金銀瓶盛,送于大水之內。貧者或用瓦,而以彩色畫之。亦有不焚,送屍山中,任野獸食者。

其國北多山阜,南有水澤,地氣尤熱,無霜雪,饒瘴癘毒蠚。土宜粱稻,少黍粟,果菜與日南、九真相類。異者有婆那娑樹,無花,葉似柿,實似冬瓜;菴羅樹,花葉似棗,實似李;毗野樹,花似木瓜,葉似杏,實似楮;婆田羅樹,花葉實並似棗而小異;歌畢他樹,花似林檎,葉似榆而厚大,實似李,其大如升。自餘多同九真。

海中有魚名建同,四足,無鱗,其鼻如象,吸水上噴,高五六十尺。有浮胡魚,其形似〈魚且〉,嘴如鸚鵡,有八足。多大魚,半身出水,望之如山。

  每五六月中,毒氣流行,即以白豬、白牛、白羊於城西門外祠之。不然者,五穀不登,六畜多死,人衆疾疫。近都有陵伽缽婆山,上有神祠,每以兵五千人守衛之。城東有神名婆多利,祭用人肉。其王年別殺人,以夜祀禱,亦有守衛者千人。其敬鬼如此。多奉佛法,尤信道士,佛及道士並立像於館。

  大業十二年,遣使貢獻,帝禮之甚厚,其後亦絕。

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *