Cao Văn Nghiệp – Cây Bàng, Cỏ Bàng

Cá Vàng cùng với Nguyễn Thanh Lợi.

Yêu thích  · 2 ngày  · 

CỎ BÀNG & CÂY BÀNG TRONG 2 ĐỊA DANH Ở SÀI GÒN XƯA?

Trong bài “Tên cỏ cây hoa lá Sài Gòn xưa vẫn mãi còn”, tác giả Phúc Tiến có nêu khá nhiều tên “cỏ cây hoa lá”, ví dụ như Bằng Lăng, Bần – tên Hán Việt là Thủy Liễu, Lá Buông (Bối diệp), Cám, Cui, Củ Chi, Da, v.v…

Vì tác giả không nêu tên khoa học của từng tên “cỏ cây hoa lá” được nêu, cũng không viết chữ Hán đối ứng với tên Hán Việt (nếu có), nên chúng tôi băn khoăn không biết tác giả muốn nói cây gì. Ví dụ như “cỏ Bàng” và “cây Bàng”, tác giả Phúc Tiến viết như sau:

“… Bàng là cỏ Bàng, tên Hán Việt là Thảo câu, còn trong tên rạch Bàng (Quận 7). Bàng còn là cây Bàng có lá dùng để đan buồm cho ghe thuyền – Bến đò Cây Bàng (Thủ Thiêm)” [Hình 1].

Theo chúng tôi được biết, “cỏ Bàng” còn gọi là bàng, cói bàng; tên khoa học là Lepironia articulata, thuộc họ Cói (Cyperaceae); tên chữ Hán là Thạch long sô 石龍芻, Giao tiến thảo 交薦草, Bồ thảo 蒲草. Còn “cây Bàng” thì tên khoa học là Terminalia catappa, thuộc họ Trâm bầu (Combretaceae), tên chữ Hán là Lãm nhân thụ 欖仁樹, Đại diệp lãm nhân thụ 大葉欖仁樹, Lương phiến thụ 涼扇樹, Tì bà thụ 枇杷樹, Sơn tì bà thụ 山枇杷樹.

Cũng theo chúng tôi, “cỏ Bàng” (họ Cói) [Hình 2] là nguyên liệu dùng để đan (đươn) đệm, giỏ xách, nón…; còn “cây Bàng” (họ Trâm bầu) [Hình 3] thì lá của nó dùng làm thuốc chữa bệnh tiêu chảy…, và thông dụng hơn hết có lẽ là làm… chất đốt! Theo bạn Nguyễn Thanh Lợi, “lá buông” mới dùng để dùng đan buồm cho ghe thuyền, tức không phải “lá bàng” như lời của Phúc Tiến

Ảnh 1: copy từ bài ““Cái” trong địa danh Nam Bộ nghĩa là gì?” của Nguyễn Thanh Lợi.

Ảnh 2 và 3: copy từ các trang mạng khác.

Cá Vàng

NHÀ BÀN

Nếu tôi nhớ không lầm, trước 1975, “Nhà ăn” (chỗ ăn cơm) trong Quân trường Quan Trung hoặc Quân trường Thủ Đức thì gọi lả “Phạn xá”, còn ở Quân trường Chi Lăng (nay thuộc Tịnh Biên, An Giang) thì được gọi là “Nhà bàn”. Tôi không biết địa danh Nhà Bàn ở Tịnh Biên, An Giang có liên quan gì đến “nhà ăn” hay không?

Cá Vàng

RẠCH BÀNG & ĐỒN RẠCH BÀNG

Theo HVNTDĐC 1806, Q.2, ở “rạch Bàng” 瀝滂 có “Rạch Bàng thổ đồn” 瀝滂土屯 (đồn đất Rạch Bàng). Đồn này, trong Q.7 chép là “Rạch Bàng đồn” 瀝滂屯 (đồn Rạch Bàng).

Trong GĐTTC, Q.3 (Cương vực chí), đồn này cũng gọi là “Rạch Bàng đồn”, nhưng chữ Bàng chép là “旁” (không có bộ “thủy” 氵); còn trong Q.6 (Thành trì chí) thì chép đồn này là “Thảo Câu đồn” 草溝屯, tức “Bàng” 旁 bị Hán hóa thành “Thảo” 草, “Rạch” 瀝 bị Hán hóa thành “Câu” 溝.

Nguyễn Văn Nghệ

Cỏ bàng ở quê tôi gọi là LÁC (Miền Bắc gọi là CÓI). LÁC dùng để dệt chiếu cọng nhỏ và cao, còn LÁC DẠI thì cọng to và thấp


Nguyễn Thanh Lợi cùng với Cá Vàng.

2 ngày  · 

LÁ BÀNG CÓ DÙNG ĐỂ ĐAN BUỒM CHO GHE THUYỀN KHÔNG?

Trong bài “Tên cỏ cây hoa lá Sài Gòn xưa vẫn mãi còn” trên báo Tuổi trẻ ngày 12/4/2025, Phúc Tiến viết:”Bàng còn là cây Bàng có lá dùng để đan buồm cho ghe thuyền – bến đò Cây Bàng (Thủ Thiêm)”. Đây là một cách hiểu sai về loại thực vật đã được đặt tên trong địa danh ở Sài Gòn.

Lá bàng hình tròn, không có độ bền chắc như loài cây lá cọ (lá buông), nên không dùng để đan buồm cho ghe thuyền được.

Lá buông dùng đan nón lá, giỏ xách, đũa sóng lá, bao bì, tấm đệm… Xưa kia, lá buông còn được dùng để lợp nhà, ngăn vách, cánh buồm…

Người Khmer chọn lá buông làm giấy viết vì lá rất dai, bền, vạch nét chữ rõ ràng và ít bị hư mục.

Gần đây, vẫn còn hàng ngàn người ở dọc theo vùng Rừng Lá, nhiều nhất là dân Xuân Hưng, Xuân Hòa (huyện Xuân Lộc), Hàm Tân, La Gi (tỉnh Bình Thuận) sinh sống bằng nghề chuốt lá buông.

Sách Gia Định thành thông chí ở phần trấn Biên Hòa có nói đến địa danh Bối Diệp giang, còn có tục danh là sông Lá Buông: “cư dân sinh sống bằng cách lấy lá buôn dệt buồm, đan tấm, đánh dây, chặt tàu đem bán”. Hoàng Việt nhất thống dư địa chí năm 1806 có ghi địa danh: “rạch Lá Buông”, “cầu Lá Buông”.

Năm 1964, trên bản đồ do chính quyền Việt Nam cộng hòa ấn hành ghi địa danh này thành “sông Lá Buông”, từ đó mọi người quen miệng gọi là lá buông – nguyên liệu độc đáo để chế tạo ra hàng chục mặt hàng thủ công mỹ nghệ góp phần phục vụ cho đời sống, sản xuất và xuất khẩu.

Theo anh Nguyễn Văn Nghệ (Khánh Hòa), bài vè CÁC LÁI của dân ghe bầu miền Trung: “Nha Trang, cửa Chụt bao xa/ kẻ vô mua đệm, người ra mua chằng”. Mua đệm tức là mua buồm đan bằng lá buông/ Mua chằng là mua song mây. Ngày xưa phía trong ngã ba trong Ninh Hòa có một bến đò gọi là bến đò LÁ. Từ bến đò này lá buôn được đưa vào miền trong để bán. Nay có con đường nối từ quốc lộ 1 xuống bến đò gọi là đường Bến Đò.

Địa danh Cây Bàng (Thủ Thiêm) được đặt do ngày trước có cây bàng to nơi đây, là loài thân gỗ, nó khác với rạch Bàng (gần cầu Tân Thuận 2, quận 7), chỉ loài cỏ bàng, tên chữ là Thảo Câu. Bến đò Thủ Thiêm còn được gọi là bến đò/bến phà Cây Bàng (Bắp non mà nướng lửa lò / Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm).

Do vậy khi viết về địa danh mang tên cây cỏ thì ít nhất người viết cũng phải có những kiến thức sơ đẳng về thực vật, để khỏi phải dẫn dắt bạn đọc hiểu sai bởi kiến thức hạn chế của mình!


Cá Vàng cùng với Nguyễn Thanh Lợi.

Yêu thích  · 1 ngày  · 

KHÔNG TÂM BỒ Ở VÙNG ĐỒNG THÁP MƯỜI?

Trong bài “Làng nghề đươn bàng Ba Chúc, An Giang” của Ngọc Anh có đoạn sau đây:

“Nguyên liệu chính của nghề này là cây cỏ bàng. Cây cỏ bàng được sử gia Trịnh Hoài Đức (1765-1825) gọi là “không tâm bồ” có nhiều ở vùng Đồng Tháp Mười trong sách Gia Định thành thông chí viết từ thế kỷ 19. Cây cỏ bàng có tên khoa học là Lepironia articulate, cây thích nghi tốt ở vùng đất bùn lầy, phèn chua ở các tỉnh như Tiền Giang (Phú Mỹ, Tân Phước), Long An (Đức Hòa, Đức Huệ, Vĩnh Hưng…), An Giang, Kiên Giang…” (https://canthotourism.vn/vi/detailnews/…)

Như vậy, theo tác giả Ngọc Anh, CÂY CỎ BÀNG được Trịnh Hoài Đức, trong Gia Định thành thông chí, gọi là KHÔNG TÂM BỒ và cho biết cây này có nhiều ở VÙNG ĐỒNG THÁP MƯỜI.

Nhờ các bạn cho biết:

– “Không tâm bồ” chữ Hán viết ra sao? Và 3 chữ này được Trịnh Hoài Đức chép trong quyển số mấy?

– “Vùng Đồng Tháp Mười” trong Gia Định thành thông chí viết chữ Hán ra sao? Lúc đó vùng này thuộc trấn nào?

Tran Kong

Dạ , gởi thầy Cá Vàng :

Tôi cũng là dân Đồng Tháp Mười. Quả thiệt vùng này có sanh kế từ cỏ bàng.

Riêng “không tâm bồ” thì tôi không biết. Xin gởi lên 1 loại rau khác gọi là “không tâm thái” = rau muống. 空心菜 (có thể từ cổ là 無心菜 ) . Vì bản chất là “rỗng ruột = không tâm”. Theo cách hiểu của ng Hoa thì có vài ba loại rau (cỏ) “vô tâm”.

Xin mạn phép chút xíu ngoài lề : vùng Tân Túc – Tân Nhựt của huyện Bình Chánh (Sài Gòn) giáp ranh Bến Lức cũng sanh kế từ cỏ bàng (đệm , tụng , chiếu .v.v…). ” Lấy chồng Tân Nhựt , tuy cực cũng nhàn. Lấy chồng Tân Túc giã bàng chai tay. ” Chợ Đệm cái tên đã nói lên tất cả đặc trưng của vùng này.

Kính.

Nguyễn Phước Huy

Cháu coi trong sách Gia Định thành thông chí, tập thượng có in kèm nguyên tác Hán văn do Tu Trai Nguyễn Tạo dịch, Nha Văn hóa, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa xuất bản năm 1972 thì “Không tâm bồ” chữ Hán viết là “空心蒲”, được chép trong quyển số 2, gần cuối của phần viết về Định Tường trấn. Còn “橙江” /Tranh giang, liệu có phải là Bến Tranh không chú?

Cá Vàng

Cám ơn bạn. Nhờ bạn mà tôi tìm thấy trong GĐTTC 1820, Q.2: Cương vực chí, mục Định Tường trấn, tiểu mục Lâm tẩu (bản chữ Hán của Viện Sử học) mấy chữ “空心蒲俗名𦹯旁” (không tâm bồ, tục danh cỏ bàng).